Thần đạo học theo Giáo Sĩ JOHN DRANGE OLSEN (1893-1954)

Một trong những người giữ vai trò quan trọng trong công cuộc truyền giáo và xây dựng Hội Thánh Tin Lành Việt Nam là giáo sĩ tiền phong đầy ơn và lẽ thật, John Drange Olsen. Ông là vị đốc học nổi tiếng của trường Kinh Thánh Đà Nẵng, hết lòng hầu việc Chúa, tận hiến đời mình để truyền rao Tin lành cứu rỗi và khi gửi xác thân lại tại Việt Nam đã để lại cho Hội Thánh tại Việt Nam nhiều di sản quý giá.

John Drange Olsen ra đời tại đảo Tusnes, gần Bergen (Na Uy) ngày 23 tháng 7 năm 1893 trong một gia đình tin kính Chúa. Cha ông là giáo sư; mẹ là một tấm gương sáng về người nữ cầu nguyện trong Hội thánh và gia đình. Bà sớm được Chúa gọi về nước Ngài khi Olsen mới tròn bảy tuổi.

Mười sáu tuổi, John Drange Olsen phải đến Mỹ để sống cùng với anh chị em của mình. Cũng từ lúc đó, ở trong xứ mà chàng cho là đượm sữa và mật, chàng thiếu niên Olsen đã ôm mộng trở thành triệu phú và bắt đầu sự nghiệp bằng những chuyến phiêu lưu kiếm tiền. Hằng ngày chàng những mong giấc mơ làm giàu của mình sẽ nhanh chóng trở thành hiện thực. Rủi thay chàng đã vướng phải bệnh lao. Một thân trơ trọi nơi đất khách quê người, lòng cô đơn, chán nản, chàng lang thang hết phố này đến phố khác trong sự tuyệt vọng vì bệnh tật. Đức Chúa Trời “chẳng bẻ cậy sậy đã gãy, chẳng tắt ngọn đèn gần tàn, cho đến chừng nào người khiến sự công bình được thắng” (Mat 12:20). Một ngày trong những ngày tháng u ám đó, John Drange Olsen đã được nghe Tin Lành cứu rỗi và tình thương yêu của Đức Chúa Trời tại nhà thờ Gospel Tabernacle, New York, nơi mục sư Albert B. Simpson đang hành chức ở đó.

Ngày đó, tiến sĩ Rader đã chia sẻ về sự chữa lành thân thể là món quà của Thiên Chúa cho chúng ta qua Chúa Giê-xu. John Drange Olsen rất được khích lệ bởi lẽ thật này nên quyết định tin nhận Ngài. Sau buổi thờ phượng, mọi người hiệp lại cầu nguyện chữa lành cho ông và Chúa đã đáp lời. Một thời gian ngắn sau, khi kiểm tra lại sức khỏe, ông đã được lành hoàn toàn. Đây là sự chữa lành đặc biệt từ Thiên Thượng ảnh hưởng đến kế hoạch tương lai của ông.

Càng bước theo Chúa, ông càng ý thức được sự kêu gọi của Chúa dành cho mình trong chức vụ truyền giáo nên đã quyết định ghi danh theo học tại Học viện Đào tạo  Giáo sĩ Nyack, Yew York chuẩn bị cho chức vụ thuộc linh tương lai. Ngay trong khi còn là sinh viên, John Olsen đã có những hoạt động cho công việc truyền giáo. Với tài năng âm nhạc và giọng nam cao của mình, ông đã có những ngày tháng trải nghiệm thật quí giá cho sự nghiệp truyền giáo của mình.

Năm 1916, sau khi tốt nghiệp, ông trở thành mục sư tại thánh đường Phaolô, Hội Thánh Hazel Park. Thời gian tại đây đã mang lại cho ông kinh nghiệm quý báu trong việc quản lý một Hội Thánh. Cũng tại thành phố này, ông đã gặp cô Edith Frost, người mà sau này sẽ trở thành vợ ông. (Ông bà kết hôn vào năm 1932. Đám cưới diễn ra tại nhà nguyện của Trường Kinh Thánh do tiến sĩ J.D. Williams làm chủ lễ. Trước khi kết hôn, bà Olsen cũng là một nhà truyền giáo ở Đông Dương. Bà đã là giáo viên nhiều năm tại Trường Kinh Thánh tại Tourane).

Năm 1917, sau khi ông được công nhận là một thành viên cho công tác truyền giáo hải ngoại của Hội Truyền giáo Phước Âm Liên hiệp, ông được Hội phái sang phục vụ ở Viễn Đông. Ông đến Nam Trung Quốc khi đang có chiến tranh và đã bị bắt giam trong một năm. Tại đây, ông dành thời gian để học tiếng Quảng Đông và thu thập những kiến thức cơ bản về văn hóa khu vực Đông Dương.

Năm 1918, chiến tranh kết thúc, ông đặt chân tới Đà Nẵng. Sau đó cùng với Giáo sĩ I.R. Stebbins được cử vào Sài Gòn, thành phố cảng lớn nhất Đông Dương lúc bấy giờ, để chuyên về truyền giảng Tin Lành tại đó và các vùng phụ cận. Ngay khi còn đang học tiếng Việt và tiếng Pháp, hai ông thiết lập cơ sở truyền giáo thứ ba trong nước. Qua nỗ lực của hai ông, một Hội Thánh người Hoa ở Chợ Lớn và một Hội thánh người Việt ở Sài Gòn được hình thành ngay giữa lòng thành phố phồn hoa nhưng đầy dẫy hình tượng.

Năm 1919, ngôi nhà nguyện đầu tiên được lập lên ở Sài Gòn.

Năm 1920 có 7 người chịu báp tem.

Năm 1925, sau kỳ nghỉ đầu tiên của ông, ông được bổ nhiệm làm Đốc học (Viện trưởng) trường Kinh Thánh Tourane và tiếp tục giữ chức vụ đó cho đến năm 1952. Chúa đã dùng giáo sĩ Olsen đào tạo những “tay đánh lưới” thuộc linh người Việt trong suốt 25 năm. Đời sống và chức vụ của ông có ảnh hưởng lớn đến các sinh viên của trường cũng như ông trở thành người có tiếng nói trong xã hội lúc đó. Theo Mục sư  Lê Văn Thái, năm 1927, sau khi được cử làm đốc học thì chính giáo sĩ D.J. Olsen đã thiết kế lại toàn bộ chương trình đào tạo của Trường Kinh Thánh Đà Nẵng theo hướng căn bản hơn.

Không chỉ là người giảng Tin Lành có ơn, có năng khiếu huấn luyện cấp lãnh đạo cho Hội Thánh Tin Lành bản xứ, mà giáo sĩ John D. Olsen còn là một học giả uyên thâm, một dịch giả có tài. Ông đã hiệp với giáo sĩ W. Cadman dịch toàn bộ Kinh Thánh ra Việt ngữ và được xuất bản lần đầu năm 1926. Chính ông Olsen đã dịch và hiệu đính quyển “Thiên lộ lịch trình” (một quyển sách nổi tiếng của John Bunyan), “Kinh tiết sách dẫn”, bộ “Thần Đạo học”, “Sử ký Hội Thánh”, quyển “Điều lệ Hội Thánh Tin Lành Việt Nam” cùng khá nhiều sách giải nghĩa Thánh Kinh khác nữa. Riêng cuốn “Thần đạo học” của Mục sư John Drange Olsen được xem là cuốn sách thần học Tin Lành đồ sộ nhất ở nước ta trước 1975. Bộ sách dày gần 1.000 trang, được soạn theo kiểu giáo trình thần học truyền thống Âu – Mỹ, lần đầu tiên ở Việt Nam, trình bày cặn kẽ, Tổng luận về thần học trước khi Luận về Thánh Kinh, Luận về Đức Chúa Trời, Luận về loài người, Luận về tội lỗi, Luận về Đấng Christ… Nhiều thế hệ mục sư của Hội Thánh Tin Lành Việt Nam đều chịu ảnh hưởng của bộ sách này.

Sau chiến tranh thế giới thứ hai, ông trở lại Việt Nam cộng tác trong Ban Nhuận chánh Thánh Kinh Tân ước và Thánh ca. Năm 1948, giáo sĩ J.D. Olsen và Mục sư Ông Văn Huyên đã lãnh đạo một nhóm học giả bắt đầu nhuận chánh Kinh Thánh Tân Ước.

Năm 1953, ông đắc cử chức vụ Hội trưởng Hội Truyền giáo Phước Âm Liên hiệp tại Việt Nam và dành nhiều thời gian để giảng dạy tại các Hội Thánh.

Đầu tháng 2 năm 1954, giáo sĩ Olsen từ Đà Lạt xuống Sài Gòn để họp Ban Trị sự Hội Truyền giáo. Vào lúc 22 giờ 10 phút đêm ngày 9 tháng 2 năm 1954, trên đường từ Gia Định trở về với 2 giáo sĩ khác trên ba chiếc xích lô, ông bị tai nạn giao thông nghiêm trọng. Ông được đưa vào bệnh viện cấp cứu, nhưng vì vết thương quá nặng nên ông đã về an nghỉ trong nước Chúa ở tuổi 61.

Lễ an táng giáo sĩ John D. Olsen đã được cử hành một cách trang nghiêm, thật cảm động tại nhà thờ Tin Lành Sài Gòn, ngày 10 tháng 2 năm 1954 và được an táng tại Nghĩa trang Mạc Đỉnh Chi, nay là công viên Lê Văn Tám.

Bốn ngày trước khi về nước Chúa, ông đã được Chúa dùng đặc biệt giảng dạy cho Hội đồng Thanh niên Toàn quốc họp tại nhà thờ Tin Lành Sài Gòn. Đã có 150 thanh niên thiếu nữ ăn năn xưng tội và bằng lòng dâng mình hầu việc Chúa.

Sự nghiệp 35 năm truyền giáo vẻ vang của ông đã kết thúc. Ông đã được toại nguyện khi làm xong công việc Chúa giao cho mình ngay trên đất nước mà ông đã mến yêu, đã đổ bao công khó, mồ hôi, nước mắt để xây dựng và bảo tồn. Từ một người tuyệt vọng ông đã được gặp Chúa rồi tin Chúa, và Ngài đã sai John D. Olsen ra đi truyền giáo. Khi thì làm thầy, khi thì rao giảng Tin Lành, khi thì dùng lời Chúa để gây dựng, khích lệ, khi thì viết bài giảng, viết sách, viết báo, giải nghĩa Kinh Thánh…. Cả cuộc đời của Giáo sĩ John D. Olsen chỉ biết chăm chỉ, tận tụy để đặt nền móng xây dựng Hội Thánh Tin Lành Việt Nam dấu yêu. Chắc chắn ông đã nhận mão miện vinh quang Chúa dành cho những “đầy tớ ngay lành trung tín” đã tận tâm với thánh chức, kiên quyết tin thờ và phụng sự Ngài cho tới hơi thở cuối cùng.

QUYỂN I – TỔNG LUẬN VỀ THẦN HỌC
QUYỂN II – LUẬN VỀ KINH THÁNH
QUYỂN III – LUẬN VỀ ĐỨC CHÚA TRỜI
QUYỂN IV – LUẬN VỀ LOÀI NGƯỜI
QUYỂN V – LUẬN VỀ TỘI LỖI
QUYỂN VI – LUẬN VỀ ĐẤNG CHRIST
QUYỂN VII – LUẬN VỀ THÁNH LINH
QUYỂN VIII – LUẬN VỀ SỰ TỪNG TRẢI ĐẠO CỨU RỖI
QUYỂN IX – LUẬN VỀ THIÊN SỨ, CÁC QUỈ VÀ SA-TAN
QUYỂN X – LUẬN VỀ HỘI THÁNH
QUYỂN XI – LUẬN VỀ LAI THẾ

QUYỂN I - TỔNG LUẬN VỀ THẦN HỌC

CHƯƠNG 1 – LỜI MỞ ĐƯỜNGI. GIỚI THUYẾT THẦN HỌC THẦN HỌC luận về vị cách và công việc của Ba Ngôi Đức Chúa Trời. Chữ thần là chữ Hán, thường dùng để xưng hô những vị thuộc linh có quyền ban phước hay giáng họa cho loài người. Trong thần học chữ ấy dùng để xưng hô Đức Chúa Trời. Chữ học cũng là chữ Hán, nghĩa đen là bắt chước theo lời thầy hay sách dậy về luyện tập thông thạo. Vậy, hai chữ thần học đây có nghĩa là học khoa về vị cách và công việc của Đức Chúa Trời, cùng là giãi bày sự quan hệ Đức Chúa Trời đối với cả vũ trụ này.II. TÔN CHỈ THẦN HỌCTôn chỉ của thần học đại khái bao hàm bốn vấn đề rất quan hệ. tức là (1) Đức Chúa Trời thực hữu không? (2) Đức Chúa Trời có phán báo không? (3) Đức Chúa Trời đã phán bảo những gì? (4) Từ xưa đến nayngười ta đã hiểu ý nghĩa các lời phán bảo ấy thể nào, và đã đạt đến mục đích các lời ấy làm sao? Tôn chỉ của thần học là giải quyết các vấn đề nền tảng ấy cho rõ ràng hiệp lẽ, hầu cho nhân đó người ta nhận biết Đức Chúa Trời, tín phục đạo Ngài, đạt đến mục đích vĩnh phước mà Ngài đã dự định cho họ. Thần học chuyên chú khảo cứu, sưu tầm các nguồn gốc của thần đạo, để am tường các thực sự về Đức Chúa Trời và tương quan Ngài đối với muôn vật ; đoạn tập họp các thực sự ấy kết tinh thành một thống hệ thần học, có lý sự nhứt trí và thứ tự hẳn hòi.Thần học chẳng những là một môn triết lý, nhưng cũng là một khoa học thực nghiệm. Khá biết khoa học chân chánh, chỉ phát kiến những sự vốn tiên hữu mà thôi, chớ chẳng phải là một môn sáng tạo gì đâu. Chính thần học cũng vậy. chẳng hề sáng tạo lẽ thật nào, bên chỉ phát kiến các lẽ thật đã thực hữu từ trước vô cùng, mà nay được khải thị trong cõi thiên nhiên và Kinh Thánh. Có kẻ luận về Kha luân bổ, nhà phát kiến trứ danh, tả thế nào ông ấy sốt sắng tin chắc rằng Mỹ châu đại lục hẳn phải có, đến đỗi nếu ông không phát kiến ra đại lục ấy, chạécđã sáng tạo một đại lục như thể. Nhưng nhà thần đạo chanúnghư thé, changúngù tài sáng tạo lẽ thật gì, cũng chẳngtheo lối ảo tượng mà ức đạt đạo giáo nào bèn là theo lối khách quan mà tín nhận việc đã có vin, lấy các thực sự đã khải thị và người ta có thể kinh nghiệm mà suy luậnra lẽ đạo cốt để giải quyết bốn vấn đề quan hệ vừa kể ra ở trên. Nếu ông Kha luân bố không phát kiến Mỹ châu, thì đức tin của ông không có đối tượng thực tế chỉ là một đức tin hư ảo huyễn hoặc đó thôi. Nhưng ông quả đã phát kiến Mỹ châu, đại lục ấy thật có như ông đã tin, nên đức tin của ông không phải là hư ảo đâu, bèn là một đức tin kinh nghiệm chắc chắn vậy.Đức tin của nhà thần đạo cũng thế, vì vin lầy ở nơi các lẽ thật thực tế do Đức Chúa Trời tỏ ra, và bởi vô số tín đồ kinh nghiệm nên không phải là đức tin hư ảo huyễn hoặc, bên là đức tin chơn xác khách quan mà vận dụng vậy. Cả thực sự lẫn các mối tương quan của thần đạo đều biệt lập thực hữu ở ngoài sự suy luận diễn dịch của óc nhà thần học. Nhà ấy chỉ nhờ tài suy luận và óc diễn dịch được soi sáng bởi Thánh Linh mà nhận biết các thực sự và tương quan đó, rồi đem ra giải nghĩa cả hai, chỉ tỏ các thực sự đó có tương quan thế nào, dùng dây gì mà liên lạc lẽ nầy với lẽkia, khiến nó kết thành một hệ thống thần đạo có lý sự và trật tự hoàn toàn. Một đống gạch bừa bãi, hay là mớ gỗ ngổn ngang kia, chang phải là nhà cửa; đầu, mình và tay, nhơn đã bị nhà giải phẫu kia phân đoạn ra cũng chẳng gọi được là người sống đâu. Cũng vậy các thực sự rời rạc linh tinh, quả không thành khoa học, miễn trước hết phải nhận thức thực sự, rồi sau phai phát kiến chỗ tương quan các thực sự ấy mới gọi là khoa học được. Thần học khảo cứu cho biết các thực sự về Ba Ngôi Đức Chúa Trời, về loài người, về tội lỗi vềsự cứu chuộc. Về đời nầy và về đời sau, như các điều ấy được khải thị trong cõi thiên nhiên và trong Kinh Thánh, rồi tìm tòi cho ra cái mối tương quan giữa các thực sự ấy, nó tiếp xúc nhau thể nào, để sắp đặt ra một hệ thống thần đạo vậy. Thần học thật tư tưởng lại ý tưởng của Đức Chúa Trời, rồi bày tỏ các ý tưởng ấy ra theo thứ tự của Ngài đã dự chỉ cho.III. THẦN HỌC RẤT CẦN YẾUThần học vốn một khoa học rất cần yếu, vì năm cớ kể ra như sau đây :1. Cần yếu vì ngộ tài. Ngộ tài loài người tự nhiên muốn theo thứ tự mà sắp đặt mọi sự hiểu biết để thành những thống hệ đặc biệt. Nhờ ngộ tài loài người nghĩ rằng: “Nếu quả Đức Chúa Trời thực hữu, chắc phải có đạo dạy về Ngài.” Lại hỏi:”Bằng có, thì đạo ấy dạy thể nào? Điều gì trước sau? Sự chi quan hệ hay không quan hệ? Như người kia lần thứ nhứt mới nghe giảng Tin lành, thường hỏi rằng:“Đức Chúa Trời là ai ? Ngài từ đâu mà có? Loài người được dựng nên bởi ai? Ai sanh ma quỉ ? v.v.Tại sao người ta hỏi như vậy? Há chẳng phải vì ngộ tài loài người luôn luôn muốn theo thứ tự mà sắp đặt mọi sự hiểu biết về đạo Đức Chúa Trời hay sao? Bằng chẳng sắp đặt sự hiểu biết về đạo của Đức Chúa Trời như thế, e cho ngộ tài không nhận biết nổi chăng. Lại nếu chúng ta đáp các câu hỏi ấy cách lộn xộn, chắc người hỏi không những không hiểu gì, lại còn chê và bỏ qua đi nữa. Nhược bằng giải đạo ấy cho thứ tự, minh bạch và túc lý, thiết tưởng họ sẽ chịu nghe và đem lòng tín nhận nữa cũng nên. Thế thì hẳn ngộ tài loài người chứng rằng thần học rất cần yếu.2. Cần yếu cho tín đồ. Tín đồ nhờ sự học hiểu lẽ thật của đạo Đức Chúa Trời mà linh lực được khải phát và tiến bộ trên đường đạo đức. Hễ tín đồ nào hiểu rõ các lẽ đạo trọng nhứt của Tin lành, ấy là tín đồ nhiệt thành thuộc linh và đạo đức hơn hết. Có nhà thần đạo luận rằng, “Đạo đức là bông trái của cây đạo Đức Chúa Trời.” Nói cách khác, thì hẳn không thể nào làm một tín đồ thật nếu không biết ít nữa là các lẽ sơ học của Tin lành, như về tội lỗi, về Đấng Cứu rỗi. về đức tin đến Đấng ấy. Những lẽ thật ấy là sơ học của thần đạo vậy. Kinh thánh chép rằng: Côl 1:10. “Hầu cho anh em ăn ở cách xứng đáng với Chúa, đẹp lòng Ngài mọi đường, kết quả mọi việc lành, càng thêm lên trong sự nhận biểt Đức Chúa Trời.” IIPhi 3:18. “Nhưng hãy lớn lên trong ân điển và tri thức của Chúa và Cứu chúa chúng ta là Jêsus Christ.3. Cần yếu cho nhà truyền đạo. Nhà truyền đạo có trách nhiệm giảng dạy lẽ thật Đức Chúa Trời cách rõ ràng không sai lầm. Nhờ sự giảng dạy như thế nhà truvền đạo mới có thể khiến thính giả cảm động, chịu ăn năn trở lại cùng Đức Chúa Trời. Nếu nhà truyền đạo giãi bày lẽ đậo cách lộn xộn không đầu không đuôi, làm cho lẽ nầy với lẽ kia mâu thuẫn nhau, như trống đánh xuôi kèn thổi ngược, thì chỉ hoài công, theo bóng bắt gió đó thôi. Muốn thoát khỏi giảng dạy như thế, nhà truyền đạo cần phải kê cứu thần học.Vả lại, nhà truyền đạo không những phải có ân tứ khiến cho người ngoại công nhận Chúa, mà lại cũng cần phải có tài khiến cho thính giả chịu bồ ý kiến sai lầm mà theo ý kiến chân chánh của lẽ thật. Nhưng nếu chính người không rõ lẽ thật trước đã, thì làm sao có thể khiến cho ai khác tín nhận noi theo được? Dường ấy chẳng những sẽ làm cho thính giả càng thêm lộn xộn thôi đâu, mà hơn nữa, càng dắt họ vào sâu trong đường xiên vạy đó vậy. Người truyền đạo có trọng trách về sự phải giảng Tin lành cho đúng đắn, bởi chính Chúa đã giao trách nhiệm ấy cho. Bằng giảng sai lầm ắt phải mắc tội trọng với Ngài, gây cho kẻ nghe bị trầm luân, khiến cho chức vụ mình phải hư hoại (xem Êph 6:17 , IITim 2:2, 15). Người truyền đạo phải siêng năng kê cứu thần học, mới mong khỏi mang tội trọng ấy, và mới có thế làm chức vụ mình mỹ mãn được. Trong việc nghiên cứu thần đạo, trước hết cần kê cứu qua từng lẽ một rồi sau phải đem lẽ nầy sánh với lẽ kia, để hiểu rõ mọi lẽ ấy quan liên với nhau là thể nào; nhứt là phải tìm cho ra cái mối quan hệ của mọi lẽ đạo đối với tôn chỉ của thần học là Chúa Jêsus Christ là thế nào. Như vậy, người truyền đạo mới có hi vọng “đẹp lòng Đức Chúa Trời như người làm công không chỗ trách được, lấy lòng ngay thẳng giảng dạy lời của lẽ thật” (IITim 2:15).4. Cần yếu cho Hội Thánh. Hội Thánh phải “giữ lấy mẫu mực của các sự dạy dỗ có ích” (IITim 1:13) ; cũng phải cứ làm “trụ và nền của lẽ thật” (ITim 3:15), mới có thể thoát khỏi sự lầm lạc mà tấn bộ trong ân điển và sự hiểu biết Đức Chúa Trời được. Hội Thánh mà đã hiểu lầm lẽ thật của đạo Đức Chúa Trời rồi, thì chắc cũng phải sai lạc hoặc về sự tổ chức, hoặc về cách thức thờ phượng, hoặc có khi cũng xui cho hành vi cử chỉ của tín giáo hóa ra bại hoại lầm nữa. Duy sự học hiểu chánh đạo mới có thể cứu Hội thánh khỏi sa vào hầm hố sai lạc ấy được thôi.Vả lại thuộc viên Hội thánh là cái lợi khí Chúa thường dùng đè làm chứng đạo Ngài cho kẻ ngoại đặng dắt họ vào đường chánh đáng. Đường ấy tức là chánh đạo. Nhưng nếu tín đồ không biết đâu là đường chánh, thì làm sao đắt kẻ khác vào đó được?Nhà thần học A. H. Strong luận rằng: “Sự thấu hiểu lẽ thật của đạo Christ không những là cứu Hội thánh khỏi tà giáo, lại còn thúc giục Hội thánh chuyên tâm đến việc cứu rỗi người ta nữa.” Nhà khác luận rằng:”Bài tín điều giống như bộ xương sống. Tuy người ta không cần đeo bộ xương ấy ở trước ngực, thì vẫn rất cần yếu cho mỗi người phải có một bộ. Bằng không, thân thể chắc phải hóa ra một cây thịt mềm sụn vậy thôi. Lại nữa, xương sống cũng cần phải ngay thẳng ; nếu không thì người ta ắt phải bị cong khom.” Thế thì, nếu muốn Hội thánh có khí lực mạnh mẽ, ngay thẳng, thiêng liêng, thì phải chuyên tâm khảo học thần đạo, đến đổi hiểu biết những lẽ thật làm nền tảng cho đức tin của mình một cách chắc chắn.Trong Kinh Thánh Đức Chúa Trời thường khuyên dạy ta hãy nghiên cứu thần học, bảo rằng phải dò xem Kinh thánh mới mong biết Christ (Gi 5:39) ; phải đối chiếu lẽ thật nầy với lẽ thật kia, cho ăn hiệp rập ràng :ICô 2:13. “Chúng ta cũng giảng những sự ẩy, chẳng phải bằng lời của sự khôn ngoan loài người đâu, bèn bằng lời của Thánh Linh dạy, lấy lời thuộc linh mà giải nghĩa sự thuộc linh.”Phải gom lại hết cả mọi lẽ thật của sự khải thị ở nơi Christ Jêsus :Côl 1:27 “Đức Chúa Trời cũng vui lòng tỏ cho họ biết sự giàu của vinh hiển về lẽ mầu nhiệm đó ở giữa dân ngoại bang là thể nào, tức là Christ ở trong anh em, là sự trông cậy về vinh hiển.”Phải giảng dạy các lẽ thàt ấy, không nên thêm bớt gì cả: IITim 4:2 “Hãy giảng đạo, cố nài bất luận gặp thời hay không gặp thời, dùng đủ thứ nhẫn nại, dạy dỗ mà thuyết phục, bẻ trách, khuyên răn.”Kinh thánh gọi nhà truyền đạo là một văn sĩ đã học thần đạo về nước trời (Ma 13:52). Các mục sư của Hội thánh vừa làm mục sư vừa làm giáo sư (Êph 4:11), phải có tài khéo dạy dỗ (ITim 3:2 “lấy lòng ngay thẳng giảng dạy lời của lẽ thật” (IITim 2:15). Cũng phải “hằng giữ đạo thật y như đã nghe dạy, hầu cho có thể theo đạo lành mà khuyên dỗ người ta và bác lại kẻ chống trả” (Tít 1:9).CHƯƠNG 2 – LUẬN VỀ NGUỒN-GỐC CỦA THẦN-HỌCNói cách tổng quát, thì Thần học chỉ có một nguồn, ấy là chính Đức Chúa Trời. Nhưng vì ngộ tài loài người hẹp hòi quá, thật lẩy làm khó hiếu thấu Đấng Tạo hóa vô  lượng vô biên. Phạm vị và bổn tánh Ngài vượt quá mọi lý  tưởng của loài người, đến đỗi tự nhiên không sao dò xét Ngài được bao giờ; phải được chính Đức Chúa Trời tự tỏ mình Ngài ra, mới có hi vọng cho loài người biết đến ít nhiều. Cảm tạ danh thánh của Ngài! Ngài quả đã tự tỏ mình ra bởi hai cách. Thứ nhứt là Đức Chúa Trời bày lỏ mình Ngài ra trong cõi thiên nhiên, tức trời đất muôn vật. Thứ hai là Đức Chúa Trời bày tỏ mình Ngài ra trong Kinh thánh. Thần học nhờ hai bộ sách rất hay ấy mà suy tầm đến nguồn  gốc chơn chánh của đạo Đức Chúa Trời. Thần đạo thường gọi hai bộ ấy là thiên nhiên thần học, và Thánh Kinh thần  học (khải thị thần học cũng được).I. THIÊN NHIÊN THẦN-HỌCVũ trụ vốn một nguồn gốc của thần đạo, vì Kinh thánh quyết dạy rằng Đức Chúa Trời đã bày tỏ mình Ngài trong cõi thiên nhiên. Trong cõi thiên nhiên có hai bằng chứng minh giải vị cách và công tác Đức Chúa Trời, gọi là ngoại chứng và nội chứng. Trời đất muôn vật, luân thứ và các công lệ của cả vũ trụ đều minh chứng về sự khôn ngoan, quyền năng, sự công nghĩa, sự vinh hiển tối cao của Đấng Tạo hóa, giãi bày các đức tánh vô thỉ vô chung của Ngài, ấy là ngoại chứng (Thi 19: ; Công 14:17 ; Rô 1:20).Lại nữa, trong lòng mọi người cũng có một bằng chứng quả quyết rằng có một Đấng cao cả cầm quyền trên hết. Linh trí, lý tánh và lương tâm đều đồng thinh chứng rằng như loài người cao hơn loài vật bao nhiêu, thì Đấng ấy hẳn cũng cao hơn loài người bấy nhiêu. Cũng có tiếng nhỏ nhỏ trong mình dạy luôn rằng mình được địa vị quan hệ ở giữa thần linh giới và sanh vật giới hầu cho về một nầy thì có thể giao thông với thượng giới, còn về một kia lại có tài giao thiệp với hạ giới. Bằng cớ ấy gọi là nội chứng.II. THÁNH KINH THẦN HỌCKinh thánh là cái nguồn trọng nhứt của đạo Đức Chúa Trời, dạy rõ rằng nếu chỉ nhờ cậy cõi thiên nhiên để hiểu biết Bức Chúa Trời thì không đủ. Bằng chẳng có sự khải thị của Kinh thánh để bồi bổ cho thiếu thốn, ắt người đời không thế biết được mọi lẽ cần yếu để được cứu rỗi (Công 17:23 ; Êph 3:9). Vì cớ ấy Bức Chúa Trời phụ thêm cho sự khải thị thiên nhiên một sự khải thị mới nữa, để minh giải bản tánh, tình yêu thương và lòng nhơn từ của Ngài mà coi thiên nhiên chỉ bày tỏ ra cách mờ mờ vậy thôi. Đức Chúa Trời ban bố sự khải thị nầy cách siêu nhiên, dùng những người đặc biệt và mặc cảm họ, khiến trước thuật lại sự ban bố ấy, và tập thành một bộ sách gọi là Kinh thánh. Bộ sách ấy là nguồn gốc trọng nhứt về thần học ta đây, có giá trị Tuyệt đối có linh lực vô song.III. KHOA HỌC ĐỐI VỚI KHẢI THỊ THẦN HỌCCả sự khải thị thiên nhiên và sự khải thị siêu nhiên (Kinh thánh) đều bởi Đức Chúa Trời duy nhứt mà ra. Bởi vậy cho nên hai điều ấy phù hiệp nhau một cách rất tự nhiên. Thể mà, có kẻ dám cả gan quyết rằng khoa học phản đối với thần học của Kinh thánh. Tại sao vậy? Ấy chẳng qua vì họ học chưa thấu lý, nên nỗi khoa học vẫn còn có chỗ sai lầm. Kỳ thực, chẳng có khoa học thực nghiệm nào phản đối với Kinh Thánh bao giờ, chỉ vì khoa học do cõi thiên nhiên không được trọn vẹn bằng thần học của Kinh Thánh nên dường như có chỗ bất đồng đó thôi.Vả, cái ngộ điểm của khoa học đối với khải thị thần học là chỗ nầy: Các nhà khoa hoàn cảnh quyết nhờ ngộ tài và lý tưởng mình để giải quyết thần học. Hễ khi nào họ gặp điều gì ngội tài không hiểu, dường như phản đối với lý tưởng mình thì họ không thừa nhận. Họ quên rằng khoa học và triết lý thuộc trần, không thể giải quyết cạn lẽ thần đạo thuộc thiên được. Thế thì, thần học chơn chánh không thế lấy khoa học làm nguồn gốc, bèn chỉ thị phải nhờ sự khải thị ở trong Kinh Thánh làm thước ngọc khuôn vàng của mọi sự giải quyết về lẽ đạo Đức Chúa Trời mà thôi. Còn khoa học xác thực đến đâu đi nữa cũng chẳng qua là “con đòi” của thần học, để giúp đỡ cho loài người hiểu rõ thêm các lẽ đạo bày ra trong Kinh Thánh đó thôi.IV. NHỮNG NGUỒN LẦM LẠC CỦA THẦN HỌCCó ba nguồn khác mà lắm người không vin lấy để suy cứu thần học. Ba nguồn ấy vốt rất sai lầm, lý thuyết do đó mà ra không thể minh giải được về Đức Chúa Trời. Ba nguồn ấy là:1. TÁNH LÝ THUYẾTNhiều nhà tánh lý học đều chỉ muốn cậy tánh lý và ngộ tài để suy xét ra các lẽ mầu nhiệm của thần học. Sự ấy nguy hiểm lắm, bởi tánh lý của loài người tuy có chỗ dùng đúng mà cũng có chỗ rất sai lầm.a) Sự dùng tánh lý đúng.—Lẽ đạo của Kinh Thánh vốn cao xa mầu nhiệm, tánh lý loài người không đủ khôn ngoan hiểu hết được. Tuy vậy, sự dạy dỗ của Kinh Thánh chằng phản đối tánh lý đâu, trái lại, Kinh Thánh cần phải cảm xúc tánh lý của người nào muốn học lời lẽ của nó, thì người ấy mới có hi vọng đạt đến bực thông hiểu đạo Đức Chúa Trời được. Tổng quát có chừng năm cách dùng tánh lý đúng:(1) Nhờ tánh lý mà ta suy biết thị phi, nhơn quả, cũng biết thấu nguồn khôn ngoan Đức Chúa Trời bày tỏ trong cõi thiên nhiên.(2) Bởi tánh lý người ta có thể suy xét rằng ở ngoài các lẽ thiên nhiên, loài người còn rất cần có một sự khải thị khác để bày tỏ đạo Đức Chúa Trời ra cho.(3) Cũng nhờ tánh lý mà người ta có tài tra xét đoán định các bằng chứng của mọi lẽ đạo tự xưng là sự khải thị của Đức Chúa Trời giả hay thật.(4) Lại nhờ tánh lý loài người có thể quyết định công nhận sự khải thị chơn chánh ấy.(5) Cũng nhờ tánh lý người ta có tài đem sự khải thị đó ra mà suy luận cho đúng ý. Ấy vậy, tánh lý rất quan hệ đối với sự thấu hiểu và sự công nhận sự khải thị của Kinh Thánh, hai đàng chẳng có sự phản đối gì cả, miễn là không dùng tánh lý cách sai lầm thì thôi.b) Sự dùng tánh lý sai lầm.—Nhiều nhà tánh lý học đều cho tánh lý là nguồn của thần đạo. Như họ phê bình Kinh Thánh thật hay giả, thì lấy tánh lý làm chuẩn đích; hễ điều gì hiệp với lý luận thì họ tín nhận; còn điều nào không hiệp, thì chối bỏ. Vả, bỏ ra các điều của Kinh Thánh mà tánh lý không hiểu được, tức là bỏ ra mọi sự siêu việt, mọi phép lạ dấu kỳ chép ở trong đến đỗi bỏ hẳn cả sự khải thị của Đức Chúa Trời nữa. Nói tóm lại, họ sai lầm vì bốn cớ:(1) Họ lẫn lộn tánh lý với tài năng suy luận.(2) Họ quên rằng loài người đã phạm tội, khiến cho tánh lý ra tối tăm; nếu không nhờ Đức Chúa Trời soi sáng cho, ắt không thể hiểu nguyên do của thần đạo được.(3) Họ không biết rằng tánh lý vốn thuộc trong vòng thọ tạo, nên tài hiểu biết đạo thuộc linh cũng hữu hạn, cần phải nhờ Đấng Tạo hóa giúp đỡ mới có thể thấu rõ nổi sự mầu nhiệm về đạo của Ngài.(4) Tánh lý loài người vì bị nọc độc của tội nên hay lầm lạc. Ví bằng chỉ nhờ luận lý để giải nghĩa Kinh Thánh, ắt không bao lâu sẽ trở nên tà đạo đi mất. Phao lô chép rằng: (Xem ICô 2:14-16)2. DI TRUYỀN THUYẾTa) Tiêu chuẩn thật và giả của thần đạo.—Nghiên cứu lịch sử thần học, thì biết xưa nay Hội Thánh phổ thông từng khảo cứu và suy luận thể nào về thần đạo. Giáo hội Cải chánh và cả Hội Thánh chơn chánh xưa nay đều vin lấy Christ làm nguồn của lẽ thật; còn lẽ thật ấy đã được chép trong Kinh Thánh một cách rất hoàn toàn. Vì vậy cho nên Giáo hội Cải chánh lấy Kinh Thánh làm tiêu chuẩn của thần học.Trái lại, Giáo hội La mã thì khác hẳn, chẳng nhận Christ là nguồn có một không hai của thần đạo, cũng không lấy Kinh Thánh làm tiêu chuẩn của sự tín ngưỡng, dám cả gan tự xưng Giáo hội là nguồn, và giáo hoàng là tiêu chuẩn của thần đạo. Tuy hội ấy công nhận Kinh Thánh là lời của Đức Chúa Trời, thì cũng quyết rằng từng hồi từng lúc dđvẫn con phải nhờ giáo hoàng và những Công nghị hội mà ban bố thêm cho Giáo hội những sự khải thị mới. Thế thì, Giáo hội La mã coi cái nguồn của thần đạo không những là chỉ ở nơi Kinh Thánh, mà cũng còn do lời truyền khẩu của giáo hội và các chỉ dụ của giáo hoàng nữa kia.Tại sao họ chủ trương lý thuyết sai lầm đó? Vì Giáo hội La mã quyết rằng Hội Thánh sanh ra Kinh Thánh, chớ chẳng phải Kinh Thánh sanh ra Hội Thánh. Trước khi chưa có Kinh Thánh đã có Hội Thánh rồi, nên Hội Thánh cũng có quyền thêm những lẽ thật cho thần đạo. Thế thì Giáo hội La mã sai lầm lắm, bởi Kinh Thánh tuy có sau Hội Thánh, mà lẽ thật của Kinh Thánh vẫn có trước muôn đời ở nơi chính Đức Chúa Trời, rồi sau Hội Thánh nhờ lẽ thật ấy bày tỏ ra mà được gây dựng. Câu Giáo hội La mã hay viện chứng cho ý kiến của mình là “Hội Thánh… trụ và nền của lẽ thật” (ITim 3:15). Nhưng Giáo hội La mã giải nghĩa câu ấy rất sai lầm. Theo nguyên ý của cả Kinh Thánh, thì Đức Chúa Trời dùng lẽ thật để gây dựng Hội Thánh, chớ chẳng phải là Hội Thánh gây dựng lẽ thật bao giờ. Vậy, nếu nói, Hội Thánh giữ gìn và nâng đỡ lẽ thật ở trong thế gian như cây trụ chống đỡ cái nhà kia thì đúng; còn nếu nói rằng Hội Thánh gây dựng lẽ thật thì sai lầm lắm; bởi vì nguồn gốc của lẽ thật chỉ ở nơi Christ mà thôi. Xin lược kể đại ý của di truyền thuyết như sau đây.b) Phát huy di truyền thuyết.—Thuyết nầy chủ trương rằng:(1) Cần phải mượn sự di truyền để bổ các khuyết điểm của Kinh Thánh. Vì Kinh Thánh có nhiều lẽ nói chưa được cạn lý, nên cần phải nhờ lời truyền khẩu của Hội Thánh để giải cho rõ hơn.(2) Cần phải mượn sự di truyền để quyết định về chánh giáo của Kinh Thánh. Nhơn vì trong Kinh Thánh có lẽ đạo không được rõ ràng lắm, nên hễ muốn tránh khỏi sự nghi hoặc tranh biện, thì cần nhờ lời truyền khẩu để suy cứu và đoán định chánh nghĩa của lẽ ấy.(3) Cần phải có sự di truyền để gây uy tín Giáo hội, vì mạng lịnh của giáo hoàng và Giáo hội đều đáng tôn như mạng lịnh của Trời, đồng đẳng với Kinh Thánh, buộc tất cả nhơn loại phải tuân phục.(4) Cần phải mượn truyền khẩu để trói buộc sự tự do của lương tâm người ta. Bởi giáo hội La mã so thứ dân xem Kinh Thánh mà giải nghĩa khác với ý kiến của các phẩm trật, nên nghiêm cấm không cho họ xem, bắt buộc giáo đồ phải cúi đầu vâng phục các chỉ dụ của giáo hoàng luôn với các lời truyền khẩu xưa nay; vì theo thuyết nầy, chỉ dụ của giáo hoàng và lời truyền khẩu hẳn có thần quyền bằng lời Kinh Thánh vậy.c) Ngộ điểm của di truyền thuyết.—Xét qua bốn đại ý về di truyền thuyết như trên thì thấy nguồn gốc nầy về thần đạo sai lầm, như mấy lẽ kể qua dưới đây:(1) Nếu Kinh Thánh thật có khuyết điểm, cần cho loài người phải bổ chính, thì làm sao biết được những khuyết điểm ấy là đâu mà hòng bổ chính, vì Kinh Thánh không nói đến kia mà? Lại khi loài người đã bổ chính Kinh Thánh rồi, thì làm sao dám biết chắc chỗ bổ chính đó là đúng? Nỡ nào Đấng Toàn Năng vô cùng ban bố cho loài người một sự khải thị bất toàn, không đủ lẽ cho tín đồ tín dụng mà lại phải nhờ đến người bất toàn để bổ chính khuyết điểm của sự khải thị ấy? Dám lớn tiếng quyết rằng, tuy Kinh Thánh không bày ra hết cả mọi sự mầu nhiệm về Đức Chúa Trời, thì cũng đã bày ra đủ mọi lẽ cần dùng cho sự cứu rỗi ta, chẳng cần nhờ lời truyền khẩu nào, hoặc chỉ dụ nào của giáo hoàng bất toàn kia để thêm mảy may gì cho sự khải thị ấy đâu.(2) Lời truyền khẩu của Giáo hội La mã có nhiều sự phản đối với Kinh Thánh, đến đỗi nếu nhận lời truyền khẩu là phải, thì phải nhận Kinh Thánh là quấy. Lời Chúa phán trng Ma-thi-ơ 15:3-9 rất là đúng với lý thuyết của họ.(3) Lời truyền khẩu còn có cái tệ giống nhau mà khác nhau, khác nhau mà giống nhau rất nguy hiểm. Nếu lấy đạo Christ mà chứng nghiệm thì dễ thấy La mã giáo có nhiều lẽ không giống với đạo Christ, thậm chí những chỗ giống nhau cũng có điều khác, và những chỗ khác nhau lại rất giống nhau, đến đỗi ta phải đoán định rằng đạo Christ và đạo La mã thật giống nhau mà khác, khác nhau mà giống, làm cho phải quấy lẫn lộn, tà chánh khôn phân, khiến cho loài người rất dễ bị cái họa hột châu mắt cá, không biết dường nào mà theo.3. THẦN BÍ THUYẾTThần bí thuyết chơn thật vẫn có giúp ích tín đồ hiểu Kinh Thánh, cũng chứng nghiệm được sự chơn chánh của Kinh Thánh nữa; dầu vậy, nó chẳng phải là nguồn gốc của thần đạo đâu. Cái chủ nghĩa của thần bí luận chủ trương về sự cảm xúc của Thánh Linh ở trong lòng. Ngài ngự vào lòng tín đồ, chiếu linh quang cho, hầu khiến họ có thể hiểu sự khải thị trong Kinh Thánh, chớ chẳng hề ban bố sự khải thị mới nào, Ngài chỉ soi sáng vào lời lẽ Ngài đã bày tỏ ra rồi mà thôi. Đó là ý kiến của thần bí luận chơn chánh.Nhưng cũng có một phái thần bí luận khác chủ trương lẽ đạo rất sai lầm, quyết rằng Đức Chúa Trời thường nhờ sự cảm xúc lòng mà ban bố sự khải thị mới. Họ quyết dạy như thế chẳng qua vì lầm tưởng mọi sự cảm xúc ở trong lòng đều là tiếng phán của Đức Chúa Trời, lẫn lộn sự cảm thụ của linh tánh với sự mặc cảm của Thánh Linh. Chủ trương như thế kết quả cho mọi thứ cảm xúc bề trong đều trở nên nguồn gốc của thần đạo, lần lần dắt người vào tà giáo vạn sự hữu thần nguy lắm vậy.CHƯƠNG 3 – LUẬN VỀ SỰ HẠN CHẾ THẦN HỌCTa đã thấy thần học có hai nguồn gốc chơn chánh là cõi thiên nhiên và Kinh Thánh. Tuy thần học giải luận về Đức Chúa Trời cách tường tận minh bạch, thì cũng không thể nào giải bày đến cũng tột hết mọi sự mầu nhiệm về Ngài và về sự tương quan Ngài với vũ trụ đâu. Bài trên ta vừa giải tỏ những nguồn của thần đạo rồi; đây xin giải tỏ những chỗ thần đạo bị hạn chế.I. HẠN CHẾ VÌ TÀI TRÍ LOÀI NGƯỜI YẾU ÐUỐITrí lực của loài người vốn hẹp hòi yếu đuối, khó hiểu thấu công vụ và đức tánh của Đấng Toàn năng. Thật đúng như lời của Sô pha nói cùng Gióp (Gióp 11:7,8; Rô-ma 11:33).Các lẽ đạo như về thần tánh, nhơn tánh của Christ, sự dự định và chủ quyền tuyệt đối của Đức Chúa Trời, sự tự chủ của loài người, đều có ý nghĩa mầu nhiệm cao xa mà ngộ tài ta không sao hiểu rõ, lý tánh ta không sao giải tỏ được. Tỷ như một tay em bé kia không thể cầm được cả hai trái cam một lần thể nào, thì lý tánh ta cũng khó hiểu thấu hết cả lẽ đạo huyền diệu của Đức Chúa Trời thể ấy. Kìa, còn nhiều lẽ mầu nhiệm trong cõi thiên nhiên mà các nhà khoa học trứ danh cũng không cắt nghĩa nổi, huống chi đạo Đức Chúa Trời mầu nhiệm vô cùng lắm kia vậy thay!II. HẠN CHẾ VÌ KHOA HỌC RẤT BẤT TOÀNLoài người thật ít biết lắm về khoa học, nào bác vật học, hay tâm lý học đều vẫn còn nhiều khuyết điểm, khiến cho sự hiểu biết đạo Đức Chúa Trời cũng nhơn đó mà bị hạn chế. Không những là lý tánh loài người có chỗ sai lầm mà thôi, lại chính hiện trạng của muôn vật cũng đã bị hư hỏng bởi tội lỗi loài người, nên nếu căn cứ vào đó lấy làm rất khó hiểu thấu được các lẽ thật. Có thể nói rằng loài người bị bịnh loạn thị (astigmatisme) thuộc linh, thấy một lẽ thật dường như là hai. Đối với tầm con mắt của chúng ta, chúng ta chỉ thấy được lẽ đạo Đức Chúa Trời và loài người, chủ quyền tuyệt đối của Đức Chúa Trời và sự tự chủ của loài người, thần tánh và nhơn tánh của Christ, sự thiên nhiên và sự siêu nhiên đều biệt lập tuyệt đối chớ chẳng có sự liên quan gì nhau cả. Nhưng kỳ thật, các lẽ đạo ấy đều song hành tương đối, mỗi đôi chỉ tỏ ra hai mặt của một lẽ mà thôi; sở dĩ ta không hiểu được như thế là vì ngộ tài ta bị tật bịnh. Có thế ví lẽ thật trọn vẹn giống như một cái vòng. Đức Chúa Trời là trung tâm điểm của vòng ấy; chính Ngài thấy rõ mọi bề trong vòng đó, hiểu thấu hết các lẽ thật mầu nhiệm, không một lẽ nào mà chẳng minh bạch cho Ngài. Còn chúng ta đứng ở ngoài vòng mà ngó vào, chỉ thấy được một bên, chỉ hiểu thấu một mặt về lẽ đạo đó mà thôi.III. HẠN CHẾ VÌ TIẾNG NÓI LOÀI NGƯỜI BẤT TOÀNPhàm là nhà khoa học đều nhìn nhận rằng có nhiều ý nghĩa mầu nhiệm, tiếng nói người ta không sao thuật lại được, viết mực không thể tả ra được, phương chi yếu lý của đạo Đức Chúa Trời, vẫn có nhiều ý tưởng siêu việt, vượt qua cái khuôn khổ của ngôn ngữ loài người. Kinh Thánh có nhiều câu chứng quyết rằng dùng tiếng nói của trần giới mà giãi bày lẽ thật thuộc linh giới là điều rất khó khăn. Phao lô chứng rằng:(xem ICô 2:13; IICô 3:6; IICô 12:4)Tiếng Hy lạp tuy là tiếng toàn vẹn hơn hết các thứ tiếng khác, thì cũng vẫn còn có nhiều khuyết điểm. Nên các trước giả Tân ước cần phải thêm ý nghĩa mới cho những danh từ cũ. Giả như chữ logos (đạo), agapé (sự thương yêu), harmalia (tội lỗi), v.v… Từ đó đến nay đạo Đức Chúa Trời truyền đến dân tộc nào, các giáo sĩ cũng phải học đòi các trước giả Kinh Thánh, đành thêm ý nghĩa mới cho những danh từ tầm thường của thổ âm, hoặc có khi cũng phải đặt thêm chữ mới, làm lợi khí để giãi bày lẽ đạo mầu nhiệm của Đức Chúa Trời cho họ. Vậy mà, dầu làm thế nào đi nữa, tiếng chữ của loài người vẫn cứ bất toàn không thế mười phần thuyết minh lẽ đạo sâu nhiệm của Đức Chúa Trời được.IV. HẠN CHẾ VÌ TA CHƯA HIỂU THẤU LỜI KINH THÁNHLời Kinh Thánh là thuộc linh; còn chúng ta là thuộc nhục thể, bị tội lỗi dính dấp, hạn chế ta khó hiểu thấu các sự dạy dỗ của Kinh Thánh. Ta cần hiệp ý đồng thinh với Đa vít mà cầu xin (xem Thi 119:18). Cần phải được Chúa mở tâm trí ta ra như Ngài mở tâm trí của hai người đi đường đến Em ma út xưa kia vậy (Lu 24:32, 55).V. HẠN CHẾ VÌ CÓ NHIỀU ÐIỀU KINH THÁNH KHÔNG NÓI ÐẾNCó nhiều điều can thiệp đến đạo Đức Chúa Trời, tuy là mầu nhiệm khó hiểu, mà Kinh Thánh chẳng nói đến. Giả như đời sống và sự chết của bà Ma ri, hình dung vóc giạc của Chúa Jesus, căng nguyên của tội lỗi, cảnh trạng của đời sau. Cũng chẳng nói đến bao nhiêu các vấn đề xã hội, như là vấn đề nô lệ, sự gian trá, sự áp chế của chánh phủ La mã, người giàu hà hiếp kẻ nghèo. Chúa Jesus tuy là Đức Chúa Trời và sự thông biết mọi sự, thì cũng nói rất ít về sự phản loạn của thiên sứ ác, về vường Ê đen, về ông A đam, bà Ê va, sự sa ngã. Nếu có nói đến, thì cũng chỉ một vài lời vắn tắt mà thôi. Khi có người hỏi Chúa: “Lạy Chúa, có phải chỉ ít kẻ được cứu chăng?” thì Chúa không trực tiếp đáp câu hỏi ấy, nhưng khuyên rằng: “Hãy gắng sức vào cửa hẹp, vì ta nói cùng các ngươi, nhiều người sẽ tìm cách vào mà không vào được” (Lu 13:23-30″. Vấn đề quan hệ không phải là, có phải nhiều người được cứu không? Bèn là, tôi có được cứu hay chăng? Kinh Thánh chẳng hề làm thỏa tánh tọc mạch của ai đâu, bèn chỉ dạy cho ta hiểu điều cần yếu cho sự cứu rỗi ta đó thôi.VI. HẠN CHẾ VÌ TÀI LỰC CỦA LINH TRÍ LOÀI NGƯỜI BỊ TỘI LỖI LÀM THIẾU KÉMTừ khi tổ tiên ta phạm tội, lương tâm bị cứng cỏi, đạo đức bại hoại, tâm hồn ra tối tăm, tình yêu thương thiếu mất, khiến cho bản năng phân biệt phải quấy, nhận biết thật giả càng ngày càng suy kém, đến đỗi lấy làm khó nhận biết được đạo thuộc linh. Hễ muốn hiểu biết lẽ đạo Đức Chúa Trời rất cần phải có lòng thánh khiết, bởi vì mỗi điểm ô uế, hoặc trong cá nhân tín đồ, hoặc trong Hội Thánh, đều làm cho tài lực của linh trí bị sút kém, trở ngại ta trong sự nghiên cứu thần đạo đến chỗ hoàn toàn thấu đáo vậy.TỔNG LUẬNThế thì, vì sự nghiên cứu thần đạo có hạn chế đặc biệt dường ấy, nên chưa dám nói là đã được một hệ thống thần đạo hoàn bị, để bày tỏ mọi lẽ đạo Đức Chúa Trời cách rõ rệt trọn vẹn đâu. Kìa, chỉ xét qua cũng rất dễ thấy còn có rất nhiều điều chúng ta chưa sao hiểu thấu được, nhiều thực sự lý tánh không sao minh giải nổi. Cũng có nhiều lẽ thật lý tánh xem dường như tương phản, rất khó tìm ra mối tương quan của lẽ nầy với lẽ kia. Thế nhưng, dầu lẽ đạo nào hiện nay lý tánh ta không sức hiểu nổi, thì lạ thay đức tin ta vẫn vui tin nhận, vì biết chắc rằng hễ đạo nào không có sự mầu nhiệm vượt qua trí hiểu loài người, thì không đáng gọi là đạo Đức Chúa Trời được. Còn điều hiện nay ta không thể rõ, chắc tương lai Chúa sẽ làm cho rõ ràng như chánh ngọ chẳng sai. Quả như Phao lô nói trong ICô 13:9-12.CHƯƠNG 4 – LUẬN VỀ SỰ PHÂN LOẠI THẦN HỌCThần học tuy vẫn là một khoa học mà thực được chia ra bốn loại, tức là Kinh Thánh thần học, Lịch sử thần học, Hệ thống thần học, và Thực dụng thần học.I. THÁNH KINH THẦN HỌCMục đích của Thánh Kinh thần học là kê cứu Kinh Thánh đặng tập thành từng loại từng mục các lẽ đạo có quan hệ với thần học. Học khoa nầy chỉ lấy Kinh Thánh làm mẫu mực dạy về các lẽ đạo cần yếu; cũng theo thứ tự của các sách trong Kinh Thánh mà giải nghĩa thần đạo từng lẽ một, chỉ tỏ ra sự phát triển và tấn bộ của thần đạo từ Sáng thế Ký đến Khải huyền. Học khoa nầy ngoài Kinh Thánh chẳng nhờ nguồn nào khác để minh giải đạo Đức Chúa Trời được.II. LỊCH SỬ THẦN HỌCLịch sử thần học ký thuật lịch sử của lẽ đạo Đức Chúa Trời trải qua các thế kỷ, từ đời các sứ đồ cho đến bây giờ; cũng bày tỏ ra lẽ đạo ấy được mở mang thế nào, các Giáo hội tín nhận, dạy dỗ, và tuyên bố ra làm sao. Cũng thuật lại lẽ đạo mà Hội Thánh tín ngưỡng trải qua các thế kỷ kết quả thế nào trong Giáo hội, xã hội, và đời sống cá nhân tín đồ.Vả, từ ban đầu Giáo hội chưa có chia các lẽ thần đạo của Kinh Thánh ra từng loại từng mục, nhưng về sau Giáo hội tấn bộ bao nhiêu, thì sự hiểu biết thấu lẽ đạo cũng mở mang bấy nhiêu, nên mới kết quả các bài tín điều của Giáo hội phổ thông như bài tín điều của các sứ đồ, bài tín điều Nicée và bài tín điều Athanase. Khoa nầy thường chia ra làm hai, là lịch sử Giáo hội và lịch sử lẽ đạo. Nói cho rõ hơn, hễ lịch sử thần học luận về sự kết quả của đạo Đức Chúa Trời trong Giáo hội, xã hội, và đời sống cá nhân tín đồ, thì gọi là lịch sử Giáo hội. Còn hễ luận về sự mở mang lẽ đạo, sự chia ra từng loại từng mục như hiện có trong các bài tín điều, thì gọi là lịch sử của lẽ đạo.III. THỰC DỤNG THẦN HỌCThực dụng thần học luận về cách thức phải ứng dụng lẽ thật của thần học cho mình, cho Giáo hội, và cho xã hội, hầu hưởng được hạnh phước. Nói cách khác, học khoa nầy dạy về sự thực hành lẽ đạo Đức Chúa Trời; cũng gồm cả truyền đạo học và giáo mục mục nữa, vì hai môn ấy luận về cách nào phải giải nghĩa và giảng dạy lẽ đạo Đức Chúa Trời cho Giáo hội và cho cá nhân tín đồ, hầu khiến họ noi theo.VI. HỆ THỐNG THẦN HỌCHệ thống thần học (théologie systématique) sưu tập cả các tài liệu của Thánh Kinh thần học, thiên nhiên thần học, và lịch sử thần học rồi sắp đặt mọi sự, sự nào theo mục loại nấy, để cho ta nhờ đó mà học biết Đức Chúa Trời, về sự vị cách và công cụ Ngài, cùng về sự tương quan giữa Ngài với loài người và vũ trụ, hầu cho tập thành một hệ thống thần học. Tuy có lợi dụng lịch sử thần học mà kê cứu lẽ đạo, thì cũng đừng quên rằng môn ấy chẳng phải là nguồn gốc của lẽ đạo đâu; chỉ quyết định duy có Kinh Thánh là nguồn gốc có một không hai về lẽ đạo Đức Chúa Trời mà thôi. Cái vấn đề quan hệ cho khoa nầy chẳng phải là Giáo hội đã tín nhận lẽ đạo nầy kia thế nào, bèn là lẽ thật của Kinh Thánh dạy bảo làm sao.Hệ thống thần học luận đến mười đề, tức là: 1) Kinh Thánh, 2) Đức Chúa Trời, 3) Loài người, 4) Tội lỗi, 5) Đấng Christ, 6) Sự cứu rỗi, 7) Thánh Linh, 8) Thiên sứ, 9) Giáo hội, và 10) Lai thế.

QUYỂN II - LUẬN VỀ KINH THÁNH

CHƯƠNG 1 – LUẬN VỀ SỰ KHẢI THỊI. ÐỊNH NGHĨA DANH TỪ KHẢI THỊ Danh từ KHẢI THỊ thường dùng theo hai nghĩa đen và bóng, văn khoa dùng theo nghĩa đen, còn thần học dùng theo nghĩa bóng.1. NGHĨA ĐENDanh từ khải thị nghĩa đen nói riêng thì chữ “khải” nghĩa là mở ra. Chữ “thị” nghĩa là đưa cho xem; nói chung thì là mở ra hoặc bày tỏ điều gì kín giấu cho mắt có thể thấy được.2. NGHĨA BÓNGTrong thần học danh từ nầy có hai nghĩa là đại khái và đặc biệt. Nghĩa đại khái thường chỉ về sự bày tỏ Đức Chúa Trời ra, hoặc trong cõi thiên nhiên hay là trong Kinh Thánh, đến đỗi nhờ mọi thực sự nơi hai nguồn ấy khiến loài người có thể hiểu về Đức Chúa Trời; ấy gọi là sự khải thị của Đức Chúa Trời. Còn nghĩa đặc biệt là chỉ về các lẽ thật biên tập trong một bộ sách gọi là Kinh Thánh. Chương nầy chú trọng về nghĩa thứ hai, tức là chuyên chú kê cứu sự khải thị của Đức Chúa Trời đã biên tập trong Kinh Thánh vậy.II. LÝ DO TIN CHẮC CÓ SỰ KHẢI THỊTrước khi kê cứu qua mục thần học dạy về vị cách và công vụ của Đức Chúa Trời, thiết tưởng rất quan hệ cho ta phải giải quyết vấn đề nầy đã: Đức Chúa Trời há có ban bố cho nhân loại ta một sự khải thị đặc biệt để giãi bày cho ta hiểu biết Ngài không? Xin đáp: Chắc có. Lại hỏi: Bằng có, do đâu mà tin chắc rằng có sự khải thị ấy? Sau đây xin kể lại những bằng cớ minh chứng rằng Đức Chúa Trời quả đã ban cho ta sự khải thị đặc biệt ấy.1. BẰNG CỚ VÌ SỰ CẦN YẾU CỦA LOÀI NGƯỜIHễ ai chịu ngồi xuống nghiên cứu qua về nhơn loại học một vài, thì rất dễ thấy tánh tình loài người có nhiều điều thiếu thốn bởi sự không hiểu biết Đức Chúa Trời mà ra; chỉ có sự khải thị lẽ đạo chân chánh của Đức Chúa Trời mới mong có thể bổ lại chỗ thiếu thốn đó. Tánh tình và lịch sử của nhơn loại ta đều đồng chứng cho sự cần yếu ấy.a)Lý tánh tự nhiên không thể hiểu thấu đạo Đức Chúa Trời. – Đạo Đức Chúa Trời vốn rất mầu nhiệm, lý tánh tự nhiên không thể hiểu được. Các vấn đề như Ba Ngôi hiệp một Đức Chúa Trời, sự cứu chuộc, sự tha tội, cách thức phải thờ phượng Đức Chúa Trời, cảnh trạng đời sau, đều là những sự rất quan hệ ta phải hiểu đến. Nhưng mà nếu không có sự khải thị đặc biệt để minh giải cho, thì còn biết lấy đâu mà bổ vào chỗ thiếu thốn ấy?b)Lý luận loài người hay lầm lạc. – Sự khôn sáng thuộc linh của loài người đã bị tội lỗi che khuất, lý tánh Đức Chúa Trời ban cho đã bị tình dục dỗ dành, nên sự lý do bản năng loài người suy xét, luận giải ra lắm điều rất sai lầm. Ấy vậy, nếu không có đạo khải thị từ trên trời ban xuống để làm nền tảng cho sự tín ngưỡng của họ, thì dầu có bậc thánh triết đến đâu đi nữa ra đời, cũng chẳng có thể biết rõ đầu đuôi gốc ngọn của đạo Đức Chúa Trời được. Thêm nỗi, lẽ thật do lý tánh người ta suy luận ra cũng chẳng ích gì cho tội nhơn, nếu không có thần quyền chứng nghiệm là chơn lý, thì còn biết đâu là chơn lý mà mong tìm vậy ru?c)Loài người không phương cứu rỗi. – Các đạo thế gian tuy có luận về lẽ cứu rỗi, diệt tội siêu linh nầy nọ, thì cũng tối tăm lộn xộn lắm, chẳng có linh nghiệm gì hòng cứu được một ai cả, dầu có khiến kẻ nghe bùi tai đôi chút đi nữa, thì rốt cuộc cũng chỉ như cho người ta ăn bánh vẽ đó thôi; chớ thực ra không cứu tội siêu linh ai được. Ví bằng chẳng có thần đạo khải thị để chỉ đường dẫn lối cho thế gian biết phương pháp cứu rỗi và chiến thắng tội lỗi, thì tội nhơn yếu đuối kia sẽ nhờ đâu mà mong giải cứu lấy mình được ư?d)Không có sự khải thị thì loài người chịu tối tăm. – Lịch sử thế gian bày tỏ rõ ràng cái thảm trạng của loài người, đều chứng nhận rằng hoặc dân tộc hay cá nhân nào mà không có, hoặc đã chối bỏ sự khải thị đặc biệt của Đức Chúa Trời, thì hẳn dân tộc hay cá nhân ấy không sao thoát khỏi lâm vào cảnh huống rất đáng thương. Bởi hễ ai không có lẽ đạo khải thị, thì linh trí phải tối tăm, đạo đức phải suy đồi, hành vi phải bại hoại chẳng sai. Còn thêm nỗi, những sự lý do luân lý và tôn giáo mà họ từng nhận biết và bo bo giữ lấy, lại sai lầm càng hóa ra sai lầm, đến đỗi không ai có thể phân biệt phải quấy, thật giả được nữa. Nếu Đức Chúa Trời không ban ơn lớn, lấy đạo cả mà tỏ bày ra cho loài người, thì loài người còn biết đường lối đâu mà bước đi, thấu rõ chơn lý gì mà tin cậy; trọn đời đành ôm lấy cái hận vàng thau lẫn lộn, ngọc đá khôn phân mà không tự giải nổi, đau đớn biết chừng nào!2. BẰNG CỚ DO VỊ CÁCH VÀ CÔNG VỤ ĐỨC CHÚA TRỜILoài người vốn có linh tánh, nên giao thông với Đức Chúa Trời được. Theo một phương diện thì Ngài có tương quan với họ thật như Cha với con vậy. Mà hễ cha thì đâu lại có lẽ không thương yêu con cái, lo dự bị mọi sự cần dùng cho nó sao? Vả, loài người bị đứng trong địa vị rất thiếu thốn, đã đắm chìm trong bể dị đoan mê hoặc, lưu lạc trong rừng tà đạo, đến đỗi thờ hình lạy tượng; cũng chẳng có đấng thánh bậc hiền nào có đủ tư cách chỉ bảo lẽ đạo cần yếu về Đức Chúa Trời cho họ được biết. Vậy, Đức Chúa Trời há cứ làm ngơ mà chẳng đếm xỉa đến họ chút nào sao? Ngài há không lo dự bị cho họ một sự khải thị siêu việt đặng bày tỏ cho họ biết đức tánh, ý chỉ, luật lệ và ơn cứu rỗi của Ngài ư?Nhờ những điều đã tỏ ra trong cõi thiên nhiên mà ta biết, ta dám quyết rằng theo bản tánh của Đức Chúa Trời, thì chắc chắn không thể nào Ngài bỏ loài người mà không đếm xỉa đến họ được đâu; bèn hẳn phải dự bị những điều mà ngộ tánh và linh nhơn của họ rất cần yếu, tức là một sự khải thị đặc biệt, để chỉ đường dẫn lối trên thần linh giới, làm kim chỉ nam và đèn soi sáng giữa thế gian tối tăm nầy. Ta tin chắc như vậy là tại vì những cớ sau đây:a)Sự khôn ngoan của Đức Chúa Trời làm chứng. – Đức Chúa Trời ban cho loài người một linh tánh thuộc linh giới, chiếu theo hình tượng của Đức Chúa Trời mà tạo ra. Đại mục đích của linh tánh ấy là sự hiểu biết Đức Chúa Trời và sự giao thông với Ngài cho đến đời đời vô cùng. Vả, loài người tự nhiên không thể biết Đức Chúa Trời, thì hòng giao thông với Ngài sao được? Rất cần phải có chính Đức Chúa Trời bày tỏ mình Ngài ra mới có thể được. Nếu Đức Chúa Trời nhờ sự khôn ngoan toàn vẹn tuyệt đối mà ban cho loài người cái bản năng diệu kỳ như thế, thì sự khôn ngoan đó há lại chẳng sẽ dự bị cho họ cái phương pháp đặng đạt đến mục đích hạnh phước của lương năng ấy sao? Quả quyết Đức Chúa Trời phải dự bị phương pháp ấy cho: bằng chẳng, Đức Chúa Trời không phải là Đấng khôn ngoan trọn vẹn đâu, bởi vì chỉ biết dựng nên loài người làm linh nhơn có mục đích thuộc linh cao thượng, nhưng lại không sao làm cho họ đạt đến mục đích ấy, thì sao được gọi là toàn trí ư?b)Công việc hoàn toàn của Đức Chúa Trời làm chứng. – Tra cứu trong cõi thiên nhiên thì thấy công việc tạo hóa của Đức Chúa Trời đều hoàn toàn cả, chẳng còn có việc gì phải làm lại nữa, vì đều xong từ ban đầu cả. Tuy rằng Đức Chúa Trời đã khỉ sự bày tỏ mình Ngài ra trong cõi thiên nhiên, nhưng sự khải thị ấy không được trọn vẹn. Dầu đạo Đức Chúa Trời bày tỏ ra trong đó là rộng rãi cao xa sáng suốt, song Chúa chưa thật bày tỏ rõ ràng được trăm phần toàn hảo về những điều mầu nhiệm của thiên đạo, là điều rất cần yếu cho sự cứu rỗi ra. Vậy, công việc mà Đức Chúa Trời đã khỉ sự làm, Ngài há không có thể làm cho hoàn toàn sao? Đức Chúa Trời há chẳng dùng một phương pháp hay nào ở ngoài thiên nhiên thần đạo đặng bày tỏ ý chỉ mầu nhiệm của Ngài cho loài người ư? Xem công việc của Ngài đã khỉ sự làm thì chắc Ngài cũng phải làm cho hoàn toàn mới hữu lý vậy.c)Lễ cung cầu thích đáng của muôn vật làm chứng. – Chúng ta tra xét muôn vật thì thấy hễ vật gì cần dùng điều nào thì sẵn có điều ấy một cách thích hiệp cả. Đã vậy, há dễ Đức Chúa Trời chẳng biết sắm sẵn sự cần dùng cho linh hồn loài người sao? Kìa, hễ thân thể hoặc tâm tình ta cần dùng và ưa muốn điều nào, thì vẫn có những sự vật sẵn sàng để ứng tiếp ngay cho sự cần dùng ưa muốn ấy. Giả như hình vừa con mắt, tiếng vừa lỗ tai, mùi ngọt vừa lỗ miệng, mùi thơm vừa lỗ mũi, v.v… Còn đến như tâm trí muốn kê cứu sự lý cho rộng rãi, thì chắc có muôn muôn sự lý để ứng hiệp với chỗ muốn ấy. Bởi nếu Đức Chúa Trời đã dự bị mọi sự cần dùng về phương diện vật chất cho ta, thì Ngài há chẳng lo lắng để dự bị gì cho sự cần dùng về phương diện thuộc linh sao? Ngài đã ban phương pháp giúp cho ngộ tánh ta khỏi sự ngu muội về sự lý thiên nhiên, thì há lại không lo cho linh hồn ta được cứu khỏi sự tối tăm thuộc linh ư? Dám quyết rằng Đức Chúa Trời không khi nào dự bị mọi sự cần dùng nhỏ nhặt cho ta mà lại nỡ bỏ qua sự cần dùng lớn lao cho ta bao giờ.d)Sự thương xót của Đức Chúa Trời làm chứng. – Trong cõi thiên nhiên hễ có sự gì bị hư hoại, thì cũng sẵn có phương pháp để chữa lại. Coi như thân thể loài người hễ có bao nhiêu tật bịnh ắt cũng có bấy nhiêu phương thuốc để điều trị. Ấy chỉn chẳng qua là nhờ sự thương xót của Đức Chúa Trời dự bị cho loài người tìm được các thứ thuốc thích hiệp với mọi chứng bịnh đó thôi. Thế mà, linh hồn loài người bị chứng bịnh nguy hiểm muôn phần hơn bịnh xác thịt; há lại chẳng có sự trông cậy được chữa lành sao? Đức Chúa Trời đã tỏ lòng thương xót mà dự bị đủ phương thuốc chữa mọi sự hư hỏng và tật bịnh trong cõi vật chất, há không cảm thương đến sự hư hoại khốn nạn của linh hồn ta mà ban cho một phương linh dược để chữa lành ư? Ôi, chỉ nhờ thiên nhiên thần học và triết học của các bậc hiền triết đông tay xưa nay, chắc hẳn không thể đủ an ủi lòng tội nhơn và chữa bịnh thuộc linh của họ được phần nào đâu. Nhờ lòng thương xót của Đức Chúa Trời đã tỏ bày sờ sờ trong cõi thiên nhiên, ta dám tin chắc rằng Ngài chẳng đành lòng bỏ loài người ngơ ngẩn, chịu khuất phục dưới quyền tội lỗi mà không lo dự bị phương cứu giải, để họ có thể phục hồi với Ngài như xưa.e)Lý tánh loài người làm chứng. – Ngoài những bằng chứng kể ra trên đây, còn có một bằng chứng tồi tệ nưa, là lý tánh của loài người. Luận đến vấn đề nầy, thì nó quyết huấn rằng, tín nhận Đức Chúa Trời đã ban sự khải thị đặc biệt là đúng lắm. Lý tánh mà Đức Chúa Trời đã tạo thành cho đó suy luận như vầy:(1)Đức Chúa Trời có thể ban sự khải thị đặc biệt. – Đức Chúa Trời vốn là Đấng vô sở bất năng, chẳng có việc gì mà Ngài làm không được. Vậy thì lấy làm dễ tin rằng Ngài cũng có thể bày tỏ ý chỉ của Ngài cho loài người hiểu biết được.(2)Đức Chúa Trời ban sự khải thị đặc biệt có lý lắm. – Đức Chúa Trời chẳng những là vô sở bất năng, lại là Đấng khôn ngoan, nhơn từ, hay thương xót trọn vẹn. Các đức tánh ấy hằng khiến Ngài phải bày tỏ mình ra cho loài người, hầu cho họ có thể hiểu lòng nhơn từ thương xót ấy là kỳ diệu bao nả. Bởi vì đức tánh nhơn từ, thương xót kia nếu không được thực hành thì không đáng kể nữa. Lại từ xưa đến nay nhiều nhà triết học đều tin rằng Đức Chúa Trời ban bố một sự khải thị siêu nhiên là rất có lý, nên chi phần đông trong họ cũng đã tỏ ý trông đợi một sự khải thị như thế. Kìa, Platon có nói: “Loài người không bao giờ có thể biết Đức Chúa Trời, miễn là Đức Chúa Trời lấy hình trạng của người khốn khổ mà tự bày tỏ mình ra”. Lại rằng: “Khi muôn vật sắp bị tiêu diệt, Đức Chúa Trời thấy cái thảm trạng của vũ trụ thì Ngài sẽ nắm lấy tay lái nó mà bẻ lại hầu khiến nó trở về trật tự cũ.” Tin rằng Đức Chúa Trời có làm thỏa lòng mong ước ấy là một sự rất hữu lý, vì Ngài là Đấng nhơn từ thương xót chu toàn.(3)Đức Chúa Trời ban sự khải thị đặc biệt là đáng tin lắm. – Nếu chúng ta tin rằng Đức Chúa Trời có thể ban sự khải thị cho, lại công nhận sự ấy là có lý nữa, thì tự nhiên lấy làm dễ tin rằng Ngài đã ban sự khải thị ấy rồi. Bổn tánh loài người xưa nay thường tin nhận những sự khải thị giải dối rất dễ dàng. Kìa, sự lưu thông các kinh kệ của Phương Đông, kinh Cô-ran của Hồi Giáo, và nhiều sách truyện khác, như phong thần chẳng hạn, đều minh chứng cho thực sự ấy.Thế thì, nói tóm lại, nếu quả loài người rất cần dùng một sự khải thị siêu nhiên, mà Đức Chúa Trời thật có quyền năng ban bố sự ấy, lại có lòng muốn ban cho nữa, thì há còn chi hữu lý hơn là tin rằng Ngài chắc đã ban cho một sự khải thị như thế ư? Mà sự khải thị đó là Kinh Thánh, hẳn đã có nhiều bằng cớ minh chứng rằng quả là sự khải thị chơn chánh của Đức Chúa Trời. Trong các bằng cớ ấy có phép lạ được ứng nghiệm và lời tiên tri được ứng nghiệm, là hai cái bằng chứng mạnh hơn hết, quyết rằng sự khải thị ấy là chơn chánh lắm vậy. CHƯƠNG 2 – LUẬN VỀ KINH ÐIỂNI. ÐỊNH NGHĨA “KINH ÐIỂN”1. Nghĩa đen. – Chữ kinh là sách; chữ điển là luật lệ, thước mực. Mà hai chữ kinh điển ghép lại thì có nghĩa là luật lệ hay mực thước của sách vở. Mỗi nhà bình phẩm văn chương thi phú đều giải theo một điển pháp, một mực thước mà phê phán mới đúng đắn. Điển pháp ấy thường gọi là kinh điển vậy.2. Nghĩa đặc biệt. – Trong thần học, danh từ nầy có ba nghĩa đặc biệt, tức là: a) Nghĩa thứ nhứt giống như nghĩa đen, chỉ về điển pháp, thước mực phải dùng trong khi bình phẩm các sách về lẽ đạo lưu truyền lại từ đời các sứ đồ đặng thí nghiệm quyển nào có thể thuộc trong bộ Kinh Thánh, quyển nào không. b) Nghĩa thứ hai là một bộ sách chứa nhiều quyển đã được điển pháp thí nghiệm và nhận định rằng có phép thuộc trong bộ sách ấy. Từ đời các sứ đồ trải suốt các thế kỷ, Giáo hội đã nhờ những nội chứng và ngoại chứng của các quyển Kinh Thánh làm điển pháp để tra xét, thí nghiệm, đến đỗi phải quyết rằng các quyển ấy thuận hiệp với kinh điển (điển pháp), nên có phép thuộc trong Kinh Thánh. c) Nghĩa thứ ba chỉ về bộ Kinh Tân Cựu Ước gồm lại 66 quyển, vì thuận hiệp với điển pháp thí nghiệm nên cũng có khi được gọi là kinh điển. Danh từ ấy ám chỉ rằng bộ Kinh đó có thần quyền vì là lời Đức Chúa Trời, được Thánh Linh hà hơi vào, để làm khuôn vàng thước ngọc không sai lầm, không dời đổi cho sự tín ngưỡng và hành vi của Giáo hội và cá nhơn tín đồ.II. VỀ ÐIỂN PHÁP CỦA CỰU ƯỚC1. VỀ PHÉP THUỘC TRONG KINH THÁNHMột quyển có phép thuộc trong Kinh Thánh chỉ khi nào Giáo-hội phổ thông đã dùng điển pháp của Kinh Thánh mà thí nghiệm quyển ấy, để coi thử nội dung của nó thật có xứng hiệp với điển pháp ấy hay chăng, rồi mới tín nhận được. Các quyển sách được công nhận như thế gọi là hợp kinh điển, có thần quyền dạy bảo về lẽ đạo Đức Chúa Trời, làm thước mực có một không hai về sự tín ngưỡng và hành vi của tín đồ.2. VỀ ĐIỂN PHÁP DÙNG ĐỂ THÍ NGHIỆM CÁC QUYỂN KINH THÁNHHễ quyển sách nào được sưu tập liệt vào Kinh Thánh thì phải chịu thí nghiệm theo năm cách nầy:a)Thần trước thuật. – Quyển nầy có phải chính Đức Chúa Trời trước thuật chăng? Quả Thánh Linh có dùng người ta biên chép lại ý chỉ của Ngài trong sách nầy hay không? Chắc được Đức Chúa Trời hà hơi vào làm cho người vô ngộ chăng? Hay là sách nầy chỉ bởi người ta biên tập như thói thường thôi ư?b)Nhơn trước thuật. – Quyển sách nầy có phải chơn chánh được chép hoặc được phê chuẩn bởi một tiên tri, sứ đồ hay là một người nào thay thế cho Đức Chúa Trời mà phán dạy chăng?c)Sự chơn chánh. – Quyển sách nầy chơn chánh không? Nghĩa là có bằng cớ minh chứng rằng trước giả của nó thực có phải là người đã được ghi tên trên nhấn đề của nó đó chăng? Có thể quả quyết rằng nó được trước thuật nhằm chính sanh thời của người ấy chăng? Hoặc nếu không thể nhận đích danh của trước giả, thì có bằng chứng gì tỏ chắc chắn cái nội dung hiện có của sách nầy chính là nội dung của nó khi mới biên tập, không ai sửa đổi hoặc thêm bớt gì không?d)Sự đích thực. – Sách nầy há có sự đích thực không? Các sự tích, biến động và thực sự biên chép trong đó, há quả là xác thực không sai chuyển chút nào chăng?e)Sự chứng nghiệm. – Hội Giu-đa, Giáo hội đầu tiên, các Công giáo nghị hội, và các cổ bản Kinh Thánh, há đồng thinh chứng nghiệm cho sách nầy đặng thuộc trong Kinh Thánh chăng? (Cách thứ năm nầy Giáo hội hiện thời thường dùng hơn đời xưa).Vả, tuy năm cách thí nghiệm nầy đều rất quan hệ cả; nhưng nói chung cho đúng thì nội hai cái thứ nhứt và thứ hai cũng đủ năng lực giải quyết hoặc sách nầy hoặc sách kia đáng thuộc trong Kinh Thánh hay không rồi. Bởi vì nếu có đủ bằng cớ chứng rằng Đức Chúa Trời là trước giả của sách nào, đã nhờ Thánh Linh mặc cảm người nào biên thuật đó, thì đã quyết định sách ấy có thần quyền, đặng thuộc về Kinh Thánh. Về sau ta sẽ kê cứu qua năm cách thí nghiệm trên đây cho tường tận hơn.3. KINH ĐIỂN KINH THÁNH RẤT CẦN YẾUKinh điển của Kinh Thánh rất cần yếu vì những cớ sau đây:a)Để cho loài người được sự khải thị trọn vẹn của Đức Chúa Trời. – Kinh điển Kinh Thánh tuy có nhiều quyển khác nhau nhưng chẳng qua chỉ là một sách, có một trước giả là Thánh Linh, luận về một đề mục là sự Cứu rỗi. Đề mục ấy thấu suốt cả sách, bày tỏ ra mọi sự ta cần biết để được toàn cứu. Nhưng mà cái đề mục ấy chỉ được trọn vẹn là khi hết thảy các sách của cả Tân Cựu Ước đều được sưu tập thành toàn một thể, một sự khải thị trọn vẹn của Đức Chúa Trời ban xuống vậy. Vả ấy là nhờ sự thí nghiệm theo kinh điển kia mà biết các sách trong Kinh Thánh được tin nhận và tập thành là như thế.b)Để cho loài người có thể giữ lấy lời Đức Chúa Trời trong một bộ sách. – Đương thuở các tiên tri và các sứ đồ còn sống thì không cần sưu tập các thánh thơ xác thực hiệp thành một bộ sách làm chi; bởi vì Đức Chúa Trời vẫn còn hà hơi vào họ, thì thật lấy làm dễ phân biệt thơ nào được Thánh Linh mặc cảm, thơ nào không. Nhưng sau khi các bậc thánh ấy đã qua đời rồi, thì lại lấy làm cần yếu cho dân Đức Chúa Trời sưu tập các thơ của họ vào một bộ sách để bảo tồn cho các đời về sau.c)Để bảo thủ các thánh thơ khỏi bị giả mạo hoặc sai lạc. – Nhằm đời kế tiếp các sứ đồ Giáo hội đã biết lẽ cần và đã lo bảo thủ các thánh thơ cho khỏi bị ai giả mạo hoặc làm sai lạc. Nhưng hại thay! Vào thời kỳ đầu tiên, đạo Christ đã bị các bậc cầm quyền của đời tìm trăm mưu ngàn kế để phá hủy các văn tự ấy. Như nhằm đời hoàng đế Dioclétien đã ra sắc lịnh, bảo phải thiêu hủy hết cả bao nhiêu sách thánh của tín đồ Đấng Christ đi. Thành thử, tín đồ cần phải biết trong số các sách còn lại đó thì sách nào là thánh, đặng binh vực và bảo thủ cho khỏi bị giả mạo hoặc sai dịch.d)Để người ta có thể biết cái hạn chế về thánh thơ được Thánh Linh hà hơi vào. – Nhằm thời kỳ Giáo hội đầu tiên có một đống nguyên cảo và ngụy thơ đồ sộ, đều tự xưng là thánh thơ xác thực, đáng thuộc trong kinh điển Tân Cựu Ước cả. Vì vậy cho nên rất cần yếu cho Giáo hội được biết sách nào là chân trước, sách nào là ngụy tạo, thơ nào chánh thị thần quyền, thơ nào chỉ là nhơn tác phẩm mà thôi. Giả như nhằm năm 330 S.C. Constantin đại đế ra lịnh phải sao lại 50 bộ Kinh Thánh đặng dùng trong các giáo đường tại Constantinople. Nếu lúc ấy không có điển pháp nào để thí nghiệm sự xác thực, chơn chánh của các quyển Kinh Thánh, thì ai biết thơ nào là Kinh Thánh mà sao lại?4. KINH ĐIỂN CỰU ƯỚCCái điển pháp quan hệ hơn hết để thí nghiệm các sách trong Cựu Ước là như vầy: hễ quyển nào được phép liệt vào Kinh điển Cựu Ước, buộc phải do một Đấng tiên tri nào trước thuật hoặc chấn chỉnh, hoặc chứng thực mới được. Có đủ bằng cớ chứng rằng các trước thuật của Cựu Ước phần nhiều đều là tiên tri, được Đức Chúa Trời sai khiến cả. Ngoài ra lại có những bằng cớ kể sau đây nữa.a)Christ chứng thưïc. – Christ là tiên tri lớn hơn hết, xem Phục 18:15, lắm phen đã chứng thực cho Cựu Ước, biểu quyết rằng các quyển của bộ ấy quả là thánh văn xác thực, được phép thuộc trong Kinh điển ấy. Ngài chứng rằng: Xem Lu-ca 24:27, 44. Xem Giăng 5:39.Vả dân Giu-đa thường hay chia Cựu Ước ra làm ba phần lớn, tức là Luật pháp, Các Tiên tri và Thi-thiên. Chúa Jesus đều chứng thực cho cả ba phần ấy.b)Tân Ước cũng làm chứng. – Tân Ước trực tiếp viện dẫn ước chừng 324 câu của Cựu Ước, và ám chỉ đến tư tưởng do bộ Cựu Ước mà ra có đến chừng 660 lần. Tân Ước lại nói đến đích danh các sác Cựu Ước, trừ ra 6 quyển là Quan-xét, Truyền-đạo, Nhã-ca, Ê-xơ-tê, E-xơ-ra và Nê-hê-mi mà thôi. Dầu vậy, mà vẫn có đủ bằng cớ khác minh chứng cho 6 sách ấy đều là chơn chánh và đích thực chẳng ngoa.c)Dân Do Thái chứng thực. – Phần Cựu Ước mà chúng ta hiện có vốn là Kinh Thánh của dân Do Thái xưa, chẳng có sự sửa đổi hoặc thêm bớt chỗ nào hết. Chính dân Giu-đa đều chứng thực cho sự ấy. Hai phái thần đạo Do Thái, tức là Ba-by-lôn và phái Giê-ru-sa-lem, đều đồng ý công nhận các sách Cựu Ước mà ta hiện có, đều là Kinh Thánh của dân Hê-bơ-rơ. Sử thần Josèphe và nhà triết lý Philon cũng đều chứng thực cho Cựu Ước, có soạn bản thống kê đủ tên các sách, không sót một sách nào cả, chỉ sắp đặt thứ tự khác mà thôi. Các nhà sưu tập bộ Talmud từ thế kỷ II đến thế kỷ VI S.C. cũng đều công nhận cả 39 quyển Cựu Ước là sự khải thị siêu nhiên của Đức Chúa Trời ban cho dân Do Thái vậy.d)Giáo hội đầu tiên chứng thực. – Những thánh văn mà dân Do Thái đã công nhân là sự khải thị của Đức Chúa Trời, Giáo hội đầu tiên cũng chứng thực cho là lời của Đức Chúa Trời, có phép liệt vào Kinh điển Cựu Ước. Giáo phụ đầu tiên Mélito (179 S.C.) kể lại danh hiệu của các sách Cựu Ước trong tác phẩm của ông, chỉ trừ ra sách Ê-xơ-tê mà thôi. Giáo phụ Origène cũng nói đến tên các sách Cựu Ước, trừ các sách tiên tri nhỏ. Giáo phụ Jérôme, nhà phiên dịch Kinh Thánh ra tiếng La-tinh, cũng công nhận cả Cựu Ước của ta. Ông Augustin cũng vậy, chỉ loại ra các sách ngụy tác (apoeryphes) mà thôi.5. CÁC NGỤY THƠTrong bản Septante (Bản LXX) và trong bản Vulgate (bản bằng chữ La-tinh của Giáo hội La-mã) có xen lẫn mấy sách khác vào chánh kinh Cựu Ước, mà chính nguyên bản Hê-bơ-rơ không có. Những quyển ấy gọi là bộ Apocryphes (ngụy thơ), được chép vào lối khoảng giữa đời Ma-la-chi và đời Christ. Các nhà trước thuật đều là người đạo đức, biên thuật sự từng trải khốn khổ của dân Giu-đa bị các vua Séleucides (trong vòng họ có Antiochus Epiphane) áp chế và bắt bớ dữ tợn. Bộ ngụy thơ nầy không hề có trong Kinh điển Hê-bơ-rơ; các sách Targums (giải nghĩa Kinh Thánh và đạo Do Thái) chẳng hề nói đến. Các Giáo phụ Jérôme, Mélito, Origène, Athanase, Hilair, Cyril de Jerusalem, và nhiều ông khác không công nhận ngụy thơ nầy có phép liệt vào Kinh Cựu Ước. Các quyển ấy không được Đức Chúa Trời hà hơi vào, vì chỉ là thuật lại một đoạn lịch sử của dân Giu-đa đó thôi. Giáo hội La-mã công nhận ngụy thơ ấy có thần quyền bằng những sách thuộc Kinh điển Cựu Ước. Còn Giáo hội Cải chánh chẳng bao giờ thừa nhận nó là sự khải thị của Đức Chúa Trời đâu, nên cũng không liệt kê vào Kinh Thánh.6. KINH ĐIỂN TÂN ƯỚCHễ sách nào được liệt kê vào Kinh điển Tân Ước thì phải được trước thuật bởi một sứ đồ nào, hoặc được một sứ đồ nào chứng thực cho sự chơn chánh và sự đích thực của nó; hoặc phải được Giáo hội trong đời các sứ đồ công nhận là thánh văn, có thần quyền làm khuôn vàng thước ngọc cho sự tín ngưỡng của Giáo hội. Vả, lịch sử Giáo hội bày tỏ rõ ràng lắm rằng phần nhiều quyển của Tân Ước đã được Giáo hội công nhận vào lối thế kỷ thứ nhứt. (Cũng xem ITê 5:27; Cô-lô-se 4:16; IIPhi-e-rơ 3:15, 16; IITê 2:2). Khi Công Giáo nghị hội Ê-phê-sô nhóm lại năm 363 S.C., thì Kinh điển Tân Ước đã được sưu tập xong rồi; nghị hội ấy chứng thực và biểu quyết thừa nhận Kinh điển ấy là lời lẽ chơn thật của Đức Chúa Trời.CHƯƠNG 3 – LUẬN VỀ SỰ CHƠN CHÁNH CỦA KINH THÁNHI. ÐỊNH NGHĨA DANH TỪ CHƠN CHÁNHChương nầy luận về trước thuật và niên hiệu của các sách trong Kinh Thánh, cốt ý để biết hoặc các sách ấy có phải do chính những người đã được ghi tên làm nhan đề đó trước thuật hay chăng; hoặc có được chép vào chính sanh thời của mấy người ấy hay không. Nhờ sự giải quyết hai vấn đề ấy, mới có thể chứng cho sự chơn chánh của Kinh Thánh được.II. SỰ CHƠN CHÁNH CỦA CỰU ƯỚCNhững bằng cớ kể ra sau đây minh chứng cho sự chơn chánh của các sách Cựu Ước.1. TÂN ƯỚC LÀM CHỨNGTân Ước viện dẫn hoặc ám chỉ đến mỗi sách trong Cựu Ước trừ ra 6 quyển mà thôi (xem chương luận về Kinh điển Cựu Ước). Sự thực ấy chứng quyết rằng dân Do Thái, tín đồ của đạo Đức Chúa Trời trong đời Christ, và các sứ đồ đều công nhận Cựu Ước là chơn chánh cả.2. CÁC NHÀ HIỀN TRIẾT DO THÁI LÀM CHỨNGCác nhà hiền triết Do Thái xưa nay đều chứng quyết rằng các sách hiện có liệt trong bộ Cứu Ước của Kinh Thánh ta vốn là các sách thánh của dân Do Thái trải qua các đời đã công nhận là sự khải thị siêu nhiên của Đức Chúa Trời. Ông Josèphe, sử thần trứ danh của dân Do Thái, kể lại danh hiệu các sách Cựu Ước, chứng rằng trong lúc sanh tiền của ông(27-95 S.C.) dân Do Thái tín nhận các sách ấy là Kinh Thánh của họ. Nhà triết học Philton (sanh 30 T.C.) viện dẫn nhiều khúc trong 39 quyển của Cựu Ước; nhưng ông chẳng viện dẫn một câu nào trong các ngụy thơ kia cả. Dân Do Thái công nhận cả các sách Cựu Ước một cách lần lần; trước hết họ công nhận các sách luật pháp, rồi đến các văn thơ và tiên tri. Cho nên khi Đức Chúa Jesus viện dẫn khúc sách nào của Cựu Ước, thì Ngài thường nói đến ba phần đó, tức Luật pháp, Tiên tri và Thi-thiên vậy.3. BẢN LXX (SEPTANTE -70) LÀM CHỨNGKinh Thánh Cựu Ước bằng nguyên văn Hê-bơ-rơ được dịch ra chữ Hi-lạp vào lối năm 280-180 T.C. Cuộc phiên dịch nầy là lần thứ nhứt Kinh Thánh Hê-bơ-rơ được dịch ra chữ ngoại bang. Theo lời truyền khẩu, bản LXX được dịch ra tại thành Alexandrie, xứ Ai-cập, bởi 70 nhà hiền triết Do Thái kiều cư tại xứ ấy. Lời truyền khẩu ấy hoặc thực hay hư, chẳng ai giải quyết được. Nhưng có một thực sự rất rõ ràng là Kinh Thánh Cựu Ước đã được dịch ra văn Hi-lạp ước vào năm 280 T.C. nhằm đời trị vì Ptolémée Philadelphe (285-247 T.C.). Bấy giờ sách Ngũ-kinh được dịch ra trước hết, rồi sau lần lần đến mấy sách kia. Việc phiên dịch đó chắc hẳn là một công trình phải trải qua nhiều người nhiều năm cho đến ước vào năm 180 T.C. mới hoàn thành. Bản LXX là bằng cớ trước nhứt về Cựu Ước bằng nguyên văn Hê-bơ-rơ, chứng thực rằng 300 T.C. giáng sanh dân Do Thái rất kính trọng thánh văn của họ (là Cựu Ước của ta), công nhận là Kinh điển thánh, đáng nên phiên dịch cho dân ngoại bang có thể biết đến sự khải thị của Đức Chúa Trời chép để trong đó. Bản LXX gồm đủ 39 quyển như vẫn có trong Cựu Ước ta, nay nhờ đó chứng nghiệm cho sự chơn chánh và sự đích thực của các sách ấy đến đỗi khó cho ai đem lòng hoài nghi nào được nữa.4. NGŨ KINH SA-MA-RI LÀM CHỨNGNgũ kinh của dân Sa-ma-ri chứng thực cho năm sách của Môi-se. Cổ quyển ấy được lưu truyền từ năm 432 T.C. Lúc dân Do Thái ở Ba-by-lôn mới về, đương lo xây cất đền thờ tại thành Giê-ru-sa-lem. Dân Sa-ma-ri tỏ ý muốn hiệp tác với họ, nhưng dân Do Thái không chịu; nên họ hằng tìm thế ngăn trở việc ấy (E-xơ-ra 4:1:16). Về sau, khi Nê-hê-mi thực hành sự cải chánh, thì có thầy tế lễ Ma-na-se cưới vợ ngoại bang, nên bị cách chức (Nê-hê-mi 13:28-30). Người ấy trốn qua trấn thủ San-ba-lát, nhờ ông bảo vệ, lập đền thờ tại Sa-ma-ri, phản đối với cuộc thờ phượng tại Giê-ru-sa-lem. Chính lúc đó dân Sa-ma-ri bị diệt khỏi dân Do Thái, đem theo họ cổ bản Ngũ kinh; còn những bản khác của Kinh Thánh Hê-bơ-rơ, thì họ lại bỏ qua, vì trong đó dạy rằng Giê-ru-sa-lem là nơi phải thờ Đức Chúa Trời; còn dân Sa-ma-ri quyết rằng là tại trên núi Sa-ma-ri (Giăng 4:20, 21). Bởi Ngũ kinh Môi-se được chép trước khi dân Y-sơ-ra-ên chưa vào xứ Ca-na-an, nên không nói gì đến thành Giê-ru-sa-lem. Dường ấy, cổ quyển Sa-ma-ri trực tiếp chứng thực cho sự chơn chánh và đích thực của Ngũ kinh Môi-se, quyết rằng nó đã có trước năm 432 T.C. Cũng gián tiếp chứng cho những quyển kia quả cũng đã có từ trước năm 432 T.C. kia nữa; bằng chẳng vậy, thì dân Sa-ma-ri từ chối là từ chối cái gì?5. CHRIST LÀM CHỨNGChứng cớ có quyền hơn hết là chứng cớ của Christ. Ngài chứng cho sự chơn chánh và đích thực của cả Kinh điển Cựu Ước. Trong Lu-ca 24:44 Ngài công nhận cả ba phần của Cựu Ước, là Luật pháp Môi-se, các sách Tiên tri, và các Thi-thiên đều có thần quyền và dự ngôn về Ngài. Trong Tin Lành Ma-thi-ơ Ngài làm chứng thực cho tiên tri Giô-na, xem Ma-thi-ơ 12:39, 40. Trong Ma-thi-ơ 8:17 và Lu-ca 4:17, 18, Ngài lại đóng ấn cho sự chơn chánh của tiên tri Ê-sai, xem Ma-thi-ơ 8:17. Bằng chứng của Ngài đủ quyền quyết định một lần đủ cả về sự chơn thực của Kinh điển Cựu Ước vậy.III. SỰ CHƠN CHÁNH CỦA TÂN ƯỚCCó hai thứ bằng cớ chứng thực cho sự chơn chánh và đích thực của Kinh điển Tân Ước, tức ngoại chứng và nội chứng. Bài nầy chỉ luận đến ngoại chứng mà thôi.Hiện nay có bằng cớ xác thực minh chứng rằng Kinh điển Tân Ước đã được Giáo hội phổ thông tin nhận vào lối cuối thế kỷ thứ hai. Vả, ví bằng Giáo hội đã tín nhận các sách Tân Ước năm 200 S.C., thì lấy làm rõ lắm rằng các sách ấy đã được biên thuật trước niên hiệu ấy khá lâu rồi. Bởi vì không lẽ nào Giáo hội công nhận những sách mới trước thuật là do Đức Chúa Trời ban cho đâu. Tất nhiên Giáo hội phải trải một thời gian khá lâu mới có thể kê cứu những sách tự xưng là có thần quyền, để thí nghiệm cho biết ý nghĩa và tôn chỉ của nó mới được. Huống hựu trong thời kỳ ấy việc lưu thông Tân Ước khắp gần xa rất là chậm chạp, vì nghề ấn loát chưa phát minh, nên buộc phải dùng bút lông chim và mực mà sao lại từng quyển một. Các cớ ấy khiến cho ta phải đoán định rằng Kinh điển Tân Ước được xong dầu trễ đến đâu cũng chỉ vào lối đầu thế kỷ thứ hai, hay là ở về cuối thế kỷ thứ nhứt có lẽ đúng hơn. Ngoại chứng nầy có ba đoạn như sau đây.1. BẰNG CHỨNG DO CÁC GIÁO PHỤ ĐẦU TIÊNBằng chứng thứ nhứt là cái chứng nghiệm do các Giáo phụ của Giáo hội đầu tiên. Những nhà nầy vốn những trước giả của Giáo hội ở vào lối thế kỷ trước nhứt, có tài cao học rộng, mượn ngòi bút tuyệt diệu phô bày lẽ thật của thần đạo, khải thị trong Kinh Thánh. Họ được gọi là Giáo phụ vì họ vốn là giáo sư của Giáo hội, có tương quan với tín đồ như nghĩa thầy trò. Mà thật cái mối tương quan ấy bây giờ lại coi chẳng khác gì tình cha con vậy. Mấy ông nầy trước đã học trong các trường đại học của đời bấy giờ, rồi sau khi tin nhận Christ, bèn đem hết tài trí thông tuệ của mình mà dâng dùng vào Giáo hội, để dạy dỗ, binh vực và dẫn dắt hội ấy, cũng làm sáng danh Đức Chúa Trời, khiến cho đạo Ngài càng bành trướng thêm mãi.Các ông nầy ở rải rác khắp các miền tây bộ Asi, bắc bộ Phi Châu và nam bộ Âu Châu. Họ nói và trước thuật bằng văn Syriaque (Aramé), Hy-lạp và La-tinh. Trong vòng họ cũng có nhiều kẻ đành chịu biết bao khổ hình, bị cắt tay hay chặt chơn, khoét mắt hoặc hớt tai; người lại bị bắt bớ dữ tợn đến kết cuộc còn phải đành cam tuận đạo chẳng nao. Các ông nầy trước thuật lắm sách, phần nhiều để hoặc giải nghĩa hoặc thân oan đạo; thường hay viện dẫn nhiều câu trọn cả hai Kinh điển Tân Cựu Ước. Có người nói rằng có thể nhờ cả những câu của các Giáo phụ đầu tiên viện dẫn mà sưu tập lại cả Tân Cựu Ước được. Ông chủ nhiệm Burgon chép rằng bảy Giáo phụ quan trọng hơn hết đề có viện dẫn 36.289 câu trong Tân Ước.Vả, lời làm chứng của mấy ông ấy bắt đầu từ cuối đời các sứ đồ, trải suốt ba thế kỷ đầu tiên cho đến Công giáo nghị hội Nicée (325), nên rất có giá trị để chứng thực cho sự chơn chánh và đích thực của các sách Tân Ước; vì mỗi khi họ trưng dẫn một câu của Tân Ước, là mỗi lần minh chứng rằng các sách Tân Ước vốn thực hữu được Giáo hội tôn kính, dùng làm tiêu chuẩn và thước mực có một không hai của lẽ đạo mà giáo đồ phải tín nhận. Bằng chẳng có các sách ấy từ lúc bấy giờ, thì làm sao ai lại có thể căn cứ vào nó mà viện dẫn câu gì ra được. Sau đây kể lại từng một phương danh của các nhà ấy, cũng xét qua bằng chứng của họ.a)Clément ở thành La-mã (30-102 S.C.). – Giáo phụ Clément làm giám mục ở thành La-mã từ năm 92-102 S.C. Ông có chép một thơ đạt cho Giáo hội Cô-rinh-tô, ước vào năm 96 S.C. Trong thơ đó có trưng dẫn thơ của Phao-lô gởi cho Giáo hội ấy. Cũng ngụ ý nói đến sách Tin Lành Ma-thi-ơ và Lu-ca, Công-vụ, các thơ Rô-ma, IICô-rinh-tô, Ê-phê-sô, Tê-sa-lô-ni-ca I và II, ITi-mô-thê, Tít, Hê-bơ-rơ, Gia-cơ và IPhi-e-rơ. Bằng chứng nầy mạnh, bởi vì do đó nó có thể minh giải rằng ở vào lối cuối thế kỷ thứ nhứt đã có phần nhiều sách trong Tân Ước mà Giáo hội đã công nhận là có thần quyền, đáng trưng dẫn để giải chứng lẽ đạo Đức Chúa Trời.b)Giáo phụ Ignace (30-116 S.C.). – Giáo phụ Ignace làm giám mục tại thành Antioche, tuận đạo vào lối năm 116 S.C. (có kẻ nói: 107 S.C.). Ông có trước thuật bảy bức thơ đạt cho Giáo phụ Polycarpe, cho các Giáo hội Ê-phê-sô, Magnésie, Tralles, La-mã, Philadelphie và Smyrne. Ông từng viện dẫn nhiều câu ở trong cả 13 thơ tín của Phao-lô; cũng ngụ ý nói đến Tin Lành Ma-thi-ơ, Lu-ca, Giăng và thơ IPhi-e-rơ.c)Giáo phụ Polycarpe (69-155 S.C.). – Giáo phụ Polycarpe là bạn hữu của Ignace, môn đệ của sứ đồ Giăng, và giáo sư của Irénée. Như thế ông là một cái “vòng” nối lại đời các sứ đồ và đời Giáo phụ Irénée. Ông làm giám mục tại thành Smyrne, tuận đạo vào năm 155. Ông có chép thơ đạt cho Giáo hội Phi-líp, viện dẫn nhiều câu Tân Ước, như trong Tin Lành Ma-thi-ơ, Lu-ca, Giăng, Công-vụ, và thơ IPhi-e-rơ. Cũng trưng dẫn nhiều câu ở trong 10 thơ tín của Phao-lô, thừa nhận cả thảy là chơn chánh, được Đức Chúa Trời hà hơi vào. Bức thơ của Polycarpe vốn một bằng cớ đích xác minh chứng rằng nhằm lúc sanh tiền của ông, Kinh điển Tân Ước đã được sưu tập xong rồi.d)Giáo phụ Justin-Martyr (100-165 S.C.). – Justin vốn nhà triết học trứ danh, hằng tìm tòi lẽ thật, nhưng không được thỏa mãn cho đến khi gặp đạo Christ, mới nhận biết được sự bình an lạ lùng. Ông bèn khởi sự giảng đạo Chúa, đi khắp mọi nơi làm chứng cho Christ là Đấng đã làm thỏa lòng phỉ chí mình. Rốt lại ông phải lấy huyết đóng ấn cho sự tín ngưỡng mình tại thành La-mã năm 165 S.C. Ông có trước thuật hai thơ thân oan, gởi cho hoàng đế Antoine le Pieu (138-161). Cũng chép một sách nhan đề là Biện luận với Tryphon, người Do Thái, cốt để binh vực đạo Christ đối với người Do Thái. Ông trưng dẫn nhiều khúc trong Cựu Ước; cũng ám dẫn nhiều câu trong Tân Ước, nhứt là trong Tin Lành Ma-thi-ơ, Lu-ca và Giăng. Tuy ông không nói đến đích danh Phao-lô, thì cũng ám dẫn mấy câu trong thơ Rô-ma, ICô-rinh-tô, Ê-phê-sô và Cô-lô-se. Cũng nói đến Khải-huyền của sứ đồ Giăng.e)Giáo phụ Irénée (120-192 S.C.). – Irénée vốn một môn đệ của Polycarpe. Polycarpe là môn đệ của sứ đồ Giăng. Vì cớ ấy lời chứng của Irénée có giá trị lớn lắm. Ông đi giảng đạo tại xứ Gaule (Pháp), kế vị Pothin làm giám mục tại Lyon (Pháp) năm 178. Irénée trước thuật nhiều sách, nhưng phần nhiều bị lạc mất, chỉ lưu lại được một quyển nhan đề là “Bài bác tri thức giả dối”, cốt ý là bài xích tà thuyết ngộ đạo. Ông lợi dụng Kinh Thánh hơn các Giáo phụ trước để chứng cho lẽ đạo Christ, đến đỗi viện dẫn ước chừng 1800 câu trong cả Tân Cựu Ước. Ông chứng quyết rằng nhằm đời ấy cả hai Kinh điển Tân Cựu Ước đều được tập thành y như chúng ta vẫn có ngày nay.f)Giáo phụ Clément ở Alexandrie (150-217 S.C.). – Clément cũng một nhà triết học, khi tín nhận đạo Christ bèn trở nên người rất sốt sắng làm chứng cho đạo ấy. Ông qua đời vào lối 217 S.C. Clément có trước thuật nhiều sách phần nhiều luận về đạo Christ và rất có giá trị. Ông lợi dụng cả hai Tân Cựu Ước để giải nghĩa các vấn đề về lẽ đạo, viện dẫn hơn 2400 câu của Tân Ước, ám dẫn cả các quyển trong Tân Ước trừ ra thơ Phi-lê-môn, Gia-cơ và IIPhi-e-rơ.g)Giáo phụ Tertullien (160-220). – Tertullien vốn nhà trạng sư, sanh tại bắc bộ Phi Châu, tin Chúa khi vừa được 40 tuổi. Ngay lúc ấy ông đem dâng cho Chúa cả tài năng học lực uyên tâm của mình mà truyền bá Tin Lành. Ông qua đời vào lối năm 220 S.C. tại Carthage, bắc bộ Phi Châu. Ông trước thuật nhiều sách, hay trưng dẫn rất nhiều câu trong cả Kinh Thánh, riêng về Tân Ước ông viện dẫn hơn 7200 câu, chẳng có sách nào mà ông không ám dẫn đến. Ông Tertullien là người trước nhứt dùng danh từ Tân Ước.2. BẰNG CHỨNG DO CÁC BẢN PHIÊN DỊCH TRƯỚC NHỨTNhằm các thế kỷ đầu tiên của kỷ nguyên ta, đạo Christ bành trướng rất mau, có nhiều người trong các dân các nước đều tin nhận. Các tín đồ ấy rất muốn có thể đọc lời của Chúa bằng quốc văn của họ. Vả, Kinh Thánh nguyên trước bằng chữ Hê-bơ-rơ và chữ Hy-lạp, phần nhiều tín đồ không hiểu được. Vì cớ ấy có nhiều nhà hiền triết đạo đức lo phiên dịch Kinh Thánh ra các thứ chữ khác, để giúp cho các tín đồ của bất luận là dân tộc nào cũng có thể đọc và hiểu được. Những bản phiên dịch trước nhứt đó có giá trị rất lớn để chứng thực cho sự chơn chánh và đích thực của Tân Ước. Sau đây xin kể lại những bản quan hệ hơn hết.a)Diatessaron của Tatian (170 S.C.). – Tatian là môn đệ của Justin Martyr, có trước thuật nhiều sách. Ông thông biết Tân Ước, nhứt là bốn sách Tin Lành, vì ông có tham hiệp bốn sách ấy lại mà soạn thành một quyển nhan đề là Diatessaron (nghĩa đen: do bốn, có bốn mặt), cốt ý để thuật lại rõ ràng lịch sử của Christ theo bốn sách Tin Lành. Ông chỉ lợi dụng từ liệu trong bốn sách ấy, chẳng thêm tài liệu riêng gì cả. Ông trước thuật bằng chữ Syriaque. Đến năm 373 S.C. cũng có Ephraem, đã chứng thực cho sự chơn chánh của bốn sách Tin Lành, quyết rằng nhằm cuối thế kỷ thứ II người ta vẫn quen biết và công nhận bốn sách ấy từ lâu rồi.b)Bản Syriaque, cũng gọi là Peshito. – Tân Ước được phiên dịch ra chữ Syriaque ước chừng năm 150 S.C. Bản nầy gồm gần đủ các quyển thuộc Tân Ước, trừ ra thơ IIPhi-e-rơ, Giăng II và III, Giu-đe và Khải-huyền. Nguyên vì Giáo hội công nhận những thơ ấy hơi trễ về các năm sau hết, nên sự chưa nói đến những thơ ấy trong lúc nầy vốn là một bằng cớ chứng quyết bản Syriaque được dịch ra rất sớm chắc vào lối đầu thế kỷ thứ hai vậy.c)Cựu bản La-tinh. – Tân Ước được dịch ra chữ La-tinh rất sớm. Không thể nói chắc được vào năm nào, nhưng nhờ Tertulien vào lối năm 190-200 S.C. thường trưng dẫn rất nhiều câu ở trong bản nầy. Ông Cyprien (250 S.C.) cũng viện dẫn nhiều câu đoạn của bản ấy. Nhơn đó ta dám quyết rằng bản nầy thật được phiên dịch rất sớm vậy. Cựu bản La-tinh chắc được phiên dịch ở bắc bộ Phi Châu, nhưng không ai được biết dịch giả là ai. Lối dịch đúng với nguyên văn và rõ ràng, minh chứng cho sự chơn chánh và đích thực của văn tự nguyên bản Tân Ước vậy.d)Bản Vulgate. – Bản nầy gồm đủ cả Tân Cựu Ước, được dịch bởi Jérome năm 383-405 S.C. (Tân Ước 383-84, Cựu Ước 390-405). Các sách của hai bản đó đều có đủ trong bản Vulgate, minh chứng rằng trải lâu năm từ trước thế kỷ thứ IV, Giáo hội phổ thông đã công nhận sách ấy là chơn chánh, có thần quyền. Trải ngót 1000 năm Giáo hội chỉ biết có bản ấy. Cho đến bây giờ Giáo hội La-mã cũng chỉ công nhận bản nầy là chánh thức.3. BẰNG CHỨNG CỦA CÁC BẢN CỔ SAONguyên các sách Tân Ước đều được chép bằng cổ tự Hi-lạp hoặc chính tay các trước giả viết ra hay nhờ các thơ ký chép cho. Các nguyên bản thủ thơ ấy đều đã mất hết. Sự mất ấy tuy là đáng tiếc lắm, mà một mặt cũng có phước. Phước là vì nếu bản thủ thơ nào của Tân Ước còn lại, chắc lòng thiên nhiên tối tăm của loài người khiến họ tôn các thơ ấy lên quá cao, đến đỗi thờ lạy nó cũng nên. Thử xem như người ta đã thờ hài cốt của các thánh, tro của kẻ tuận đạo, mảnh gỗ thập tự giá của Chúa, miếng vải áo của bà Ma-ri, v.v. Thực ra những vật ấy đều là giả cả mà người ta còn thờ lạy, huống chi bản thủ thơ của các sứ đồ. Nên chắc Đức Chúa Trời dành để cho những thơ ấy mất đi, hầu ngăn ngừa lòng người quá ư mê hoặc mà nhiệt cuồng tôn sùng di vật về sau vậy.Dường ấy thì những bản thủ thơ của các sứ đồ hẳn đã bị mất đi rồi, vậy còn lấy đâu mà gọi được là nguyên văn của Kinh điển Tân Ước? Song cám ơn Chúa! Ngài đã bảo tồn lời phán của Ngài, chẳng để bị tuyệt diệt đâu. Trải suốt các đời đầu tiên của Giáo hội đã có người vì quá hâm mộ lời Chúa, nên chẳng nệ công phu khó nhọc, đã gia tâm sao lại các thủ thơ ấy để giữ làm của báu riêng, hay là để lưu thông khắp mọi nơi đã có tín đồ và đã lập thành Giáo hội của Chúa. Thành thử, tuy nguyên thủ thơ của các trước thuật Tân Ước đã bị mất, thì chúng ta vẫn còn có những bản cổ sao cũng bằng cổ văn Hi-lạp được sao lại từ chính các nguyên thủ thơ ấy. Trong số các bản cổ sao ấy tuy cũng có nhiều bản đã bị mất rồi, nhưng hiện còn lưu lại cho ta chừng 4000 quyển mà các nhà cổ văn học đã tra xét và đem vào bản liệt kê rồi. Các quyển ấy có quyền trọn vẹn, gồm đủ cả các sách thuộc Tân Ước, có quyển vì cớ bị hư rách hoặc mòn đứt mà phải thiếu mất ít nhiều trương. Trong bài nầy xin chỉ nói đến năm bản nguyên cổ sao quan hệ nhứt.a)Bản Cổ sao Si-na-i (Codez Sinaiticuc). – Theo sự đoán định của nhà cổ văn học, cổ thơ Si-na-i được sao lại vào lối năm 340 S.C. bằng cổ văn Hi-lạp, gồm cả Cựu Ước (bản LXX) và Tân Ước toàn thơ. Constantin Tischendorf, một nhà Thánh Kinh học Đức, tìm được cổ thơ nầy tại tu viện Saint Cathérine trên núi Si-na-i năm 1844. Hoàng đế Nga đem về Saint Petersburg (bây giờ là Lenigrad) để vào viện bảo tàng tại thành ấy. Mấy năm trước đây chánh phủ Sô-viết bán cổ bản nầy lại cho chánh phủ Anh, để vào viện bảo tàng Anh tại Londres.b)Bản cổ sao Vatican (Codex Vaticanus). – Cổ thơ Vatican hiện thuộc về Giáo hội La-mã, từ năm 1475 đến nay được để tại thơ viện Vatican ở thành La-mã. Theo sự luận đoán của các nhà cổ văn học, thì cổ bản nầy được sao lại vào lối năm 350 S.C. (hoặc là sớm hơn nữa), gồm cả Cựu Ước (bản LXX) và Tân Ước như chúng ta hiện có bây giờ.c)Bản Cổ sao Alexandrie (Codex Alexandrinus). – Cổ bản nầy cũng chép bằng cổ tự Hi-lạp, được sao lại vào lối giữa thế kỷ thứ V (năm 450 S.C.), có lẽ sớm hơn nữa, có đủ cả Cựu Ước (bản LXX) và Tân Ước toàn thơ. Cổ bản nầy chắc được sao lại tại Alexandria. Đến năm 1621, Cyril Lucar đem theo về Constantinople khi người được chức giáo trưởng tại đó. Qua năm 1624 ông lại biếu cho Sir Thomas Roe, khâm sai nước Anh ở Thổ Nhĩ Kỳ, để ông ấy đem về tặng cho vua nước Anh. Hiện nay vẫn còn thuộc về nước Anh, nằm trong viện bảo tàng Anh tại Londres.d)Bản Cổ sao Ephraem (Codex Ephraem). – Cổ bản Ephraem được sao lại ước chừng năm 450 S.C. bằng cổ văn Hi-lạp, gồm cả Cựu Ước và Tân Ước, nhưng không được trọn vẹn vì bị thiếu mất nhiều trương. Năm 1553 có người đem biếu cho Cathérine de Médici, hoàng hậu Pháp. Sau khi bà ấy băng hà, vua Pháp đem để vào Pháp quốc thơ viện (Bibliothèque Nationale) ở Paris. Ngày nay vẫn còn tại đó và thuộc về chánh phủ Pháp. Cổ bản nầy sở dĩ gọi là Ephraem, vì vào thời trung cổ có nhà tu sĩ đã dụng tâm xóa lấp nguyên văn, rồi chép lại những bài giảng của Giáo phụ Ephraem ở xứ Syrie (299-378 S.C.) lên trên, để thay cho nguyên văn ấy. Đến thế kỷ thứ XVII có một học sanh đương kê cứu các bài giảng của Ephraem, thoáng thấy dường như ở dưới lớp chữ đen kia có dạng chữ khác, nhưng rất lu lờ khó nhận. Kế đó nhà cổ văn học tra cứu thì thấy thực có như học sanh kia nói, mà hẳn lại là một cổ bản của Kinh Thánh bằng cổ văn Hi-lạp. Đến năm 1834 nhờ dùng một thứ thuốc, khiến cho nguyên tự dạng đều lộ ra rõ ràng, đến đỗi có thể đọc được.e)Bản Cổ sao Béza (Codex Bezae). – Cổ bản Béza được sao lại chừng năm 550 S.C. bằng cổ tự Hi-lạp và chữ La-tinh, chỉ gồm có bốn sách Tin Lành, Công-vụ, và IIIGiăng 1:11-15 mà thôi. Còn những sách khác đã mất rồi. Hiện nay thuộc về Đại học viện Cambridge, nước Anh, để vào thơ viện trường ấy.TỔNG LUẬNHết thảy những bằng cớ kể ra trên đây đều đồng thinh chứng quyết rằng cả Giáo hội từ đầu thế kỷ thứ II trở lên đều đã có Kinh điển Tân Ước, đã công nhận các sách sưu tập trong đó đều là chơn chánh và đích thực, có thần quyền để làm thước mực khuôn mẫu có một không hai cho sự tín ngưỡng và hành vi của tín đồ. Sự viện dẫn Tân Ước bởi các Giáo phụ, sự phiên dịch Kinh Thánh ra các thứ tiếng, bằng sự sao lại bằng cổ tự của chính các nguyên thủ thơ, mà ngày nay vẫn còn lưu lại cho ta được đến hơn 4000 cổ bản như thế, thật là một bằng chứng rất mạnh, khiến cho ta cũng phải công nhận rằng cả Tân Ước quả là chơn chánh và xác thực vậy.CHƯƠNG 4 – LUẬN VỀ SỰ ÐÁNG TIN KINH THÁNHI. ÐỊNH NGHĨA CHỮ ÐÁNG TINChương nầy luận về sự đáng tin Kinh Thánh; nghĩa là chúng ta có đáng tín nhận các biến động, sự tích, và lời lẽ biên chép trong đó đều là chơn thật cả chăng? Những chuyện siêu việt các trước giả biên chép lại đó há có phải thực được xảy ra như thế không? Bằng quả là chơn thật cả, mới đáng đem lòng tin. Trong chương nầy chỉ đem bằng cớ chứng cho sự đáng tin Tân Ước mà thôi, bởi vì nếu các nhà trước thuật Tân Ước là đáng tin, thì Cựu Ước cũng được như vậy, vì các nhà trước thuật ấy đều chứng thực cho sự ứng nghiêäm Cựu Ước cả.II. SỰ ÐÁNG TIN CỦA TÂN ƯỚCXét qua một bộ gọi là bốn sách Tin Lành, thấy những trước giả đều là người có tài trí, am tường việc họ biên thuật, có lòng thành thực, làm chứng cho đạo Christ, chỉ mong ích lợi cho kẻ khác mà thôi. Xin lần lượt kê cứu như sau đây.1.Các nhà trước thuật đều có tài trí. – Hễ ai nghiên cứu Tân Ước cách chín chắn, không sao không thấy rõ ràng rằng các trước giả đều là người không những là chỉ có tài trí tầm thường mà thôi, lại có tài trí thông minh trổi chúng nữa. Bằng chẳng, đâu hay có thể trước thuật những thơ như hiện có trong bộ Tân Ước?2.Các nhà trước thuật vẫn am tường việc họ biên thuật. – Người làm chứng đáng tin phải là người am tường việc mình làm chứng cho đó mới được. Bằng chẳng, lời chứng của họ không khi nào được tòa án nhận. Các trước giả Tân Ước đều làm chứng cho đạo Christ rất đáng tin, vì họ vốn thông thạo mọi sự tích, biến động và địa phương can thiệp đến sự sáng lập đạo ấy. Chẳng phải họ nhiệt cuồng, mê hoảng mà ký thuật những chuyện hoang đàng như thần thoại thuộc trong cõi ảo tưởng đâu, bèn là người đoan nghiêm, trung chính, và viết ra một cách rất giản dị thành thật; điều gì họ đã thấy và nghe thể nào, thì cứ thuật lại rất chơn thật ngay thẳng thể ấy, không hề thêm bớt hoặc giả mạo điều gì (IGiăng 1:1), cũng không hề tự dối mình, hoặc bị ai lừa gạt chi. Họ vẫn có dịp tiện nghe và thấy mọi điều họ ký thuật, vì họ vốn sanh trưởng ở xứ Palestine, là nơi phần nhiều sự tích và biến động biên thuật trong bộ Tân Ước đã xảy ra. Còn nếu có điều gì họ không được mười phần rõ biết, thì cũng có đủ phương tiện tra hỏi tìm tòi nơi những kẻ chứng kiến đích xác để biết chắc chắn các thực sự ấy. Vả lại, các sự tích và biến động mà họ thuật lại đó đều xảy ra cách phi thường, đến đỗi ấn tượng rất sâu trong tâm trí của họ không khi nào phai lạt được, khiến cho họ nên những bậc chứng kiến rất đáng tin cậy.3.Các nhà trước thuật đều là người thành thật. – Kê cứu qua lịch sử của các nhà trước thuật Tân Ước, thì thấy họ là người rất thành thực ngay thẳng, chẳng có ý gì phỉnh gạt lừa dối ai cả. Có ba điều minh chứng cho:a)Họ hy sinh quyết chứng. – Sự làm chứng về đạo Christ lúc bấy giờ rất nguy hiểm đến tánh mạng họ, chỉ đưa đến sự hoạn nạn, khốn khổ, bắt bớ, thậm chí đến chết nữa đó thôi. Họ cũng biết nếu cứ làm thinh thì hẳn được an nhiên vô sự như ai; còn cố ý tuyên bố Tin Lành của Christ ra, ắt không sao thoát khỏi sự thiệt hại lớn. Thế nhưng họ cứ ứng dụng truyền giảng như không thấy có trở lực gì cả. Ấy vậy, ta dám quyết rằng các trước giả không khi nào lừa dối ai, chỉ làm người chứng kiến chơn thực thôi; bởi vì theo lẽ tự nhiên chẳng ai vui lòng chịu chết vì sự dối trá đâu bao giờ.b)Các sách họ chép có trình độ đạo đức rất cao. – Trình độ đạo đức của các sách Tân Ước thật cao thượng vô song. Hầu hết các trước giả đời nay đều theo lối văn hoa hài hước để mua vui giải trí cho độc giả. Song các trước giả Tân Ước khác hẳn, toàn dùng lời văn giản dị mà mạnh mẽ và nghiêm trang, diễn giải luân lý tuy diệu kỳ mà dễ hiểu, chủ trương lẽ đạo thuộc linh có ích cho sự cứu rỗi linh hồn loài người. Các trước giả cũng rất kính trọng lẽ thật, hằng chuyên tâm dạy người ta phải vâng phục nó, chẳng có ý dám lừa gạt quyến dụ ai theo sự dối trá bao giờ.c)Họ không hề chữa lỗi che lầm. – Hễ ai cố ý lừa gạt người ta, dụ hoặc thiên hạ tín nhận chứng cớ mình là chơn thật, thì thường chữa chối hoặc che đậy tội lỗi, bao giờ cũng tỏ mình là trọn vẹn mà thôi. Các trước giả Tân Ước chẳng như vậy đâu, không hề tìm cách chữa chối tội phạm hay che đậy những khuyết điểm của họ, trái lại còn thuật rõ cho thiên hạ đều biết. Khi họ hoặc tả vẽ tội của Phi-lát hay là tội của Phi-e-rơ cũng cứ theo đúng luật kinh tế cả, không nói quá hoặc bên nầy, cũng chẳng che đậy bên kia, chỉ một mực đúng thực sự thôi. Lý do ấy buộc ta phải đoán rằng sự làm chứng của họ quả đáng tin lắm, bởi vì họ vốn là người thành thật mọi đàng.4.Các trước giả của bốn sách Tin Lành đều chứng thực lẫn nhau. – Tuy bốn trước giả của bốn sách Tin Lành đều độc lập ký thuật các sự tích, thì chẳng có sự phản đối nhau trái lại cả bốn người đều chứng thực cho nhau cả, chứng kiến của kẻ nầy tương hiệp với chứng kiến của người kia cách rập ràng. Vả, nếu chỉ có một người làm chứng cho một biến động quan hệ nào, thì có lẽ có thể sanh sự nghi hoặc. Nhưng nếu có bốn người thành thực, đạo đức đều độc lập, mà đồng thinh làm chứng cho cùng một biến động ấy cách rập ràng không phản đối gì nhau cả, thì không ai còn có thể hoài nghi chi nữa. Dám quyết rằng trong cõi lịch sử chẳng có thực sự nào có bằng cớ mạnh mẽ và rõ ràng để chứng thực cho nó bằng các thực sự của bốn sách Tin Lành. Nên chi ta đem lòng tin nhận bốn chứng kiến ấy đến mực nào cũng chẳng phải là quá đáng đâu.TỔNG LUẬNCác bằng cớ vừa kể ra trên đây minh chứng rằng các trước giả của bốn sách Tin Lành đều là những nhà chứng kiến thành thực, đáng tin lắm. Vậy, nhìn thực sự ấy ta cũng buộc phải công nhận rằng sự trước thuật của họ, nào các phép lạ, nào lời tiên tri của Christ và các sứ đồ đều là chân thật cả. Vả, Đức Chúa Trời có khi nào thi hành phép lạ hoặc tỏ bảo cuộc tương lai để chứng thực cho những giáo sư giả sao? Chẳng hề bao giờ! Sự tự xưng của Christ và các sứ đồ chắc là chân thật, họ quả là các giáo sư từ Đức Chúa Trời mà đến; còn lẽ đạo họ truyền dạy đó chắc là sự khải thị của Đức Chúa Trời ban bố cho loài người như họ đã quả quyết vậy.CHƯƠNG 5 – LUẬN VỀ THẦN QUYỀN CỦA KINH THÁNHI. THÍCH NGHĨA DANH TỪ THẦN QUYỀNTrong thần học danh từ thần quyền chỉ về quyền năng của Đức Chúa Trời thi thố điều gì vậy. Trong Thánh Kinh học thì chỉ về Kinh Thánh có quyền của Đức Chúa Trời, lời trong Kinh Thánh là lời của chính Ngài phán cho loài người để dạy bảo họ các lẽ đạo về sự cứu rỗi, về phận sự của tín đồ, về Giáo hội, về tương lai. Thế thì, lời Kinh Thánh là thước mực của lẽ đạo, tiêu chuẩn của đời sống tín đồ, và điển pháp mà Giáo hội phải vâng theo.II. LÝ DO TIN KINH THÁNH CÓ THẦN QUYỀN1. VỀ CỰU ƯỚCVề bộ Cựu Ước, chúng ta nhờ lời chứng của Chúa Jesus mà biết chắc chắn kinh điển ấy có thần quyền. Xem Lu-ca 24:27, 44.Lại mỗi khi Chúa hoặc các sứ đồ phán dạy gì thì thường trưng dẫn kinh văn Cựu Ước, để chứng thực cho, chớ chẳng hề vin nơi quyền bính nào khác để chứng nghiệm lẽ đạo nào hết. Xem Lu-ca 10:26; 16:29; Giăng 5:39; Rô-ma 4:3; IITi 3:15.Phao-lô cũng khen tín đồ ở Bê-rê vì “họ đều sẵn lòng chịu lấy đạo, ngày nào cũng tra xem Kinh Thánh, để xét lời giảng có thật chăng” (Công 17:11).Đấng Christ từng trách bọn Pha-ri-si vì họ thêm bớt lời Kinh Thánh, giả mạo lời phán của Đức Chúa Trời.Xem Ma-thi-ơ 15:7-9. – Cũng xem Mác 7:5-8; Khải 22:18, 19 và Phục 4:2; 12:32; Giô 1:7.Nhờ những cớ kể trên ta có thể quyết định rằng bộ Cựu Ước quả có thần quyền.2. VỀ TÂN ƯỚCChúng ta cũng nhờ lời chứng của Christ mà biết rằng Tân Ước cũng có thần quyền. Xin kê cứu qua những bằng cớ sau đây thì sẽ rõ.a)Chính Christ phán cho môn đồ biết rằng Ngài sẽ trở lên trời trước khi sự khải thị được hoàn toàn. Xem Giăng 16:12.b)Cũng có hứa rằng khi Ngài đã trở lên trời rồi, thì Thánh Linh trong họ sẽ làm hoàn toàn sự khải thị của Ngài. Xem Giăng 16:13.c)Khi Đấng Christ đã thăng thiên rồi, bèn làm cho ứng nghiệm lời hứa của Ngài, mà ban Thánh Linh cho các sứ đồ. Nhờ sự mặc cảm của Ngài mà họ thuật lại và biên chép mọi sự họ đã nghe và thấy ở nơi Chúa, vâng mạng Ngài mà làm chứng về đời sống, sự chết, và sự sống lại của Ngài, họ dùng môi miệng và văn tự của lẽ thật bởi Thánh Linh trực tiếp và gián tiếp khải thị cho mà khuyên dạy. Xem Giăng 15:27; Giăng 16:13; Công 1:8. – Cũng xem Ma-thi-ơ 28:19-20; Công 9:15,17.d)Vả, Đấng Christ vốn biết trước những lời các sứ đồ sẽ nhờ Thánh Linh mặc cảm mà biên chép lại, cho nên khi Ngài chọn lập họ, thì Ngài đã hứa sẽ ban cho họ biết mọi lẽ thật còn thiếu. Mà nếu quả Ngài đã ban cho điều ấy thì ắt cũng ban luôn cho lời họ phải biên thuật ra đó có thần quyền bằng chính lời Ngài đã phán vậy. Ma-thi-ơ 10:14, 15; Lu-ca 10:16; Giăng 13:20Giăng 17:20TỔNG LUẬNẤy vậy, nhờ các bằng chứng kể ra trên đây ta dám quả quyết rằng cả bộ Tân Ước có thần quyền, và là khuôn vàng thước ngọc có một không hai, dạy bảo về lẽ đạo Giáo hội phải tín ngưỡng, về cách phải thờ phượng, và về hành vi cử chỉ trọn vẹn của cá nhân tín đồ là thế nào. Ở ngoài Kinh Thánh quả chẳng có quyền bính nào khác, hoặc do lời người nào hay do sách vở gì có thể tự xưng có thần quyền để dạy bảo về những sự quan hệ ấy được.CHƯƠNG 6 – LUẬN VỀ SỰ ÐỨC CHÚA TRỜI HÀ HƠI VÀO KINH THÁNH I. ÐỊNH NGHĨA DANH TỪ HÀ HƠI VÀO1. NGHĨA CHỮ HÀ HƠI VÀOKinh Thánh được Đức Chúa Trời hà hơi vào có nghĩa gì? Đáp: Các nhà trước thuật Kinh Thánh đều được Thánh Linh mặc cảm để nhận lãnh và ký thuật sự khải thị của Đức Chúa Trời, đến đỗi lời họ ký thuật đó đều là vô ngộ, có đủ quyền làm khuôn phép thước mực có một không hai cho sự tín ngưỡng và hành vi của tín đồ. Nói cho rõ hơn, Thánh Linh của Đức Chúa Trời cảm động các thánh đời xưa, khiến họ biết rõ ý mầu nhiệm của thánh đạo Đức Chúa Trời, nhờ Thánh Linh mà nói ra, cảm bởi Thánh Linh mà chép thành, đến đỗi những sách họ trước thuật đều chẳng có chút nào sai lầm. Vả, ý hà hơi vào cũng bao hàm cả hai bên Đức Chúa Trời và loài người, đến đỗi có thể nói rằng Kinh Thánh chẳng khác gì Chúa Jesus Christ, gồm có cả hai thần tánh và nhơn tánh. Cho nên Kinh Thánh vẫn là chiếu thơ của Đức Chúa Trời bởi Thánh Linh khải thị cho các đầy tớ Ngài. Xem trong Kinh Thánh thường có những câu rằng: “Giê-hô-va phán”, “Chúa phán”, “Đức Chúa Trời phán”, “Thánh Linh phán”. Đó chứng cho thần của Kinh Thánh. Ngoại giả, Thánh Linh còn lợi dụng tâm trí và sự từng trải của trước giả mà chép ra nữa. Như Môi-se vì có học thức theo giáo dục Ai-cập, nên lời nói của ông có khí vị văn chương. Còn như A-mốt là tay chăn chiên, nên lời nói của ông không thể thoát khỏi giọng điệu của kẻ chăn chiên. Lu-ca vốn làm thầy thuốc, thành thử văn liệu của ông vẫn biểu lộ những lời ý của các nhà y học lão luyện. Các sách của Phi-e-rơ, Giăng, Phao-lô, thảy đều tỏ cốt cách mường tượng như bình sanh của họ vậy. Bao nhiêu thực sự ấy đều chứng quyết cho nhơn tánh của Kinh Thánh một cách rất đích thực.Thế thì, danh từ hà hơi vào có hai mặt, một là mặt hướng cùng Đức Chúa Trời gọi là hà hơi, tức là chính Đức Chúa Trời hà hơi. Còn mặt kia là chữ vào, can thiệp đến loài người. Đức Chúa Trời hà hơi vào trước giả Kinh Thánh, ban cho họ ơn vâng theo ý chỉ Ngài, làm đồ dùng cho Thánh Linh để nhận lãnh sự khải thị của Đức Chúa Trời, và biên chép lại trong bộ sách không sai lầm. Tuy lẽ thật của sự khải thị ấy, chỗ linh nghiệm và thần quyền của nó đều là do Đức Chúa Trời ban cho, thì công phu bày ra bằng tiếng và chữ của loài người là do trước giả, nhờ sự mặc cảm của Thánh Linh giữ gìn, khiến cho hoặc nói ra hoặc chép lại đều không sai lầm chút nào.2. SO SÁNH HAI DANH TỪ KHẢI THỊ VÀ SOI SÁNG VỚI DANH TỪ HÀ HƠI VÀOCó hai danh từ khác, lắm khi người ta hiểu lộn với danh từ hà hơi vào, tức là khải thị và soi sáng.a)Khải thị. – Khải thị chẳng phải đồng nghĩa ngữ với hà hơi vào đâu. Nghĩa đen chữ ấy như ta đã thấy là Đức Chúa Trời thông bảo lẽ thật cho tài trí loài người có thể hiểu thấu được, là lẽ thật loài người tự nhiên vốn chẳng có thể tìm kiếm hoặc thấu hiểu nổi.b)Soi sáng. – Đức Chúa Trời hay soi sáng trí não loài người để giúp họ hiểu thấu ý nghĩa chánh đáng của lẽ thật mà Ngài đã khải thị rồi. Ấy vậy, sự soi sáng chẳng bao giờ bày ra lẽ thật mới nào cả, chỉ giúp đỡ cho kẻ kê cứu có đủ sự sáng sủa thuộc linh để hiểu lẽ thật đã bày ra rồi đó thôi. Xem Lu-ca 24:32, 45.Đem ba danh từ khải thị, soi sáng và hà hơi vào mà so sánh với nhau, thì có thể đoán rằng, mọi lời chép trong Kinh Thánh đều được Đức Chúa Trời hà hơi vào, nhưng mà mọi lời ấy chẳng phải đều là khải thị cả đâu; bởi vì nhiều thực sự chép trong Kinh Thánh loài người tự nhiên có thể biết được. Mọi lời Kinh Thánh nhờ sự mặc cảm của Thánh Linh mà chép lại; nhưng các trước giả có lẽ không phải đều toàn được soi sáng để thấu hiểu ý nghĩa chánh đáng của lời họ chép đó. Thí dụ:(1)Trong Lu-ca và Công-vụ có sự hà hơi vào, song chẳng có sự khải thị. Bởi vì điều Lu-ca tự thuật là điều mà mắt ông đã thấy và tai ông đã nghe. Thánh Linh đã mặc cảm tâm trí, cai trị ngòi bút của ông đến đỗi mọi lời ông biên chép đều là chơn thật cả. Xem Lu-ca 1:1-4.(2)Trong Khải-huyền có sự hà hơi vào, mà cũng có sự khải thị nữa; bởi vì phần lớn của sách Khải-huyền đều là lẽ thật mới, lý tánh tự nhiên không sao tìm ra đặng. Xem Khải 1:10, 11.(3)Trong các sách tiên tri đều có sự hà hơi vào, nhưng lắm khi trước giả thiếu sự soi sáng, nên không hiểu được ý nghĩa của lời mình đương chép đó là gì cả. Xem IPhi 1:10, 11.(4)Còn trong thơ tín của Phao-lô có sự hà hơi vào, có sự khải thị, mà cũng có sự soi sáng nữa; bởi vì Phao-lô hiểu thấu ý nghĩa lời Thánh Linh mặc cảm cho ông chép ra vậy. Xem ICô 2:12.II. BẰNG CHỨNG VỀ SỰ HÀ HƠI VÀOChúng ta nhận thấy Đức Chúa Trời đã ban cho loài người sự khải thị đặc biệt rồi. Thế nhưng Ngài há có giao sự khải thị ấy cho họ một cách thờ ơ lơ lửng chăng? Có đành để cho họ dùng ký ức bất toàn mình mà truyền thuật lại cho hậu sinh ta ư? Dám quả quyết rằng Đức Chúa Trời không nỡ nào làm như vậy! Đấng Toàn năng đã tìm phương pháp khôn ngoan để bày tỏ mình ra thì chắc cũng phải tìm phương thế để truyền sự khải thị ấy lại một cách không sai lầm, hầu cho loài người có thể đem lòng tin cậy đến và được cứu rỗi, cảm tạ Đức Chúa Trời! Thánh Linh không những là lo khải thị Đức Chúa Trời cho loài người chúng ta mà thôi, lại cũng lo mặc cảm các nhà nhận lãnh sự khải thị ấy, khiến họ đủ ơn biên thuật lại trong một bộ sách gọi là Kinh Thánh, đến đỗi các sự tích, biến động và lẽ đạo trong bộ ấy không sai lầm chút nào.Sau đây xin kể lược những bằng chứng về sự Đức Chúa Trời hà hơi vào Kinh Thánh. Có hai thứ bằng chứng là nội chứng và ngoại chứng.1. NỘI CHỨNGA) Nội chứng trực tiếp

  • Về Cựu Ước – Christ làm chứng. – Chúa Jesus Christ vốn chứng giả rất đáng tin, lại là Sứ giả đến từ Đức Chúa Trời. Ngài chứng thực cho sự hà hơi vào Cựu Ước, quyết rằng cả kinh văn ấy là chính lời của Đức Chúa Trời. Ngài thường trưng dẫn lời ấy bắt đầu bằng câu “có chép rằng”. Vả, hễ người Do Thái nào nghe ai dùng lời ấy thì hiểu ngay rằng lời trưng dẫn đó là lời Kinh Thánh, có thần quyền, bởi chính Đức Chúa Trời ban bố cho. Christ lại gọi Kinh Thánh là “lời Đức Chúa Trời phán” (Giăng 10:35), quyết rằng “Kinh Thánh không thể bãi bỏ được” đến đỗi dầu “một chấm một nét trong luật pháp không qua đi được” (Ma-thi-ơ 5:18); (Cũng xem Ma-thi-ơ 4:4, 6, 7; 11:10; Mác 14:27; Lu-ca 4:2-4). Thế thì, lấy làm rõ ràng lắm, Kinh Cựu Ước là lẽ thật đích xác của Đức Chúa Trời, không chỗ nào sai lầm cả.
  • Về Tân Ước. – Có ba bằng cớ minh chứng cho sự hà hơi vào Kinh Tân Ước như sau nầy:

a)Chúa Jesus làm chứng. – Chúa Jesus lập các sứ đồ, ủy nhiệm chức giáo sư cho họ, hứa rằng Thánh Linh sẽ giúp đỡ họ cách siêu việt về công việc dạy dỗ, cũng như Đức Chúa Trời đã giúp đỡ các tiên tri xưa vậy.Trong Ma-thi-ơ 28:19, 20 Chúa bảo các sứ đồ hãy đi truyền Tin Lành ra, và hứa rằng sẽ thường ở với họ cho đến tận thế. Trong Công 1:8 Ngài lại hứa ban Thánh Linh cho họ để họ làm chứng về Ngài cho đến cùng trái đất. Nếu đem các câu ấy so sánh với các lời hứa cho Môi-se (Xuất 3:12), cho Giê-rê-mi (Giê 1:5-8), cho Ê-xê-chi-ên (Êxê 2 và 3), và cho các tiên tri khác, thì rõ ràng lắm, Chúa kể lời của các sứ đồ có quyền bằng lời của các tiên tri xưa vậy. Xem Ma-thi-ơ 28:18, 20.Xuất 4:12; Giê 1:7-8; Êxê 2:3; Êxê 3:4; Ês 44:3; Giô-ên 2:28; Giăng 14:26; Giăng 15:26, 27; Giăng 16:13Thế thì, nhờ lý cớ nầy ta đoán rằng lời của các sứ đồ cũng có sự hà hơi vào bằng lời của các tiên tri trong Cựu Ước vậy.b)Các sứ đồ làm chứng. – Các sứ đồ đều quả quyết rằng họ đã nhận lãnh Thánh Linh mà Chúa Jesus đã hứa. Nhờ Ngài mặc cảm, họ giảng dạy và trước thuật các có thần quyền, đến đỗi lời họ ký thuật đều có cùng một giá trị và linh nghiệm bằng lời trong Kinh Cựu Ước. Không những là các sứ đồ trực tiếp tự quyết nhận có thần quyền, hoàn toàn nhờ Thánh Linh soi dẫn lời và chữ họ chép mà thôi, lại còn nhờ ở cái giọng đoan nghiệm và cách cao thượng trải suốt các sách của họ chép đó, hẳn đều đồng thinh minh chứng cho sự thần quyền của họ nữa. Những câu viện dẫn sau đây chứng rằng các sứ đồ nhờ sự mặc cảm trực tiếp của Thánh Linh mà dạy bảo. ICô 2:10,13; ICô 11:23; ICô 12:8, 28; ICô 14:37, 38; Ga-la-ti 1:12; ITê 4:2, 8Còn những câu trưng dẫn sau đây nữa thì lại chứng rằng sự dạy dỗ của sứ sồ đều có thần quyền bằng sự dạy dỗ của bộ Cựu Ước. IPhi 1:11, 12; IIPhi 1:21; IIPhi 3:2, 16Phao-lô quyết rằng cả Kinh Thánh đều được Đức Chúa Trời hà hơi vào. Phi-e-rơ cũng dạy rằng các thơ tín của Phao-lô có thần quyền bằng Kinh Cựu Ước. Nhiều câu trong Kinh Tân Ước chú trọng về thần quyền, quyết rằng hễ ai không tín nhận sự tự thuật trong đó thì mắc tội nặng. IITi-mô-thê 3:16; IIPhi-e-rơ 3:16; Ga-la-ti 1:1, 2; IGiăng 5:10, 11; Giu-đe 1:3Vả, các câu viện dẫn trên đều minh chứng rằng những trước giả của Tân Ước phân biệt sự hà hơi vào với sự tư tưởng riêng. Cũng quả quyết rằng họ được hà hơi vào cũng như các tiên tri xưa vậy (Khải 22:6). Về Cựu Ước thì sự hà hơi vào do Christ chưa giáng sanh mà ra. Còn sự hà hơi vào của Tân Ước lại do Christ thăng thiên bởi cơ quan Thánh Linh mà được nên.c)Phép lạ và lời tiên tri làm chứng. – Các nhà trước thuật Tân Ước đều làm phép lạ và nói tiên tri đặng chứng quyết rằng họ được Đức Chúa Trời hà hơi vào. Về thực sự ấy họ rất khác với các nhà hiền triết và văn hào trong bái vật giáo, vì họ thường tự xưng được Trời mặc cảm để dạy bảo. Ma-thi-ơ 10:1; IICô 12:12Còn về các quyển do những người không hành chức sứ đồ chép ra, như sách Tin Lành Mác, Lu-ca, thơ Hê-bơ-rơ, Gia-cơ và Giu-đe, thì có bằng cớ chứng rằng các sứ đồ gởi gắm những thơ ấy cho các Giáo hội, công nhận là được hà hơi vào và có thần quyền như các thơ của chính sứ đồ vậy.B. Nội chứng gián tiếpCũng có những nội chứng gián tiếp làm chứng Kinh Thánh được hà hơi vào. Đây xin lược kể lại vài ba chứng ấy:1)Đặc tánh siêu nhiên của Kinh Thánh làm chứng. – Kê cứu qua Kinh Thánh, rất dễ thấy bộ sách nầy khác hẳn với mọi sách khác. Kinh Thánh am hiểu tâm linh loài người, xét đoán linh hồn, phản đối tình dục, phơi tội lỗi ra và hạ sự kiêu căng xuống. Lại bổ chỗ khuy khuyết của lòng, giải quyết vấn đề khó hiểu, bày tỏ bản tánh Đức Chúa Trời, chỉ dạy sự tha tội, dẫn đường đến thiên đàng, an ủi khi hoạn nạn, giúp đỡ lúc yếu đuối, giải cứu phút hấp hối. Cả Kinh Thánh đầy ý nghĩa cao xa mầu nhiệm, không ai hiểu thấu hết, càng kê cứu bao nhiêu, lại càng gặp sự hay mới bấy nhiêu. Nói cho đúng, sách nầy khác hẳn với các sách khác, khiến cho ta phải thán phục mà nhận là do Đức Chúa Trời ban xuống cho chúng ta bởi sự hà hơi vào vậy.2)Bản tánh siêu việt của Christ làm chứng. – Tân Ước tả ra Christ rất khác với mọi người không cứ là ai, vì Ngài có bản tánh toàn vẹn vô cùng, không tội lỗi, không khuyết điểm gì cả, mọi phương diện của bản ngã Ngài cũng đều đặn, thánh khiết rất mực cả, đến đỗi bạn hữu hay thù nghịch cũng đều đồng thinh chứng rằng: “Chẳng có ai giống như Ngài bao giờ.” Christ là trung tâm điểm và tôn chỉ của cả Kinh Thánh, bản tánh siêu nhiên Ngài chạy suốt qua mọi câu, mọi đoạn, mọi sách trong Kinh Thánh làm cho cả văn tự đều đồng hưởng được đặc tánh siêu nhiên ấy.3)Sự hiệp nhứt của Kinh Thánh làm chứng. – Kinh Thánh tuy có nhiều người chép mà thực chỉ có một tâm trí trước thuật mà thôi. Nội dung Kinh Thánh tuy gồm 66 quyển , có chừng 36 nhà trước thuật, sống vào các thời đại rất xa cách nhau, trình độ tài học cũng khác nhau. Dầu vậy, 66 quyển ấy đều chỉ có một đề mục, một tinh thần, một mục đích, một tôn chỉ suốt qua hết thảy. Trong vòng các trước giả ấy ra thấy rõ người sau chót chẳng chép điều gì có thể gọi là hơi hơi phản đối với kẻ đầu tiên, nhưng cả lời chép của họ đều đồng một ý với nhau, sự dạy dỗ và sự biên thuật của họ trở nên một thống hệ thần đạo trọn vẹn vô song. Tại cớ sao Kinh Thánh có sự hiệp nhứt như thế? há chẳng phải vì chỉ có một Đại Tác giả là chính Đức Chúa Trời đấy ư?2. NGOẠI CHỨNGCó mấy bằng chứng ở ngoài Kinh Thánh gọi là ngoại chứng. Tuy các bằng cớ nầy ở ngoài Kinh Thánh, nhưng rất can thiệp đến sự dạy dỗ của Kinh Thánh, minh giải rằng văn tự của cả Kinh Tân Cựu Ước đều được Đức Chúa Trời hà hơi vào. Xin kể lược dưới đây:a)Các phép lạ làm chứng. – Các trước giả Kinh Thánh đều thuật lại nhiều phép lạ, hoặc bởi nhà tiên tri, hoặc bởi Christ hay là bởi các sứ đồ làm ra. Vả, phép lạ tức là một công việc, hoặc một biến động xảy ra quá trí hiểu và năng lực của loài người. Ở ngoài các phép lạ mà Môi-se làm ra trong xứ Ai-cập, Cựu Ước lại còn có những phép lạ cũng rất quan hệ như:(1)Sự tuyệt diệt bọn Cô-rê, Dân 16; (2) Sự đi qua Giô-đanh, Giô 3:14-17; (3) Sự đánh đổ thành Giê-ri-cô, Giô 6:6-20; (4) Ê-li dâng hi sinh trên núi Cạt-mên, ICác 18:17-40; (5) Sự chữa bịnh phung cho Na-a-man, IICác 5:10-27; (6) Sự phá hủy đạo quân A-si-ri, IICác 19:35; (7) Bóng lui mười độ trên trắc ảnh độ, IICác 20:8-10; (8) Ba bạn Hê-bơ-rơ trong lò lửa, Đa-ni-ên 3:20-27.Trong Tân Ước có chép lại nhiều phép lạ của Christ và các sứ đồ làm ra. Các phép lạ của Christ can thiệp đến hết cõi thiên nhiên và cõi siêu nhiên, có ảnh hưởng trên cả phần thuộc linh và thuộc thể của loài người. Ngài làm cho gió yên lặng, khiến nước hóa ra rượu, làm cho năm ổ bánnh và hai con cá hóa ra nhiều, đuổi quỷ, chữa bịnh, kêu kẻ chết sống lại. Các trước thuật của Kinh Thánh đều lợi dụng các phép lạ, mà chứng quyết cho quyền năng và sứ mạng mình đều do Đức Chúa Trời ban cho. Chính Jesus Christ cũng làm như vậy khi môn đồ Giăng đến hỏi thăm Ngài có phải là Mê-si hay không, thì Ngài đáp, – xem Ma-thi-ơ 11:3-5.Thế thì các phép lạ đều là bằng cớ đích xác chứng rằng sứ mạng của Kinh Thánh và trách nhiệm của các trước giả đều là siêu việt, do chính Đức Chúa Trời bởi Thánh Linh mặc cảm mà có vậy. Xem Ma-thi-ơ 8:3; Mác 1:34, 41, 42.; Mác 6:56; Mác 8:7-9; Lu-ca 5:24, 25; Lu-ca 8:54, 55; Lu-ca 18:42, 43; Giăng 5:8, 9; Công 3:6-8b)Lời tiên tri làm chứng. – Một bằng cớ rất mạnh làm chứng rằng Đức Chúa Trời quả có hà hơi vào cả lời lẽ trong Tân Cựu Ước ấy là lời tiên tri được ứng nghiệm. Trải qua các đời trước có nhiều đầy tớ của Đức Chúa Trời tự xưng mình đã lãnh được sứ mạng của Ngài để dự cáo về cuộc tương lai. Một phần lớn của những sự dự cáo ấy được ứng nghiệm như lời. Đây xin kể lại những điều quan hệ hơn mà thôi.(1)Cựu Ước. – Cựu Ước có nhiều lời tiên tri can thiệp đến nào là dân Y-sơ-ra-ên, nào là các dân ngoại bang và Đấng Christ. Các tiên tri đều dự cáo về sự đánh đổ và tuyệt diệt nước A-si-ri và Ba-by-lôn trong lúc hai nước ấy vẫn còn phú cường cực điểm, chẳng có một dấu hiệu tự nhiên gì có thể ám chỉ cho các Đấng ấy biết trước về hai nước đó mà hòng tiên đoán cái biến động bi kịch kia được. Tuy vậy, lời dự cáo ấy được ứng nghiệm trọn cả. Xem Ê-sai 13:19-22.; Ê-sai 14:22, 23; Giê 50:13, 39, 40; Na-hum 3:7; Sô-phô-ni 2:13, 14Cựu Ước cũng dự ngôn về nước Ai-cập, vẻ ra tương lai nước ấy cách tường tận. Quả nước nầy không bị tuyệt diệt như A-si-ri và Ba-by-lôn, nhưng bị suy nhược, phải đầu phục các cường quốc khác, cũng như tiên tri Ê-xê-chi-ên đã dự cáo vậy. Xem Êxê 29:15.Trong Phục 28:, Môi-se vẽ ra tương lai của dân Do Thái, dự cáo rằng họ sẽ không vâng phục Đức Chúa Trời, nhưng sẽ phạm tội và bị tan tác khắp thế gian. Lời nầy đã được ứng nghiệm đầy đủ, chẳng sai chạy một chữ nào. Trải qua 19 thế kỷ, dân Do Thái bị tan tác khắp địa cầu, đến ngày nay lời tiên tri của Môi-se vẫn còn được ứng nghiệm ở trước mặt ta. Xem Phục 4:27.; Nê-hê-mi 1:8.; Giê 9:16; A-mốt 9:9Những lời tiên tri về các điều khác như là,(a)Sự đền thờ bị phá hủy, được lập lại và lại bị phá hủy lần chót nữa. Xem Giê 26:9.; Ê-sai 44:28; Đa-ni-ên 9:26(b)Bàn thờ tại Bê-tên bị vua Giô-si-a phá đổ: ICác 13:2; IICác 3:15, 16(c)Thành Giê-ru-sa-lem bị dân Ba-by-lôn triệt hạ: Xem IICác 20:17.(d)Dân Do Thái bị làm phu tù 70 năm tại Ba-by-lôn. Xem Giê 29:10.(e)Dân Do Thái trở lại tổ quốc và được vua Si-ru ra chỉ dụ cho phép họ trở về. Xem Ê-sai 44:28.(f)Các chiến tranh giữa nước Sy-ri và Ai-cập (Xem Đa-ni-ên 11:2-35).Đền thờ bị quân đội Ba-by-lôn phá hủy năm 586 T.C. (IICác 25:13-16), được lập lại bởi Xô-ru-ba-bên năm 516 T.C. (E-xơ-ra 5 và 6). Vua Hê-rốt dỡ cái đền nầy mà xây cất một đền mới nguy nga đẹp đẽ hơn cái cũ (20-19 T.C.). Đền thờ ấy lại bị quân đội La-mã phá hủy năm 70 S.C. Bàn thờ tại Bê-tên (nước Y-sơ-ra-ên), thật bị vua Giô-si-a phá đổ như tiên tri đã nói (IICác 23:15, 16). Còn thành Giê-ru-sa-lem bị vua Nê-bu-cát-nết-sa đánh hạ năm 586 T.C. Từ năm 604 đến năm 586 T.C. thì dân Do Thái lần lần bị đem qua Ba-by-lôn và làm phu tù tại đó trọn 70 năm như Giê-rê-mi đã dự ngôn. Đến năm 534 T.C. nhằm đời Si-ru, thì dân Do Thái được phép trở về cố quốc, lập lại đền thờ cũng như Ê-sai đã nói trước (Ê-sai 44:28; Đa-ni-ên 9:1, 2; IISử-ký 36:22, 23; E-xơ-ra 1:1-11). Còn các trận chiến tranh giữa nước Sy-ri và Ai-cập thì đã thật được xảy ra hệt như tiên tri Đa-ni-ên đã nói trước trong sách của ông (Đa-ni-ên 11:2-35). Thế thì, ta có thể quả quyết rằng lịch sử thế giới đã minh chứng rằng những lời dự cáo kể trên đây và nhiều lời khác đều được ứng nghiệm hết, chẳng một lời nào sót cả. Thực sự ấy vốn một bằng cớ mạnh chứng rằng Kinh Thánh được Đức Chúa Trời hà hơi vào.(2)Sự dự ngôn về Christ. – Từ thời thượng cổ trải qua nhiều thế kỷ trước Chúa giáng sanh, có nhiều lời dự cáo về một Đấng do dân Do Thái sẽ ra đời trở nên nguồn phước cho cả thiên hạ. Kinh Thánh chép rằng Đức Chúa Trời ban lời hứa ấy cho A-đam, cho Áp-ra-ham, cho Y-sác, và cho Gia-cốp ít nữa là hai ngàn năm trước khi Chúa giáng sanh. Huống lại, khoảng thời gian từ Áp-ra-ham cho đến chừng 500 năm trước kỷ nguyên ta có nhiều nhà tiên tri dấy lên tái tam dự quyết về Đấng ấy, dự cáo thêm về dòng dõi và họ hàng Người, về chỗ và niên hiệu phải giáng sanh; về đời sống, công việc, sự chết, sự chôn, sự sống lại, và sự thăng thiên của Người. Xem Sáng 3:15; Sáng 22:18; Sáng 26:4; Sáng 28:14; Ê-sai 53:2, 3, 5, 9; Thi 22:1, Thi 22:14, Thi 22:17, Thi 22:18, Thi 22:22Kê cứu qua Tân Ước, thì thấy mọi lời dự ngôn ấy đều được ứng nghiệm đầy trọn ở nơi Chúa Jesus Christ, y như đã dự cáo, dầu nửa lời cũng chẳng hề sai chạy.c)Đạo Tin Lành bành trướng cách mau chóng cũng làm chứng. – Nghiên cứu lịch sử Hội Thánh, thì thấy đạo Christ mới chỉ trong hai ba thế kỷ mà đã dấy lên, lan tràn và toàn thắng thế giới văn minh một cách lạ lùng. Suy nghĩ về thật sự ấy lại nảy thêm một vấn đề nầy: Cớ sao hôm nay muôn muôn triệu triệu người đều sùng bái phục sự một Người ra từ dân Do Thái đê hèn, lại bị nhục hình thập tự như một thủ phạm kia? Tại sao trong các dân các nước có người đành lòng liều mình đặng truyền bá về đời sống của một Người dường ấy, lại vui chịu mọi sự khốn khổ thậm chí bị giết chết cũng cam, miễn được dịp tiện thuật chứng cho thiên hạ nghe về sự sống, sự chết và sự sống lại của Người ấy? Cớ sao do sự giảng dạy làm chứng của 12 môn đồ rất tầm thường kia mà chỉ trong khoảng ba trăm năm cả La-mã đế quốc kiêu căng kia phải cúi phục dưới chơn Đấng bị đóng đinh ấy? Há chẳng phải vì Đấng ấy vốn Con Đức Chúa Trời hiện ra trong xác thịt đó ư? Há chẳng phải sứ mạng của các môn đồ Ngài báo cáo đó là do Đức Chúa Trời ban xuống, nhờ sự mặc cảm của Thánh Linh mà được giảng dạy biên chép cách mau chóng đó minh chứng rằng Kinh Thánh được Đức Chúa Trời hà hơi vào vậy. Bằng chẳng, thử hỏi, vin vào lý do gì mà cắt nghĩa nổi cái cớ mà Tin Lành bành trướng ra mau chóng lạ lùng dường ấy được ư?Vả, loài người tự nhiên còn lấy làm khó biết được cả việc hiển hiện trước mắt, huống chi những việc cao xa, mầu nhiệm thuộc về cuộc tương lai thì làm sao thấu rõ nổi? Nếu không có Đấng Vô sở bất tri khải thị những việc vừa kể ra trên đây, thì chẳng có người nào hiểu thấu mà dự cáo gì được. Thành thử phải đoán rằng các trước giả Kinh Thánh đều được Thánh Linh mặc cảm mà nói trước các việc phải xảy ra về sau, còn chính điều ấy chứng thực cho sự Đức Chúa Trời hà hơi vào Kinh Thánh vậy.d)Sự thực hữu của Hội Thánh làm chứng. – Rải rác khắp trên mặt đất nầy có một hội gọi là Giáo hội hay là Hội Thánh của Christ (Eglise Chrétienne). Thuộc viên của hội ấy vốn đủ sắc người trong các nước, các dân, thuộc trong các dòng giống trong mọi thứ tiếng nói, và mọi tập tục phong hóa khác nhau; nhưng hết thảy đều đồng tâm hiệp ý tôn sùng bái phục Chúa Jesus Christ, xưng hô Ngài là Con Đức Chúa Trời. Cứu Chúa của thế gian. Xin hỏi, cái căn nguyên của Hội Thánh ấy ở đâu? Đáp: Hội Thánh là sự kết quả của lẽ đạo khải thị biên tập trong Kinh Thánh, là thực nghiệm của cả sự dạy dỗ của kinh ấy, hưởng được bản tánh siêu việt của thánh văn đó, đến đỗi tuy bị muôn trùng thù nghịch hằng lập đủ gian mưu quỉ kế phá hoại, thì Hội Thánh vẫn đứng vững, chứng quyết cho Christ, xem Công 4:12. Thế thì, nếu không có Kinh Thánh, ắt cũng không có Hội Thánh. Vậy Hội Thánh minh chứng cho căn nguyên siêu việt của Kinh Thánh, quả quyết rằng vốn bởi Thánh Linh mặc cảm trước giả mà ban bố cho ta vậy.e)Sự từng trải của tín đồ làm chứng. – Mọi tín đồ vốn là kẻ có tội, đứng trong địa vị tối tăm, buồn bã, chỉ đầy lòng sợ hãi về khổ cảnh tương lai ở trong địa ngục. Nhưng may thay! Khi gặp Tin Lành củaChrist, đọc được sứ mạng của Kinh Thánh, rồi đem lòng tin nhận, thì được tha tội, được dời khỏi chốn tối tăm qua nơi sáng láng của Christ, được đầy dẫy sự vui mừng, cũng được hi vọng vinh hiển về đời sau. Các tín đồ từng trải các phước hạnh như thế, đều đồng thinh chứng rằng Kinh Thánh quả được Đức Chúa Trời hà hơi vào, có thần quyền, vì nhờ thần từ của sách đó mà mình hưởng được đặc ân phước lớn dường ấy. Quả như Phi-e-rơ chép, xem IPhi-e-rơ 1:23, 24.Lại Kinh Thánh chẳng khác gì cái gương soi, hễ ai nhìn vào thì hẳn đương thấy rõ chơn tướng của mình là thế nào, chẳng khác bức tranh tả thực trăm phần đầy đủ, đến đỗi lẽ thật của Kinh Thánh có quyền bày tỏ ra sự tín nhiệm hơn hết của lòng, khen điều phải, trách điều quấy, chẳng hề tây vị ai cả. Suy nghĩ về thực sự nầy, rất dễ nhận biết rằng ngoài Kinh Thánh chẳng có sách nào khác có quyền siêu việt như thế. Còn quyền ấy há chẳng phải do Đức Chúa Trời hà hơi vào bộ sách kia mà có đấy ư?f)Sự bảo tồn Kinh Thánh làm chứng. – Đến chúng ta ngày nay mà còn được cầm Kinh Thánh trong tay, hẳn cũng là một phép lạ không gì bằng. Từ xưa đến nay có vô số thù nghịch đồng tâm hiệp lực dùng đủ trăm mưu ngàn kế, quyết tuyệt diệt Kinh Thánh cho khỏi mặt đất. Nào là các hoàng đế La-mã, nào là các giáo chủ bái vật giáo, nào là các giáo hoàng, nào các nhà bác học của đời, nào sự ngu muội của bọn vô thần đảng, hết thảy đều đã rán công ra sức lo đánh đổ Kinh Thánh. Mà lạ thay! Mặc dầu đã gặp vô số hiểm tượng dường ấy mà Kinh Thánh vẫn cứ còn, cứ được phiên dịch, cứ ấn loát, cứ tái bản, và cứ lưu thông; lại nữa, chẳng có khi nào mà người ta mua và xem Kinh Thánh nhiều như hiện nay. Có người nói Kinh Thánh như một hòn đá vuông, dầu xô lật bên nào, cũng vẫn thấy cao và vững một mực như thế thôi. Cớ sao vậy? Há chẳng phải vì Kinh Thánh vốn một cách siêu nhiên được Đức Chúa Trời bảo tồn đến ngày nay đấy ư? Chính thực sự ấy cũng quyết chứng cho nội dung của Kinh Thánh hoàn toàn được Đức Chúa Trời hà hơi vào vậy.III. PHƯƠNG THỨC HÀ HƠI VÀO1. CÓ BA PHƯƠNG THỨCSự hà hơi vào Kinh Thánh có lẽ có nhiều phương thức, lấy làm khó cho lý tánh hiểu thấu cả được. Song nghiên cứu qua cho kỹ có thể nói Đức Chúa Trời hà hơi vào Kinh Thánh theo ba cách nầy:a)Mặc thị, thức là các trước giả Kinh Thánh đã chép những sự mà trí não bình sanh họ không thể biết được, có lẽ cũng không hiểu ý được nữa. Xem IPhi-e-rơ 1:10-12.b)Hiển thị, tức là trước giả bỗng chúc được biết một sự mà bình sanh họ không thể biết đến hoặc hiểu ý nghĩa được. Xem Đa-ni-ên 12:8.c)Mặc cảm, tức là Thánh Linh cảm thông lòng trước giả, khiến cho người chép theo lời Chúa, xác hiệp ý Chúa không sai suyển điều nào cả. Đức Chúa Trời không những khải thị cho lòng trước giả rõ những điều chưa rõ, biết các lẽ chưa biết; nhưng cũng hà hơi vào lòng người để biên tập lại mỗi đều thuận hiệp lẽ thật, chẳng xen lộn ý nào của người nào cả. Xem Giăng 16:12-15.2. HAI CÂU KINH THÁNH VẼ PHƯƠNG THỨC HÀ HƠI VÀO KINH THÁNHCó hai câu Kinh Thánh vẽ ra phương thức Đức Chúa Trời dùng mà hà hơi vào Kinh Thánh.a)Câu thứ nhứt là IITi-mô-thê 3:16. Từ liệu “được Đức Chúa Trời hà hơi vào”, nguyên văn Hi-lạp là théopneustos, nghĩa đen là “được Đức Chúa Trời hà hơi vào.” Thế thì, theo sự dạy dỗ của chính Kinh Thánh, Đức Chúa Trời dùng hơi sống của Ngài mà hà vào các lời lẽ của kinh ấy, đến đỗi tuy lời lẽ đó vốn thuộc về tiếng nói của loài người đi nữa, thì cũng chẳng có lời lẽ nào sai lầm cả; hết thảy đều là lời hằng sống của Đức Chúa Trời có đủ thần quyền dạy dỗ loài người biết chánh đạo để cho được cứu rỗi trọn vẹn.b)Câu thứ hai là IIPhi-e-rơ 1:21. – Hai chữ “cảm thúc”, nguyên văn là phéroménoi, nghĩa đen là “thúc giục”, “đưa tới”, “lay động”, “cảm động”. Vậy Đức Chúa Trời cảm động và thúc giục các trước giả của Kinh Thánh phải nói và chép theo ý chỉ của Ngài. Sự thúc giục ấy không phá hủy sự tự chủ của họ đâu, nhưng làm cho ý chỉ họ đồng hóa với ý chỉ của Đức Chúa Trời, đến nỗi sự muốn của Ngài trở nên sự muốn của họ vậy.VI. PHẠM VI CỦA SỰ HÀ HƠI VÀOKinh Thánh được Đức Chúa Trời hà hơi vào đến chừng mực nào? Có phải phạm vi của sự hà hơi vào chỉ là hà hơi vào ý nghĩa của văn tự mà thôi, hay là đến cả chính văn tự ấy cũng được hà hơi vào nữa không? Phải nói rằng, Kinh Thánh có lời Đức Chúa Trời, hay là nói, Kinh Thánh là lời của Đức Chúa Trời, câu nào là lẽ thật? Nếu nói theo câu thứ nhứt, thì ai biết phân biệt lời nào là lời của Đức Chúa Trời, lời nào là không? Cả Kinh Thánh là lời của Đức Chúa Trời, được hà hơi vào, không những là ý nghĩa của văn tự, lại chính cả văn tự mà trước giả dùng đặng chép cũng được hà hơi vào nữa vậy. Lẽ tất nhiên Đức Chúa Trời không thể nào bày tỏ ý tưởng của Ngài cho loài người miễn là phải lợi dụng tiếng và chữ của họ mới được. Cho nên nếu tư tưởng trong Kinh Thánh được hà hơi vào, thì văn tự cũng phải được hà hơi vào nữa vậy. Sự hà hơi vào nầy thần học gọi là sự hà hơi vào sau từng chữ (Inspiration verbatum). Những câu viện dẫn sau đây làm chứng cho phạm vi của sự hà hơi vào cả Tân Cựu Ước.1. CHỨNG CHO CỰU ƯỚCa)Ba-la-am: Dân 22:38; Dân 23:12.b)Môi-se: Xem Xuất 4:10-12; Dân 17:1, 2; Phục 4:2; Phục 6:1; Phục 29:1;c)Giô-suê: Giô 1:1, Giô 1:5, Giô 1:8d)Đa-vít: IISa-mu-ên 23:2.e)Sa-lô-môn: Châm 30:5, 6.f)Ê-sai: Ê-sai 5:24; Ê-sai 8:1.g)Giê-rê-mi: Giê 1:7-9; Giê 7:27; Giê 13:12; Giê 30:1, 2; Giê 36:1, Giê 36:2, Giê 36:4, Giê 36:11, Giê 36:27-29.h)Ê-xê-chi-ên: Êxê 2:7; Êxê 3:10,11; Êxê 24:2.i)Đa-ni-ên: Đa-ni-ên 12:8, 9.j)Mi-chê: Mi-chê 3:8k)Ha-ba-cúc: Ha-ba-cúc 2:2.l)Xa-cha-ri: Xa-cha-ri 7:8-12.2. CHỨNG CHO TÂN ƯỚCa)Phao-lô: ICô 2:13; 14:37; ITê 2:13.b)Phi-e-rơ: IPhi-e-rơ 1:10, 11; IIPhi-e-rơ 1:20, 21; 3:1-2.c)Chúa Jesus Christ: Ma-thi-ơ 10:20; Mác 13:11; Lu-ca 12:12; 21:14, 15.d)Chứng khác: Công 2:4; 4:31; Giu-đe 1:17; Khải 2:7.V. CÁC LÝ THUYẾT VỀ SỰ HÀ HƠI VÀOTrong vòng các nhà thần đạo có bốn ý kiến khác nhau về lẽ đạo Đức Chúa Trời hà hơi vào Kinh Thánh. Nay xin lược khảo như sau đây.1. TRỰC GIÁC PHÁT TRIỂN THUYẾTa)Phát huy lý thuyết. – Thuyết nầy chủ trương rằng Đức Chúa Trời hà hơi vào Kinh Thánh chẳng phải là một việc siêu nhiên đâu, chỉ là do ngộ tài tự nhiên hiểu thấy lẽ thật đó thôi. Tài hiểu ấy vốn một nguyên tài mà mọi người đều đã có, nhưng người nào tài nấy, hơn kém khác nhau, kẻ hiểu nhiều, người hiểu ít. Thuyết nầy lại dạy rằng các trước giả Kinh Thánh đều là các tay tài giỏi, thông hiểu tôn giáo và luân lý hơn chúng, đến đỗi có đủ nghị lực chép sách vở đạo giáo gọi là Kinh Thánh. Họ thông hiểu đạo giáo và luân lý chẳng khác gì các nhà bác học thông hiểu khoa học thiên nhiên, nên mới có đủ nghị lực trước thuật sách vở tả vẽ các thực sự về khoa học ấy. Cái thuyết nầy thuộc về lý tánh luận, kể chính loài người là nguồn gốc của mọi thứ tri thức, bất luận là thuộc về cõi thiên nhiên hay cõi thuộc linh cũng vậy. Giáo hội Unitaire (Thần nhứt vi hội) tín ngưỡng theo cái thuyết nầy.b)Chỗ sai lầm của thuyết nầy. – Thuyết nầy có những chỗ sai lầm như sau đây:(1)Tuy loài người có thể hiểu lẽ thật của cõi thiên nhiên, thì tài ấy chẳng đủ hiểu thấu lẽ thật thuộc linh đâu, bởi vì nó đã bị tội làm cho hư hoại, thường hiểu sai lầm những lẽ thật thuộc về đạo giáo và luân lý chơn thật. Bằng chẳng có Đấng Toàn năng giúp đỡ, mặc cảm tâm trí loài người, ban bố cho họ lẽ thật cách siêu nhiên, chắc không sao tránh khỏi phải sa vào hầm sai lạc được. Xem ICô 2:14, 10.(2)Nếu ngộ tánh là nguồn có một không hai của lẽ thật về đạo giáo và luân lý chơn thật, thì chắc phải sanh sự lộn xộn trong tôn giáo giới không xiết kể, khiến thuyết nầy phản đối với thuyết kia, đến đỗi không còn ai biết đâu mà phân biệt phải quấy được nữa. Giả như thuyết nầy là đúng, thì Ma-hô-mết là tiên tri Ngài. Trước giả kinh Védas bên Ấn-độ thì được mặc cảm để chứng quyết rằng chơn thần là Vishnu, một vị thần gian dâm ô uế cực điểm. Còn các trước giả Kinh Thánh đều phản đối cả hai nhà kia mà quyết rằng Giê-hô-va là Đức Chúa Trời và Chúa Jesus là Con Ngài. Kinh Védas cho phép ăn trộm cướp, phạm tội tà dâm. Kinh Cô-ran quyết rằng phải ra công rán sức mới được cứu. Còn Kinh Thánh lại phả đối hẳn với cả hai chủ nghĩa đó. Thành thử, rất vô lý mà nói rằng cả ba đều được hà hơi vào, hẳn phải có hai trong ba ấy là giả dối mới hữu lý vậy.(3)Thuyết nầy lẫn lộn lẽ thật của đạo với ý kiến riêng của người ta, đến đỗi có bao nhiêu ý kiến tức là bấy nhiêu lẽ thật khiến cho ta không còn thể nào mà biết được sự thật giả trong đạo giáo là gì nữa, vì mỗi người mỗi lẽ thật, mỗi người mỗi tôn giáo vậy. Thành thử, có sự lộn xộn, không ai có thể giải quyết chi được cả.(4)Thuyết nầy nếu luận ra cho ráo lý, thì thấy nó không phải dạy lẽ thật đâu, trái lại, nó chối lẽ thật thì có. Còn chối lẽ thật, tức là chối chính Đức Chúa Trời là nguyên lý và căn bản của lẽ thật. Bởi vì hễ quyết rằng cái bản năng trực giác (hoặc ngộ tánh) của loài người phát triển mọi lẽ thật, cố nhiên nhắc loài người lên bực tối cao trong linh giới, khiến họ soán vị Đức Chúa Trời đó vậy.(5)Thuyết nầy thực ra không giải nghĩa lẽ đạo về Đức Chúa Trời hà hơi vào Kinh Thánh đâu, chỉ chối đi thì có. Bởi vì nếu không có Đức Chúa Trời, thì thế nào có Ngài hà hơi vào cái gì? Dường ấy, đạo hà hơi vào không còn có nghĩa lý gì nữa, chỉ trở nên một từ liệu người ta dùng để tả vẽ tài trí giỏi giang của mình đó thôi.2. CHIẾU MINH THUYẾTa)Phát huy lý thuyết. – Chiếu minh thuyết dạy rằng từ liệu “Đức Chúa Trời hà hơi vào Kinh Thánh” có nghĩa là Đức Chúa Trời soi sáng vào lòng dạ và tài trí các trước giả, ban cho họ có sự sáng sủa để hiểu thấu lẽ đạo thuộc linh hơn. Còn sự soi sáng ấy chẳng khác gì sự soi sáng Ngài từng ban cho tín đồ thường. Lại quyết rằng Kinh Thánh có lời của Đức Chúa Trời nhưng không đáng gọi cả Kinh Thánh đều là chính lời ấy; các trước giả được Đức Chúa Trời hà hơi vào là chỉ có cái quan niệm về ý nghĩa đó thôi, chớ văn tự của họ chép thì vẫn là không có. Cũng thêm rằng sự soi sáng nầy chỉ tài bồi cho những bản năng của các trước giả Kinh Thánh, nhưng không ban cho họ hiểu biết lẽ thật mới mà bản năng họ không thể tự nhiên hiểu thấu được đâu.b)Chỗ sai lầm của thuyết nầy. – Thuyết nầy cũng rất sai lầm. Sau đây xin chỉ tỏ mấy ngộ điểm:(1)Sự soi sáng của Thánh Linh không hề khải thị lẽ thật mới, chỉ soi sáng cho ta có thể hiểu rõ hơn về lẽ thật đã được khải thị ra rồi đó thôi. Khi Thánh Linh muốn ban lẽ thật mới, thì phải dùng sự hà hơi vào, dùng cách siêu nhiên mà khải phát lẽ thật ấy; còn nếu muốn cho ta hiểu đúng nghĩa lẽ thật ấy, thì chỉ soi sáng cho là đủ, chớ không cần hà hơi vào ai nữa.Giả như chúng ta ở trong một cái buồng tối kia, nếu có thắp đèn sáng đến đâu đi nữa, thì cũng chỉ có thể thấy rõ mọi vật ở trong buồng ấy mà thôi. Chớ còn cái buồng khác ở một bên hoặc là ở phía sau kia bị khóa cửa kỹ, không ai trong buồng ta đứng có thể qua đó được, mà cũng không thể mở cửa buồng ấy, vì người ở trong buồng đó giữ chìa khóa; cũng chẳng ai có nhãn quang có thể ngó suốt ngang qua cửa kia, mà thấy những vật trong buồng ấy được; dầu có thắp đèn soi sáng cho đến bực nào cũng chẳng thấy gì được. Nếu muốn thấy trong buồng khóa cửa ấy thì phải làm sao? Phải thắp đèn tỏ hơn không? Hoặc cần khêu tim đèn cho sáng hơn chăng? Không thể được, thảy vô ích đó thôi. Cần phải có người ở trong buồng kín ấy lấy chìa khóa mở cửa cho chúng ta vào, thì mới thấy rõ mọi sự vật được. Cũng một thể ấy, lẽ thật chánh giáo vốn kín giấu ở nơi Đức Chúa Trời. Ngài phải hà hơi vào các trước giả Kinh Thánh, khải thị cho họ nhận lãnh những lẽ thật ấy, mở cửa kho tàng chứa các lẽ đạo quý báu của Ngài ra, để cho các đầy tớ Ngài xem biết. Rồi nếu muốn để cho họ và chúng ta đều có thể hiểu rõ ý nghĩa đúng của các lẽ đạo ấy, thì Thánh Linh phải soi sáng cho ta trong lúc kê cứu đến vậy.(2)Nếu lý thuyết nầy đúng, thì tín đồ nào cũng có thể cầm bút trước thuật Kinh Thánh mới, hoặc là thêm sách mới gì vào bộ Kinh điển đã tập thành rồi cũng được cả.(3)Theo thuyết nầy thì hẳn chưa có điển pháp nào để đoán định lẽ nào là thật, lẽ nào là giả; dường ấy rất cần phải có một sự khải thị mới nữa, đặng giải quyết về sự khải thị ta đã nhận lãnh rồi đó, để biết phần nào là chơn chánh cần phải theo, phần nào là giả ngụy đáng phải bỏ.(4)Vả, nếu loài người chưa nhận lãnh sự khải thị thứ hai đó để phân biệt lẽ thật giả trong Kinh Thánh, thì theo thuyết nầy người ta phải nhờ lý tánh sáng suốt để quyết đoán về Kinh Thánh hầu định lẽ nào phải công nhận, lẽ nào phải chối bỏ. Như thế, Kinh Thánh không còn là nguồn duy nhứt của lẽ đạo và luân lý chơn chánh nữa, bèn là lý tánh chiếm quyền cao cả trong công việc giải quyết mọi sự thuộc về đạo giáo và tín ngưỡng của ta. Thành thử, chiếu minh thuyết nầy kết cuộc chỉ đưa đến sự chối bỏ đạo chánh đó thôi.3. KHẨU THỤ THUYẾTa)Phát huy lý thuyết. – Thuyết nầy xướng rằng các trước giả của Kinh Thánh đều chỉ là những thơ ký của Đức Chúa Trời, những bộ máy thọ động, mà Ngài lợi dụng để biên lại các chữ và tiếng mà Ngài phán truyền cho, đến đỗi trong khi chịu mặc cảm để nhận lãnh sự khải thị của Đức Chúa Trời đó, thì họ mất cả sự tự do, chẳng được dùng đến bản năng tài trí mình nữa, chỉ viết theo sự khẩu thụ của Thánh Linh, làm việc chẳng khác gì máy viết kia, nếu đánh chữ a, nó liền in chữ a vậy. Theo thuyết nầy, họ đều là những bộ máy vô tri cả, còn lời họ chép đó bất quá là bài ám tả của Đức Chúa Trời đọc cho đó thôi.b)Chỗ sai lầm của thuyết nầy. – Thuyết nầy cũng chẳng đúng, có những ngộ điểm sau đây:(1)Kinh Thánh tỏ ra có khi Đức Chúa Trời dùng lời và tiếng loài người phán cho các trước giả Kinh Thánh, bảo phải chép vào sách. (Xem Dân 7:89; 8:1; Đa-ni-ên 1:10, 11). Dầu vậy, chẳng có bằng cớ gì chứng rằng Đức Chúa Trời chỉ lợi dụng phương thức đó mà truyền bảo ý chỉ Ngài cho họ mãi thế đâu, nhưng vẫn còn dùng nhiều cách khác hơn rất thích hiệp vơi bản năng tự do của trước giả nữa vậy.(2)Thuyết nầy chẳng kể đến cái “nhơn tánh” tỏ ra trong Kinh Thánh, cũng không giải quyết được tại sao lối văn và kiểu viết của trước giả nầy khác với lối văn và kiểu viết của trước giả kia. Ví bằng họ viết theo sự khẩu thụ, thì tại sao không đồng một lối văn, rập khuôn kiểu viết?Nội dung của các văn thể Kinh Thánh đều chứng rằng các trước giả đều là người có tài trí thông minh, tự do trước thuật, chớ không phải làm việc một cách vô cảm giác, chỉ thụ động như mấy móc kia đâu bao giờ. Thánh Linh cảm động các lương năng thiên nhiên của họ, lợi dụng tài trí vốn có của họ đó mà ban bố cho ta sự khải thị của Ngài, chớ không hề phá hủy sự tự do của họ. Kìa, cách bốn trước giả bốn sách Tin Lành biên thuật về những chữ để bảng treo trên đầu thập tự giá của Chúa cũng đủ minh chứng cho thực sự nầy rồi.Ma-thi-ơ chép: “Đây là Jesus vua dân Do Thái” (Ma-thi-ơ 27:37).Mác chép: “Vua dân Do Thái” (Mác 15:26).Lu-ca chép: “Đây là vua dân Do Thái” (Lu-ca 23:38).Giăng chép: “Jesus, Người Na-xa-rét, vua dân Do Thái” (Giăng 19:19).Đây ta thấy bốn ông ấy tuy biên thuật một việc đến bốn cách như thế mặc dầu, mà không hề phản đối nhau, dầu chắc quan Phi-lát đề những chữ trên bảng kia chỉ một cách mà thôi. Vậy tại sao sự biên thuật của bốn trước giả ấy đều khác nhau như thế? Ấy chính chẳng qua vì họ cũng là người, nên việc biên thuật đó kẻ theo lối nầy, người theo lối khác, song cả bốn đều thuật lại đúng theo chỉ một thực sự mà họ đã xem thấy và ghi nhớ đó thôi. Còn Thánh Linh hà hơi vào sự biên thuật ấy hầu cho khỏi bị thất thật, nhưng không nghiêm cấm họ biên thuật theo lối riêng của bản tánh cá nhơn họ vậy.4. THẦN ĐỘNG LỰC THUYẾTThuyết nầy thích hiệp với Kinh Thánh, dạy rằng sự Đức Chúa Trời hà hơi vào Kinh Thánh chẳng phải là việc do tài trí thiên nhiên mà ra, như thuyết trực giác phát triển đã dạy trên kia; bèn là công việc siêu nhiên bởi quyền phép Thánh Linh trực tiếp cảm động tâm trí các trước giả Kinh Thánh, thúc giục họ theo ý chỉ Ngài mà biên thuật, nhưng chẳng hề phá hủy sự tự chủ của họ.Thần động lực thuyết cũng phản đối với chiếu minh thuyết mà dạy rằng Đức Chúa Trời hà hơi vào Kinh Thánh không phải là soi sáng tài trí các trước giả hầu cho các lương năng của họ có thể hiểu rõ hơn lẽ đạo tôn giáo đâu, bèn là thần quyền hành động cả bản ngã và lòng đạo đức của trước giả, khiến họ có thể nhận lãnh và biên lại lẽ thật cách không sai lầm. Thuyết nầy cũng quyết rằng Đức Chúa Trời không những là hà hơi vào trước giả mà lại còn hà hơi vào văn tự họ biên thuật nữa, đến đỗi cả hai đều được thần lực toàn cảm, tập thành một bộ sách gồm cả khải thị của Đức Chúa Trời rất đáng tín nhận vậy.Thuyết nầy cũng phản đối thuyết khẩu thụ kia nữa, quyết rằng Kinh văn cũng như Đấng Christ, gồm có thần nhơn hai tánh, có hai yếu tố, cái này đến từ Đức Chúa Trời, cái kia ra bởi loài người. Tuy Kinh Thánh vốn một toàn thơ gồm cả lẽ thật khải thị của Đức Chúa Trời, thì cũng vẫn được chép theo văn thể của loài người, rất xứng hiệp với tài trí hiểu biết thiên nhiên của họ. Các trước giả Kinh Thánh thật chẳng phải là những bộ máy thọ động đâu, bèn được Thánh Linh lợi dụng làm khí giới tự động, mượn bổn tánh, tài năng, trí hiểu của họ mà làm cái ống thông dẫn để đổ phước hạnh của lẽ thật Ngài cho loài người vậy.CHƯƠNG 7 – LUẬN VỀ QUYỀN TUYỆT ÐỐI CỦA KINH THÁNH Trong vòng những kẻ xưng mình là tín giáo của Christ có ba ý kiến khác nhau về cái quyền tuyệt đối của đạo ấy. Ba ý kiến ấy là: 1. Giáo hội cầm quyền ấy; 2. Lý tánh cầm quyền ấy; 3. Kinh Thánh là nguồn của quyền ấy.I. GIÁO HỘI CẦM QUYỀN TUYỆT ÐỐI TRONG TÔN GIÁOGiáo hội La-mã đề xướng cái ý kiến ấy, quả quyết rằng sự chủ trị lòng tín ngưỡng và cách hành vi của tín giáo đều do một quyền cao cả là Giáo hội. Hễ ai muốn được cứu rỗi rất cần phải vâng phục các mạng lịnh của Giáo hội và phẩm trật của hội ấy mới được. (Xem Quyển I luận về những nguồn lầm lạc của thần học sẽ rõ thêm).II. LÝ TÁNH CẦM QUYỀN TUYỆT ÐỐI TRONG TÔN GIÁOLý tánh phái đề xướng ý kiến nầy, quyết rằng mọi điều gì trong Kinh Thánh và cõi thiên nhiên mà lý tánh hiểu thấu mười phần trọn vẹn, thì những điều đó mới đủ quyền cho ta tín nhận tuân theo. Còn điều gì lý tánh không thể rõ được, thì chẳng có giá trị gì, chẳng buộc ai phải tín nhận, bỏ đi cũng không phải là uổng. Thành thử, phái nầy tôn lý tánh lên làm quan xét cho Kinh Thánh và Đức Chúa Trời là Đại Trước giả của bộ sách ấy nữa. Nhưng khá biết rằng bao giờ quyền bính Kinh Thánh cũng vẫn cao hơn lý tánh, bày tỏ nguyên trạng của loài người vốn toàn vẹn, rồi sau bị sa ngã. Về tương lai sẽ được hạnh phước ở trên trời hay là phải bị khổ sở ở dưới địa ngục, tùy điều họ công nhận hay là chối bỏ lời của Đức Chúa Trời vậy. Kỳ thực, loài người chẳng phải là quan xét của Kinh Thánh đâu, bèn là Kinh Thánh sẽ xét đoán họ ở ngày sau rốt vậy. Xem Hê-bơ-rơ 4:12, 13.Lý tánh ở ngoài Đức Chúa Trời không thể nào cầm quyền quyệt đối trong sự giải quyết đạo lý, bởi vì không thể nhận được những điều thuộc về Đức Chúa Trời. Xem ICô 2:14.Mà dầu cho đến lý tánh đạo đức được Thánh Linh soi sáng đi nữa cũng chẳng dám gọi là vô ngộ đâu, vì theo lẽ tự nhiên, người nào tánh nấy, chắc không bao giờ có thể làm nguồn về quyền tuyệt đối trong tôn giáo được; trái lại chỉ sẽ gây nên phe nầy đảng kia lộn xộn đó thôi. Cần phải có một quyền bính khác chắc chắn không hề thay đổi, để dạy bảo ta về lẽ đạo phải tín ngưỡng, về đường lối phải noi theo. Còn quyền bính tuyệt đối ấy chính là Kinh Thánh đó vậy.III. KINH THÁNH CẦM QUYỀN TUYỆT ÐỐI TRONG TÔN GIÁOGiáo hội Cải chánh công nhận rằng chỉ có một nơi cầm quyền tuyệt đối trong đạo giáo, ấy là Kinh Thánh. Bộ sách ấy dạy một cách có thần quyền và về lẽ đạo Giáo hội phải tín ngưỡng, bày ra mô phạm và tiêu chuẩn cá nhơn tín đồ phải tuân phục. Nếu trong Giáo hội có sự tranh biện về vô luận là vấn đề gì can thiệp đến đạo giáo, tín ngưỡng, hành vi, thì chỉ phải dùng lời Kinh Thánh để thí nghiệm và giải quyết vấn đề ấy mới hợp nghi. Hễ xét thấy sự dạy dỗ của Kinh Thánh phán đoán thế nào, thì tín đồ phải công nhận làm theo thể ấy. Vì Kinh Thánh có thần quyền để giải quyết và đoán định mọi sự thuộc về đạo giáo, tín ngưỡng và hành vi vậy. (Về sự dùng lý tánh đúng trong đạo giáo, hãy xem Quyển I, luận về những nguồn lầm lạc của thần đạo.)

QUYỂN III - LUẬN VỀ ĐỨC CHÚA TRỜI

Vào thời cận đại của lịch sử thế giới nầy, văn hóa càng thạnh, học thức càng tới, tài trí càng cao, lý luận càng mới, sự nghiên cứu khoa học càng rộng rãi, sự phẩm bình của các nhà tư tưởng càng trổi hơn. Những bậc danh sĩ của các nước khắp địa cầu ai ai cũng muốn đem học lực lý tưởng mình mà giải quyết các vấn đề lớn lao khó hiểu trong vũ trụ nầy. Nhưng than ôi! Học thuyết lẫn lộn, sự lý hổn hào, đến đỗi càng cứu ra càng đui mù, càng diễn tới lại càng sai lạc!Trải xưa nay đã có vô số nhà học thức thử giãi bày vấn đề lớn hơn hết, là Đức Chúa Trời có thực hữu không? Vô thần đảng và duy vật phái đều hiệp xướng rằng Đức Chúa Trời chẳng thực hữu đâu. Họ đồng thinh rộ lên rằng, những hình hình sắc sắc trong vũ trụ đều tự nhiên mà có. Sự tín ngưỡng về Đấng Chủ tể trời đất, họ cho là dị đoan hư ảo, không xứng hiệp với lý tánh mở mang của người đời văn minh nầy. Còn hoài nghi đảng đối với vấn đề nầy lại đáp rằng: “Chúng ta không biết, cũng chẳng có thể biết được hoặc có Đức Chúa Trời hay không.”Nghe qua câu kết luận của mấy nhà đó, lòng ta chẳng thỏa mãn chút nào, chỉ mong sao cho biết chắc hoặc Đức Chúa Trời thực hữu hay là không? Bản tánh của Ngài là thể nào? Công vụ Ngài là làm sao? Ngài có tương quan gì với loài người không? Biết được những vấn đề ấy mới an tâm. Quả thật, ấy là các vấn đề quan hệ nhứt của mọi người. Hễ giải đáp được các vấn đề ấy cho đúng đắn, thì mới có hy vọng được cứu rỗi trong đời nầy và đời sau nữa. Bằng chẳng giãi bày được, tất phải cứ ở trong sự tối tăm mù mịt cho đến vô cùng vô tận vậy. Thế thì, chúng ta há có thể biết được Đức Chúa Trời thực hữu hay không chăng? Có thể hiểu rõ bản tành Ngài, công việc Ngài, thái độ Ngài đối với ta là thế nào không? Trong các bài sau đây xin giải đáp những vấn đề ấy, mong nhờ đó ta sẽ được thỏa nỗi ước vọng.Quyển nầy luận về vị cách và công vụ của Đức Chúa Trời, được chia ra làm 8 chương, tức là 1) Luận về sự nhận biết Đức Chúa Trời do nguyên tri; 2) Luận về sự nhận biết về Đức Chúa Trời thực hữu; 3) Luận về Đức Chúa Trời độc nhứt vô nhị; 4) Luận về Đức Chúa Trời thành vị; 5) Luận về các thuộc tánh của Đức Chúa Trời; 6) Luận về các đức của Đức Chúa Trời; 7) Luận về Ba Ngôi hiệp một Đức Chúa Trời; 8) Luận về công tác của Đức Chúa Trời.Vào thời cận đại của lịch sử thế giới nầy,văn hóa càng thạnh, học thức càng tới, tài trí càng cao, lý luận càng mới, sự nghiên cứu khoa học càng rộng rãi, sự phẩm bình của các nhà tư tưởng càng trổi hơn. Những bậc danh sĩ của các nước khắp địa cầu ai ai cũng muốn đem học lực lý tưởng mình mà giải quyết các vấn đề lớn lao khó hiểu trong vũ trụ nầy. Nhưng than ôi! Học thuyết lẫn lộn, sự lý hổn hào, đến đỗi càng cứu ra càng đui mù,càng diễn tới lại càng sai lạc!Trải xưa nay đã có vô số nhà học thức thử giãi bày vấn đề lớn hơn hết, là Đức Chúa Trời có thực hữu không? Vô thần đảng và duy vật phái đều hiệp xướng rằng Đức Chúa Trời chẳng thực hữu đâu. Họ đồng thinh rộ lên rằng, những hình hình sắc sắc trong vũ trụ đều tự nhiên mà có. Sự tín ngưỡng về Đấng Chủ tể trời đất, họ cho là dị đoan hư ảo, không xứng hiệp với lý tánh mở mang của người đời văn minh nầy. Còn hoài nghi đảng đối với vấn đề nầy lại đáp rằng: “Chúng ta không biết, cũng chẳng có thể biết được hoặc có Đức Chúa Trời hay không.”Nghe qua câu kết luận của mấy nhà đó,lòng ta chẳng thỏa mãn chút nào, chỉ mong sao cho biết chắc hoặc Đức Chúa Trời thực hữu hay là không? Bản tánh của Ngài là thể nào? Công vụ Ngài là làm sao?Ngài có tương quan gì với loài người không? Biết được những vấn đề ấy mới an tâm. Quả thật, ấy là các vấn đề quan hệ nhứt của mọi người. Hễ giải đáp được các vấn đề ấy cho đúng đắn, thì mới có hy vọng được cứu rỗi trong đời nầy và đời sau nữa. Bằng chẳng giãi bày được, tất phải cứ ở trong sự tối tăm mù mịt cho đến vô cùng vô tận vậy. Thế thì, chúng ta há có thể biết được Đức Chúa Trời thực hữu hay không chăng? Có thể hiểu rõ bản tành Ngài, công việc Ngài, thái độ Ngài đối với ta là thế nào không? Trong các bài sau đây xin giải đáp những vấn đề ấy,mong nhờ đó ta sẽ được thỏa nỗi ước vọng.Quyển nầy luận về vị cách và công vụ của Đức Chúa Trời, được chia ra làm 8 chương, tức là 1) Luận về sự nhận biết Đức Chúa Trời do nguyên tri; 2) Luận về bằng chứng về Đức Chúa Trời thực hữu; 3) Luận về Đức Chúa Trời độc nhứt vô nhị; 4) Luận về Đức Chúa Trời thành vị; 5) Luận về các thuộc tánh của Đức Chúa Trời; 6) Luận về các đức của Đức Chúa Trời; 7) Luận về Ba Ngôi hiệp một Đức Chúa Trời; 8) Luận về công tác của Đức Chúa Trời. Chương 1: LUẬN VỀ SỰ NHẬN BIẾT ĐỨC CHÚA TRỜI DO NGUYÊN TRIĐức Chúa Trời vốn một Đấng thuộc linh tự hữu hằng hữu, vô thỉ vô chung, toàn tri toàn năng, toàn thiện, toàn nghĩa. Đạo Ngài là thần kỳ mạc trắc, huyền diệu vô song, nên chẳng lạ gì mà sự khôn ngoan hữu hạn của người trần tục không những không biết nổi sự mầu nhiệm ấy được, mà lại cũng không biết được đến Đức Chúa Trời nữa. Các đạo thế gian suy tưởng về Đức Chúa Trời nhiều cách kỳ cục lạ thường, đến nỗi sai lạc rất xa. Ví bằng chẳng có sự khải thị của Đức Chúa Trời ở trong Kinh Thánh để làm bằng cớ mà nghiên cứu đến nguồn ngọn của thần đạo, thì ắt ta cũng không có thể nào hiểu biết được yếu chỉ của đạo ấy cho minh bạch trọn vẹn, hầu mong khỏi lầm đường lạc lối vậy.Tuy thế, Đức Chúa Trời cũng đã khải thị Ngài ra như ẩn như hiện trong cõi thiên nhiên nầy rồi. Như xưa Vua Đa-vít chứng trong Thi 19:1-3. Ai suy gẫm đến thì đều có thể biết được về Đức Chúa Trời, vì Phao-lô dạy trong Ro 1:19-20.I. NGUỒN GỐC LÒNG KÍNH THỜ ĐỨC CHÚA TRỜIMuôn vật trong cõi thiên nhiên vẫn có đủ bằng cớ chứng thực cho sự thực hữu của Đức Chúa Trời. Các bằng chứng ấy thần đạo gọi là thiên nhiên thần học. Trước khi kê cứu qua những bằng chứng ấy, rất cần yếu cho ta phải tìm kiếm ra cái gốc rễ của lòng kính thờ Đức Chúa Trời.1. CÁC LÝ THUYẾT TỰ THỊ NHI PHIKê cứu qua lịch sử nhân loại, ta thấy mọi dân tộc trên địa cầu, ai nấy đều có lòng kính vì một Đấng Cao cả, mà chúng ta gọi là Đức Chúa Trời. Tuy họ thờ có khác nhau, tín nhận có nhiều thần hay là chỉ có một Chúa, hữu hình hay vô hình, thì tựu trung hết thảy đều có một tấm lòng hay kính thờ một Đấng Cao cả đó vậy. Thế thì, xin hỏi, tấm lòng ấy đến từ đâu? Trước hết xin kể lại các lý thuyết tự thị nhi phi về vấn đề nầy, rồi sau sẽ chỉ dẫn ra cái thuyết chánh đáng.a) Tổ tiên di truyền.— Có nhà luận rằng nguồn gốc của sự kính thờ Đức Chúa Trời là do tổ tiên lưu truyền.Họ dạy rằng nhằm đời thượng cổ Đức Chúa Trời có lẽ bày tỏ ra cho tổ tiên ta rằng chính Ngài đã phú tấm lòng kính thờ Đức Chúa Trời cho loài người, rồi từ đó về sau họ lưu truyền cái quan niệm về sự thờ lạy Đức Chúa Trời cho hậu tự, đến đỗi ai ai cũng biết rằng ở trong trời đất nầy có một Đấng Cao cả đáng kính đáng thờ vậy. Kịp lâu đời về sau loài người lần lần mất cái tôn chỉ kính thờ Đức Chúa Trời,bởi vì kẻ nói đi người truyền lại, chi cho khỏi tam sao thất bổn; thành thử cái quan niệm về sự kính thờ Đức Chúa Trời lần lần sai lạc tràn khắp mọi người nhiều nơi, đến đỗi như hiện có ngày nay vậy.Lý thuyết nầy chẳng có giá trị bao nhiêu, bởi vì cổ truyện trong các dân các nước về nguồn gốc của lòng kính thờ Đức Chúa Trời và muôn vật là khác hẳn với ý kiến đó. Giả như cổ truyện của nước Tàu cho cội rễ muôn vật là bởi huyết, thịt, da và xương của ông Bàn-cổ biến hóa ra, bà Nữ-oa liệng đá năm sắc lên để vá trời xanh, chặt chơn con ngao để dựng bốn trụ cho trái đất vững vàng. Cổ truyện nầy với nhiều cổ truyện khác giống như nó, đều tỏ ra tổ tiên chẳng lưu truyền lòng kính thờ kia lại cho hậu tự đâu, trái lại có thể nói rằng đã khiến cho họ quên mất lòng ấy đi, chỉ truyền lại sự mê tín dị đoan thì có.b) Bởi sự cảm tưởng.—Loài người ở trong vũ trụ nầy thật lấy làm nhỏ mọn, thường xem thấy trời cao lồng lộng, đất rộng thinh thinh, muôn vật hóa sanh đầy dẫy vũ trụ minh mông bát ngát nầy, bất giác phải hỏi rằng: “Vạn vật ấy từ đâu mà ra?” Kẻ khác thấy đôi vầng nhựt nguyệt vận hành, muôn vàn tinh tú lấp lánh, ầm ầm sóng biển, cuồn cuộn dòng sông, trăng khuyết lại tròn, nước ròng rồi lớn, núi phun lửa, đất nhả dâu,mưa trôi đá, bão trốc cây, thì tự hỏi: “Ai làm sự đó?” Cũng có khi thấy tai họa thình lình vụt đến, hạn hán quanh năm, hết ôn dịch lại cơ hàn, lại hỏi: “Các điều ấy há tự nhiên mà có sao?” Kẻ khác lại thấy người đời đau ốm chết mất, họa phước vô thường, thì nghĩ rằng: “Nếu không có một Đấng quyền phép lớn hơn loài người,cầm quyền tử sanh, họa phước, thì thể nào cho phải?” Thêm nữa có vô số vấn đề khác khó giải quyết cho rành mạch được. Hết thảy những điều đó có thể cảm động người ta suy tưởng về Đức Chúa Trời, sanh ra lòng kính thờ Ngài vậy.Ta xin quả quyết rằng cái cảm tưởng ấy chẳng phải là cội rễ của lòng kính thờ Đức Chúa Trời đâu; bởi cái lòng kính thờ ấy đã sẵn có rồi, nên khi gặp các cảnh trạng như mới vẽ ở trên, thì tự nhiên bắt phải suy tưởng đến căn nguyên việc đó, chớ không do đó mà mới có cái đặc tài cảm tưởng về Đức Chúa Trời đâu.c) Do sự từng trải.— Ý kiến nầy nói rằng từ xưa đến nay thường có thần trí, thần lực, thần quyền, thần năng rất là trổi hơn quyền phép khôn ngoan của loài người, khiến cho họ phải công nhận có một Đấng thiên địa Chơn chủ. Hoặc kẻ khác nói rằng: “Mọi sự vật đều có sự sắp đặt khéo léo, dường như sự vật nào có thần nấy cai trị, tỷ như thái dương thần, thái âm thần, hỏa thần, thổ thần, v…v…” Ý kiến nầy rất sai lầm vì hai cớ kể sau đây:(1) Loài người không phải mãi về sau mới biết kính thờ Đức Chúa Trời, bèn là đã biết từ đời thượng cổ. Còn sự biết ấy chắc không do sự từng trải mà ra đâu, bèn vốn sẵn có trong bản tánh rồi. Loài người có ba đặc tánh khác với cầm thú, ấy là lý tánh, tài phân biệt phải quấy, và lòng kính thờ Đức Chúa Trời. Bất luận người dã man hay văn minh đều có ba đặc tánh ấy cả. Ví bằng do sự từng trải mà cấu tạo, mở mang ba đặc tánh ấy, thì làm sao các cầm thú không được ba tánh ấy nữa? Trái lại, ta thấy dầu có tập rèn dạy dỗ loài cầm thú đến đâu đi nữa, thì nó cũng chẳng có thể nào sanh ra lý tánh,tài phân biệt phải quấy hay là lòng kính thờ Đức Chúa Trời được đâu bao giờ.(2) Lịch sử tôn giáo chứng thực rằng loài người không tấn hóa trong sự thờ lạy Đức Chúa Trời đâu, bèn là thoái hóa thì có. Các nước thế gian, bất luận dã man hay văn minh đều có lời cổ truyền chứng rằng ở đời thái cổ họ đều tin kính một Đấng Chủ tể. Kỳ thực, cái tư tưởng tôn giáo càng xưa bao nhiêu lại thấy càng thuần bấy nhiêu. Trong lúc thái sơ người ta chưa mất sự thờ phượng Đức Chúa Trời thuần nhứt, nhưng vì cớ tội lỗi xen vào làm tối tăm tư tưởng của họ, và nhơn vì đó mà sự truyền đi nói lại không thể tránh được cái họa tam sao thất bổn, nên khiến cho họ dần dần bỏ sự kính thờ độc thần mà sùng bái đa thần. Nhờ thực sự ấy ta biết rằng lòng kính thờ Đức Chúa Trời đã sẵn có từ ban đầu, chớ không bởi sự từng trải mở mang theo luật tiệm tấn mà ra đâu.d) Do lý luận. — Có kẻ khác gọi lòng kính thờ Đức Chúa Trời là do lý luận mà ra. Bởi vì nếu lấy tài suy luận của mình mà thí nghiệm trong tinh thần, xem xét ngoài sự vật, thì phải nhìn nhận rằng quả có một Đấng Chủ tể độc nhứt đặng cho mình thờ phượng.Ta đáp rằng: chúng ta thật có nhờ lý luận mà làm chứng cho sự thực hữu của Đức Chúa Trời; nhưng lý luận hẳn chẳng phải là cái nguồn gốc của lòng kính thờ Đức Chúa Trời đâu, bởi vì:(1) Lòng kính thờ Đức Chúa Trời là xuất ư ngẫu nhiên. Theo thói quen của người ta, hễ cùng cực thì kêu Trời. Tư tưởng ấy thình lình phát ra khi gặp cảnh cùng cực kia, chính cảnh ấy khiến cho họ nẩy sanh ý cần phải kính thờ Ngài. Kỳ thực, sự kêu Trời cứu đó chẳng phải là do lý luận mà ra đâu.(2) Sự tin cậy của kẻ tầm thường trổi hơn các nhà lý tưởng. Ta thường thấy phần nhiều nhà đại lý luận, đại tư tưởng trong thế gian không tin kính thờ phượng Đức Chúa Trời đâu, bèn là những kẻ tầm thường không thường biết gì về lý luận, lại có lòng tin kính thờ phượng sốt sắng hơn thì có.(3) Lý luận chẳng ăn thua gì cho đời sống của tín đồ Christ. Ta thường thấy nhiều nhà lý luận cao, tư tưởng rộng, nhưng chẳng có kết quả khả quan gì cho đời sống thuộc linh của họ; còn tín đồ Christ thì khác, họ có một quyền năng lạ lùng khiến cho đời thuộc linh họ càng tấn bộ càng thêm. Quyền ấy do sự giao thông với thần linh giới, chớ chẳng bởi lý luận mà ra đâu.(4) Sự hiểu biết đạo thuộc linh vốn bởi linh tánh, chớ không bởi lý luận. Người nào cậy tài lý luận không thể nào hiểu thấu thần đạo bao giờ. Chúng ta biết được bao nhiêu về Đức Chúa Trời quả là nhờ sự khôn ngoan soi sáng của Thánh Linh ở trong linh tánh, chớ không bao giờ đến bởi lý luận hay giỏi của lý tánh đâu (ICo 2:14-15). Nếu có dùng lý luận chăng nữa,cũng chỉ mượn nó để phát minh yếu nghĩa của thần đạo đó thôi, chớ thực nó vốn chẳng phải là nguồn gốc của thần trí đâu.e/ Do sự khải thị. – Cũng có người cho rằng lòng kính thờ Đức Chúa Trời do sự khải thị ở trong Kinh Thánh mà ra. Bởi nếu chẳng có sự khải thị riêng ở ngoài loài người, thì loài người không thể tự nhiên phát sanh tư tưởng tôn giáo được.Lý thuyết nầy cũng sai lầm, bởi vì Kinh Thánh chẳng trực tiếp lợi dụng một bằng cớ nào để chứng thực cho sự thực hữu của Đức Chúa Trời. Trái lại, các trước giả Kinh Thánh đều vịn lấy lòng kính thờ Đức Chúa Trời làm căn cứ của sự khải thị, và làm nền tảng của sự tín nhận lời ấy. Nếu loài người đã không sẵn có lòng kính thờ Đức Chúa Trời là một Đấng có thể ban bố cho mình sự khải thị như Kinh Thánh, thì sự khải thị ấy chẳng có quyền gì đối với mình. Nhưng vì đã sẵn có một lòng như thế, nên Kinh Thánh rất có giá trị để tả vẽ minh bạch đức tánh và đạo lý của Đấng ấy cho loài người, hầu khiến họ có thể thờ phượng Ngài cách phải lẽ vậy.2. LÒNG KÍNH THỜ ĐỨC CHÚA TRỜI DO NGUYÊN TRISự kính thờ Đức Chúa Trời vốn gốc bởi thiên tánh của loài người; vì trong bản tánh họ tự nhiên có trực giác thúc giục họ phải kính phải sợ, phải cậy nơi Đức Chúa Trời. Vì cớ thúc giục nầy ta thường thấy người ta sợ Trời, và trong lúc nguy hiểm thì họ hay van vái rằng: “Trời ôi! Xin cứu tôi với!” Cái tấm lòng kính thờ Đức Chúa Trời như thế vốn thuộc về nguyên tri. Bởi vì nếu thử hỏi kẻ van vái ấy rằng: “Tại sao anh phải kêu trời cứu vớt?”thì chắc họ đáp rằng: “Tôi cũng không biết!” Thiết tưởng tự nhiên lương tâm bảo thế, đều đó xuất ư ngẫu nhiên vậy.a/ Định nghĩa nguyên tri. – Vả, muốn chứng thực cho lòng kính thờ Đức Chúa Trời gốc bởi nguyên tri, ta cần phải định nghĩa danh từ nguyên tri trước đã. Vậy, danh từ ấy có nghĩa gì? Nói cách đại khái, phàm lẽ thật gì tuy không ai dạy mà loài người lại biết được đó gọi là nguyên tri. Tỷ như khái niệm tự giác, không gian, thời gian, vật chất,căn nguyên, hiệu quả, phải quấy, lòng kính thờ một Đấng Cao cả, đều là lẽ thật sẵn có trong nguyên tri cả, chẳng cần ai dạy cho mới biết, vì tự nhiên đã biết rồi. Suy nghĩ về đặc tánh của nguyên tri, xin theo hai phương diện là phản và chánh mà luận cho ra lẽ như sau đây.(1) Phản diện. –Luận về mặt trái của đặc tánh nguyên tri thì nên rõ ba điều nầy: (a) Các lẽ nguyên tri chẳng phải là lẽ thật bởi tay ai ghi tạc vào nguyên tố của tâm linh loài người trước khi họ có sự tự giác, tức trước khi chưa tự biết mình thực hữu,bởi vì tâm linh ấy chẳng phải bằng một thể chất đâu. (b) Cũng không phải một sự hiểu biết mà tâm linh thọ lãnh lúc loài người lọt lòng mẹ; bởi vì không thể nào ai làm chứng rõ ràng được rằng những trẻ con mới đẻ ra đều có sự hiểu biết ấy.(c) Cũng chẳng phải một quan niệm vốn có lúc lọt lòng mẹ, nhưng chưa được phát triển, rồi sau tự khải phát ra ở ngoài sự từng trải suy nghĩ của loài người; vì sự phát triển như thế trái hẳn với mọi công lệ về sự mở mang tiến bộ của tâm trí loài người.(2) Chánh diện. –Vả, luận về mặt phải, thì rõ ràng lẽ thật nguyên tri là một sự hiểu biết vẫn được tỏ ra trong tâm trí người bởi sự từng trải suy nghĩ, nhưng chẳng phải là hiệu quả của sự từng trải suy nghĩ đó đâu. Kỳ thực, các lẽ thật ấy (như lẽ thật về sự tự giác, không gian, thời gian, vật chất, căn nguyên, hiệu quả, phải quấy) vốn chính là nguyên nhơn của mọi sự từng trải suy nghĩ, cũng là cội rễ của mọi sự tri thức ta. Bằng chẳng có các lẽ thật nguyên tri ấy, ắt không thể nào từng trải hoặc suy nghĩ gì ra lẽ cả. Thế mà, thì giờ các lẽ thật ấy tỏ ra trong tâm trí cho rõ hiểu, có mau chậm tùy trình độ và trường hợp của mỗi người. Nhưng hoặc mau hay chậm cũng vẫn có tiềm tàng ở tâm linh, kịp khi gặp cơ hội vận dụng, thì được tỉnh ngộ tức thì, loài người liền bắt đầu suy nghĩ và cử chỉ theo các lẽ thật ấy.Cứ đó mà suy, thì rõ lắm nguyên tri chẳng phải một tri thức ta thọ lãnh từ lúc lọt lòng mẹ, cũng chẳng phải gốc bởi sự từng trải mà ra, bèn là đã sẵn tiềm tàng ở nơi tâm linh từ khi được dựng nên vậy. Tỷ như nói rằng sự từng trải nhận biết không gian là căn nguyên của không gian, thì rất sai lầm. Hoặc quyết rằng cây sanh ở ngoài ruộng kia bởi đất mà ra, cũng rất là sai; vì nó nguyên từ hột giống mà có vậy. Song le hột giống ấy phải cần có chất liệu của đất để nuôi nấng nó, mới có thể nứt mộng, mọc lên thành cây được. Cũng một lẽ ấy, tuy trong tâm linh loài người đã có sẵn hột giống thuộc linh gọi là lẽ thật nguyên tri, thì cũng phải đợi đến cơ hội từng trải suy nghĩ mới tỉnh ngộ tỏ bày ra được. Hoặc lại tỷ dụ như con mắt ta, chúng ta ngó được nên tự biết mình có con mắt. Còn nhờ sự biết ấy ta lại nhận biết rằng phải có con mắt mới có thể thấy được. Cái nguyên tri cũng vậy, sau khi đã từng trải suy nghĩ rồi, mới nhận biết chỉ gốc bởi nguyên tri ấy sẵn có mà mình có thể từng trải suy nghĩ được vậy.b/ Tiêu chuẩn chứng nghiệm nguyên tri. – Có người hỏi rằng: “Tại làm sao biết các lẽ thật gọi là nguyên tri là nguyên tri thật?” Nếu muốn đáp lẽ câu chất vấn ấy, cần phải dùng ba tiêu chuẩn kể sau đây mà chứng nghiệm cho.(1) Nguyên tri là phổ thông. – Mọi người đều có nguyên tri, bất luận họ có nhận biết là nguyên tri hay không,hoặc có thấu hiểu đặc tánh nó thể nào mặc dầu; ấy nhơn ở lời nói, nết làm tình cờ đủ tỏ ra mọi điều tin nhận nguyên tri là nguồn gốc mọi sự tri thức của mình.(2) Nguyên tri cần yếu. – Nguyên tri rất cần yếu cho loài người, nếu không có nó thì tâm trí không thể suy nghĩ gì, lý tánh không sao luận ra lẽ chi được. Tuy có thể từ chối nguyên tri, nhưng tâm trí chẳng có thể làm việc suy luận gì ở ngoài các lẽ thật nguyên tri, đến đỗi buộc phải mượn bằng cớ ở nơi đó mà chứng thực cho mọi sự. Tỷ như nói bề cao, bề ngang, và bề dài của vật gì, cũng phải mượn lý cớ ở nơi lẽ thật nguyên tri về không gian mới quyết định ba bề đó được.(3) Nguyên tri được độc lập và có trước mọi sự biết khác. – Nguyên tri đứng riêng một mình, chẳng phải tự lý do nào mà sanh ra, cũng chẳng lấy lẽ khác mà chứng thực cho; nó vẫn có trước hết mọi lẽ khác, vốn tiềm tàng ở nơi tâm linh của cá nhơn từ lúc mới thành vị vậy.Nói tóm lại, mọi người đều có nguyên tri.Nguyên tri chẳng nương dựa vào nơi nào, chỉ độc lập thôi. Tuy có kẻ chối rằng không có nguyên tri, thì nguyên tri vẫn còn, chẳng vì cớ chối ấy mà bị hại gì đâu. Tỷ như thực chứng luận1 chối luật nhân quả2; quan niệm luận3 chối vật chất;vạn hữu thần giáo4 không nhận vị cách của loài người; quyết định thuyết5 không nhận sự tự do của loài người; còn hư vô đảng6 lại không nhận ta là ta; chúng ta há có thể chịu lấy sự họ không nhận đó mà bỏ những lẽ thật kia sao? Tỷ như có một người nói rằng, trong vũ trụ không có dưỡng khí, mà kỳ thực sở dĩ họ có thể nói đó chỉ là tại vì họ vẫn hít dưỡng khí đó vậy. Hoặc có kẻ khác quyết không nhận rằng hai nhơn hai là bốn, thì chẳng phải tại đó mà lẽ ấy là sai đâu, chỉ chẳng qua vì lý tánh kẻ kia thiếu kém tri thức đó thôi.Chú thích:(1) Positivusne. (2) Loi de la causalité. (3) Idéalisme. (4) Panthéisme. (5) Déterminisme. (6) Parti nihiliste.II. CHỨNG NGHIỆM TẤM LÒNG KÍNH THỜ ĐỨC CHÚA TRỜI LÀ NGUYÊN TRICó kẻ hỏi: “Thế nào chứng nghiệm lòng kính thờ Đức Chúa Trời chắc là nguyên tri?” Đáp: Muốn nghiệm rõ về lòng kính thờ Đức Chúa Trời quả là nguyên tri, thì phải theo ba tiêu chuẩn kể ở trên mà xét nghiệm thì sẽ rõ.1. LÒNG KÍNH THỜ ĐỨC CHÚA TRỜI LÀ PHỔ THÔNGa/ Tâm lý chung.– Lòng kính thờ Đức Chúa Trời là một tâm lý chung của loài người ai ai cũng có.Bởi vì các dân tộc trên địa cầu đại đa số đều thờ lạy một vị thần nào mà họ tôn kính là cao cả, đáng phải tin cậy. Vả, có kẻ hỏi rằng: “Người đời nầy đối với ý niệm Đức Chúa Trời há chẳng phải có nhiều lý thuyết và lắm ý huyền hoặc sao? Vậy,nếu lấy tâm lý sai hoặc ấy mà làm một lý thuyết đúng đắn để chứng thực về Đức Chúa Trời sao đặng?” Đáp: Chúng ta chẳng bao giờ nên căn cứ vào các hình tượng quái gở và ý tưởng vẩn vơ của dân ngoại tỏ ra trong sự tín ngưỡng về Đức Chúa Trời mà lường cái bản năng quan niệm về Đức Chúa Trời, rồi quyết đoán là thật như vậy đâu. Ví dụ như một em bé kia họa hình của cha nó, dầu nó vẽ quạch quạt không giống gì hết, thì cũng chẳng vì cớ ấy mà buộc ta phải đoán định rằng em bé kia vẫn suy tưởng cha nó thật hệt như bức ảnh nó đã vẽ đó đâu.b/ Tâm lý ấy xưa nay vẫn có. – Tấm lòng kính thờ Đức Chúa Trời vốn là tâm lý công cộng của loài người từ muôn đời. Chẳng những là người đời nầy có lòng kính thờ Đức Chúa Trời mà thôi, thực ra từ đời thượng cổ vẫn đã có rồi. Lại nếu tra xét lịch sử của sự thờ phượng trong các nước và các lễ nghi về sự thờ phượng ấy thì thấy càng xưa chừng nào lại càng thuần chừng nấy. Thực sự ấy chứng rằng tấm lòng kính thờ Đức Chúa Trời chẳng phải bởi tổ tiên lưu truyền, bèn là một lẽ thật nguyên tri vốn tiềm tàng trong tâm linh, rồi nhờ sự từng trải suy nghĩ mà phát triển ra vậy.2. LÒNG KÍNH THỜ ĐỨC CHÚA TRỜI CẦN YẾUa/ Nghiệm sự ước ao của tâm linh loài người. – Bất luận dân tộc nào ở trong thế gian nầy, ai cũng công nhận loài người là một loài có linh tánh cao hơn muôn vật. Cũng như trong sách luân lý giáo khoa có câu rằng: “Thiên sanh vạn vật, duy nhơn tối linh”. Kìa xem, người ta sống trên địa cầu nầy, hễ bên trong ngũ quan tứ thể cần dùng điều gì, thì ở bên ngoài cũng được dự bị sẵn các điều ấy cho một cách rất thích hiệp. Ấy thế, sự cần dùng thuộc linh của họ há lại chẳng được dự bị cho sao? Vả sự cần dùng thuộc linh của loài người chúng ta là gì? Há chẳng phải là tâm linh ước ao được giao thông với một Đấng Thần linh cao siêu,không thuộc về thiên nhiên giới, nhưng thuộc về thần linh giới hay sao? Ví bằng loài người không thể giao thông với Đức Chúa Trời được, thì lấy chi làm cho toại nguyện tâm linh kia của ta ư? Kìa, có nhiều người chuyên lo lập ngôn, lập đức chép sách vở đạo giáo, lập đàn xây miếu, dựng am tự, cất giáo đường; họ làm vậy há chẳng vì muốn thờ lạy một Đấng mắt không thấy được, tai không nghe được, tay không rờ được, vốn ở ngoài thân thể và linh hồn của mình, mong được giao thông với Ngài để thỏa lòng ước ao hay sao? Thực sự nầy minh chứng cho tấm lòng kính thờ Đức Chúa Trời quả rất cần yếu vậy.b/ Tánh chất loài người hay tin cậy. – Xem thử tánh chất của mọi người đều hay tin cậy. Hễ con thì cậy cha, trẻ nhỏ thì cậy người lớn, kẻ dưới cậy người trên. Còn mỗi người lớn khôn rồi tự suy nghĩ về hoàn cảnh vĩnh viễn, họa phước vô thường,và các việc lớn lao to tác tỏ ra trong trời đất, bèn cảm xúc rằng cậy sức phù hộ của những người hơn mình trong đời nầy chưa đủ, cần phải có một Đấng từ trên cao hơn hết, trọn khôn ngoan, trọn quyền năng, có thể chăm nom giúp đỡ mình mới được. Mọi người đều biết mình có lương năng thờ lạy tin cậy một Đấng như thế. Bằng vậy, ắt phải có một Đấng thích hiệp với lương năng ấy mới hữu lý.3. LÒNG KÍNH THỜ ĐỨC CHÚA TRỜI VỐN ĐỘC LẬPSự tri thức về Đức Chúa Trời ở trong lòng loài người được gọi bằng sự tri thức thứ nhứt, gốc bởi trực giác mà ra (cũng gọi là trực giác nhận thức), chớ chẳng do sự suy nghiệm mà được. Nên chi cũng gọi là nguyên tri vậy. Nhưng có kẻ hỏi rằng: “Quả như lời ấy, thì đứa trẻ chưa đến lớn khôn cũng đã có sự tri thức ấy rồi, không cần đến sự dạy dỗ, bởi vì theo thuyết nầy, nó tự nhận biết Đức Chúa Trời rõ ràng rồi; thế nhưng ai ai cũng biết con trẻ mới lọt lòng mẹ chẳng biết gì hết, là làm sao? Nếu nói rằng sự tri thức về Đức Chúa Trời gốc bởi trực giác (intuition) mà ra, thì lấy làm khó tin quá”. Ta xin đáp: Sự tri thức thứ nhứt về Đức Chúa Trời gọi là nguyên tri,chẳng phải là biết đến đầu đuôi của Thần đạo đâu; bèn là nói về một cái điểm linh minh, một hột giống thuộc linh vốn ngấm ngầm trong tâm linh loài người, đứng riêng ra, chẳng phải nhờ sự chứng nghiệm suy xét mà được bao giờ. Suy luận về vấn đề nầy ta thấy lấy làm khó mà kiếm được ví dụ gì để minh chứng cho được. Nhưng xin xem qua những điều giải bày sau đây, tưởng cũng có thể rõ được một vài.a/ Nguyên tri về lòng kính thờ Đức Chúa Trời là cội rễ của cả tri thức ta. – Sự học thức, sự khôn ngoan ta, thảy đều nhờ sự thị thính ngôn động của ngũ quan mà được. Song thế nào chúng ta biết được rằng nhờ cậy ngũ quan mà nó không lừa gạt mình? Lúc suy tưởng thì thế nào chắc được mình có thể đoán định phải quấy?Sự tin cậy ấy hẳn là do nơi nguyên tri mà ra vậy. Giả như mình nhờ ngũ quan mà biết có ngoại vật. Nguyên tri ấy mình tin mà không ngờ. Nhờ ngũ quan mà biết nó không gạt mình, đó vốn là cái nền tảng của các sự tri thức ta, cũng là căn nguyên về sự tin có Đức Chúa Trời. Bởi vì nếu tin chắc ngũ quan không dối gạt mình, thì tại trong tâm linh mình có sự tin chắc rằng Đấng tạo thành ngũ quan là một Đấng biết nghe, biết nói, biết thấy, biết suy tưởng, biết nhận biết phải quấy, mới tạo thành các cơ quan diệu kỳ ấy. Còn về sự tin nhận ấy vốn do nguyên tri mà ra, nên lòng không ngờ mà cậy ngũ quan không lừa gạt mình. Thế thì,nguyên tri vốn là nền của mọi sự hiểu biết ta, đứng riêng ra, không phải là nhờ sự tri thức khác mà có, bèn vốn là tiềm tàng trong tâm linh của mọi người vậy.b/ Nguyên tri về lòng kính thờ Đức Chúa Trời thích hiệp với những sự lý trong muôn vật.– Khi suy luận về những sự lý trong muôn vật, thì trước phải luận về lẽ đương nhiên, sau mới nghiệm đến lẽ tất nhiên. Tỷ như, có kẻ thấy trái cam rớt xuống đất thì liền biết rằng có hấp lực, cai trị muôn vật. Sự thấy trái cam rớt xuống đất gọi là lẽ đương nhiên. Nhờ cái hiện tượng đó mới suy xét rằng phải có hấp lực cai trị muôn vật; còn sự ấy gọi là lẽ tất nhiên. Nhưng tại sao cái lý suy luận trong loài người lại tương ứng tương hiệp với sự lý ở trong muôn vật như thế?Há chẳng phải vì có một tay Thợ lớn của tạo hóa đã nhứt định sự lý trong muôn vật phải thích hiệp với nguyên lý trong tâm linh loài người đó sao? Hoặc luận về cội rễ của muôn vật cũng vậy, ta thấy muôn vật thực tại, tự nhiên phải hỏi rằng:“Muôn vật từ đâu mà có?” Tại cớ sao hỏi vậy? Há chẳng phải vì lẽ suy luận trong tâm trí mình dạy rằng hễ có công hiệu tất nhiên phải có căn nguyên đó sao? Còn cách suy lý ấy rất tương hiệp với sự lý trong muôn vật; vì chúng ta chưa biết điều gì không có căn nguyên.TỔNG LUẬNNhờ lý luận ở trên, ta thấy loài người có lòng kính thờ Đức Chúa Trời gốc bởi nguyên tri mà ra. Lại loài người quả nhiên theo tấm lòng ấy mà tôn sùng một Đấng Cao cả nào đó, đặng cho mình phải thờ lạy. Vả, xem xét trong vòng loài người, thì rất dễ thấy cái nguyên tri nầy đã ra mờ tối, bị nhiều chỗ sai lầm, khiến cho người ta không còn biết thờ lạy Đức Chúa Trời cách xứng đáng được nữa. Ấy tại vì tội lỗi xen lẫn vào, khiến lòng kính thờ ấy càng ngày càng sai lạc, điểm linh mình vốn có đã bị vật dục che đậy,làm cho cả thế gian bị đắm chìm trong cảnh hắc ám thuộc linh. Dầu đời nào cũng có các bậc thánh hiền xuất hiện, song họ thảy đều chắp miệng than dài rằng: “Đạo Trời mầu nhiệm, rất là khó hiểu!” Ấy vậy, nếu không có Đức Chúa Trời khải thị đạo Ngài cho loài người, thì người đời biết đâu mà theo mà thờ.Chương 2: LUẬN VỀ CÁC BẰNG CỚ CHỨNG VỀ ĐỨC CHÚA TRỜI THỰC HỮUTrong Kinh Thánh chẳng có bằng cớ gì theo lối lý luận mà chứng thực cho sự thực hữu của Đức Chúa Trời. Các trước giả Kinh Thánh đều tự nhiên nhận rằng sự thực hữu của Đức Chúa Trời vốn là một tri thức phổ thông, chẳng cần vịn lấy lý nầy cớ nọ đặng giải quyết một sự mà mọi người tự nhiên đã nhận biết rồi. Môi-se khai đề Sáng-thế Ký bằng câu: “Ban đầu Đức Chúa Trời dựng nên trời đất.” Ông chẳng hề bày tỏ một lý cớ nào để khiến cho độc giả phải tin nhận là có Đức Chúa Trời đâu; bèn ám chỉ rằng độc giả đã biết thực sự ấy rồi, nên chẳng cần phải chứng thực đến nữa. Phao-lô cố quyết rằng sự nhận biết Đức Chúa Trời vốn một tri thức phổ thông. Ông rằng: xem Ro 1:19,20.Cái bằng chứng về lẽ thật quan hệ nhứt nầy thì Đức Chúa Trời đã để vào tâm linh của mọi người, “cho nên họ không thể chữa mình được”.Tuy sự tri thức về sự thực hữu của Đức Chúa Trời vốn là một lẽ thật nguyên tri, thì cũng có thể dùng lý luận do sự lý muôn vật và tư tưởng của loài người mà giải quyết và chứng thực cho. Những chứng cớ ấy gọi là: (1) Căn nguyên vạn vật làm chứng, (2) Luân thứ vạn vật làm chứng,(3) Linh tánh đạo đức của loài người làm chứng, (4) Quan niệm loài người làm chứng,(5) Vị cách của Christ làm chứng.Nếu vin lấy chỉ một trong năm chứng cớ nầy, thì có lẽ không đủ để minh chứng đích xác về sự thực hữu Đức Chúa Trời.Nhưng cả năm chứng cớ ấy hiệp thành một xác chứng không ai đánh đổ được để giải quyết cho lẽ thật nguyên tri về sự thực hữu Đức Chúa Trời vốn tiềm tàng ở nơi tâm linh loài người vậy.I. CĂN NGUYÊN VẠN VẬT LÀM CHỨNG1. PHÁT HUY LÝ CỚPhàm sự đều hữu thỉ, vô luận là vật chất hay biến động nào, phải có căn nguyên mới thực hữu được. Thử xem vũ trụ nầy thì biết nó vốn bằng những vật hữu thỉ. Trong thời kỳ thái sơ có một hồi đặc biệt mà vũ trụ bắt đầu thực hữu. Còn sự thực hữu của nó do một căn nguyên ít nữa là bình đẳng với nó; bởi vì theo lý tánh loài người hay luận đoán, thì căn nguyên chẳng hề kém hơn công hiệu, buộc phải bằng hoặc trổi hơn mới hợp lý. Vả, nghiệm xét vũ trụ nầy thì thấy thật cao xa, lớn rộng, chưa có ai dò xét cho thấu đáo nguồn ngọn mọi vật bao giờ. Nên lý tánh loài người bèn đoán định rằng cái Căn nguyên của nó hẳn là lớn lắm, rất xứng hiệp với hiệu quả nầy vậy.2. KHUYẾT ĐIỂM CỦA LÝ CHỨNG NẦYTuy nhiên, lý chứng nầy vẫn còn nhiều khuyết điểm, chỉ có thể giải quyết đến được hai lẽ thật mà thôi, tức là: vũ trụ có Căn nguyên, và Căn nguyên ấy rất lớn. Ngoài hai lẽ ấy, lý chứng nầy chẳng giải luận điều gì thêm được. Lý chứng nầy chưa cho ta biết: (a) hoặc Căn nguyên của vũ trụ bằng vật chất hay là thuộc linh; (b) hoặc Căn nguyên nầy ở ngoài vũ trụ hay là thuộc trong vũ trụ; (c) hoặc Căn nguyên muôn vật tự nhiên mà có hay là phải nhờ một Căn nguyên khác mà sanh ra; (d) hoặc Căn nguyên nầy hữu hạn lượng hay là vô hạn lượng; (e) hoặc có ngộ tánh hay không ngộ tánh; (f) hoặc vũ trụ nầy được dựng nên chỉ bởi một hay là nhiều căn nguyên. Sáu điều trên đây, lý chứng nầy không thể đem đủ bằng cớ để giải minh cho ta rõ được.3. LÝ THUYẾT PHẢN ĐỐI BẰNG CHỨNG CĂN NGUYÊN VẠN VẬTa/ TẤN HÓA THUYẾT(1) Phát huy tấn hóa thuyết.– Vào kim thời có nhiều nhà khoa học chủ trương rằng vũ trụ chẳng có căn nguyên, bèn là nhờ thiên diễn tấn hóa mà lần lần có. Họ dạy rằng muôn vật đều do một tế bào đơn sơ từ nơi hư vô nào đó mà tự nhiên tấn hóa, đến đỗi ở ngoài một Đấng chủ tể toàn tri toàn năng thì muôn vật đã đều được sắp đặt, có thứ tự y như ta thấy hiện có bây giờ vậy.(2) Lời bác lại.– Đối với lý thuyết ta đáp rằng: Lý tánh loài người lấy làm khó tin cái thuyết ấy,bởi vì theo nguyên tri thì mọi sự, bất cứ sự gì, buộc phải có căn nguyên mới hữu lý. Kìa, muôn vật bài bố trong vũ trụ đều có hình chất cả. Ai dám gọi những vật đó được sanh ra bởi một lẽ hư vô, không ai biết là gì, chẳng ai rõ là đâu? Quả không thể tin được. Đến đỗi phàm vật mỗi ngày thường dùng, dầu vật rất hèn mọn,cũng chưa hề tự nhiên mà có bao giờ, thảy đều có người tạo ra cả. Mà nếu gọi vũ trụ cao xa rộng lớn nầy “xuất ư tự nhiên”, không có tay Đấng Tạo Hóa vận hành làm nên, thực lấy làm vô lý lắm. Vả, nhà khoa học thường xét rằng trong muôn vật có chừng 92 thứ nguyên chất. Các nguyên chất ấy nhờ các luật của trọng lượng, hấp lực, và ái lực mà hóa nên những chất gọi là muôn vật. Xin hỏi: Hơn 90 nguyên chất ấy há tự định là nguyên chất sao? Hoặc là nó tự bàn tính sắp đặt với nhau, đến đỗi cùng nhau tự chỉ định đây là tương quan, kia là loại biệt hay sao?Tỷ như tiếng Pháp có 26 chữ cái. Lấy 26 chữ ấy mà sắp đặt theo giống tiếng ấy, thì thành ra chừng 30 vạn tiếng nói. Có ai dám gọi 26 chữ cái ấy có thể tự sắp đặt để thành 30 vạn tiếng nói chăng? Quả không ai dám bảo thế bao giờ. Mà nếu không ai dám nói như vậy về 26 chữ cái đó,tại sao lại cả gan dám quyết rằng hơn 90 nguyên chất kia tự phối hiệp, tự tiến hóa thành vạn vật trùng trùng điệp điệp hằng hà sa số đó sao?Vả, cái vấn đề mà tấn hóa luận lấy làm khó giải quyết hơn hết, là vấn đề về cội rễ của sự sống. Xưa nay các nhà bác học chưa ai dám đoán định sự sống đã vào thế gian khi nào và bởi cách nào. Nghiên cứu sanh lý học thì thấy khoa học ấy gọi sự sống gốc bởi giống nguyên tân (protaplasme).Cái giống ấy đã có trước khi chưa có cơ thể: rồi sau khi có cơ thể thì nó mới sanh hóa được. Nhưng ta xin hỏi: Cái cơ thể của nguyên tân từ đâu mà có? Vả lại, nếu nhà sanh lý học đem nguyên tân ấy lọc ra, thì thấy nó bằng thán lưu và dưỡng khí; rồi nếu chiếu đoán theo phép hóa học đem các nguyên chất ấy mà phối hiệp lại thì thể nào? Có sự sống không?Chẳng có chút nào. Vậy thì phải xét thể nào? Xét rằng nguyên tân chẳng phải là chính sự sống bèn ở trong nó có tiềm tàng nguyên sanh đó thôi. Cũng chẳng có người phàm nào tự nhiên biết cội rễ sự sống ở đâu, bởi vì nguyên sanh chẳng sanh ra bởi vật chất. Bằng chẳng có Đấng Chủ tể thuộc linh làm nguồn gốc nguyên sanh, thì loài người chẳng có thể tìm ra cái hột giống của sự sống được.b/ VẠN VẬT TUẦN HOÀN VÔ THỈ THUYẾTCũng có nhà triết học chủ trương rằng vũ trụ vô thỉ, muôn vật chỉ là một cuộc tuần hoàn mà thôi. Tin như lời ấy, thì trước không có quá khứ, sau không có tương lai, không có đời xưa nay, không có vật cũ vật mới, hết thảy muôn vật dều là “châu nhi phục thỉ”, giáp một vòng, rồi lại cứ bắt vần vòng khác đến vô cùng. Theo thuyết ấy thì chính mình ta đây cũng là một vòng tròn xoay vần theo lẽ đó. Họ nói cội rễ của loài người bởi một động vật nhỏ hơn hết mà lần biến hóa ra đến bực thành nhơn như hiện có bây giờ. Bằng thực vậy, thì loài người chúng ta đáng buồn đáng tủi là dường nào! Vì sau mấy ức triệu năm nữa thì thân thể nầy khi giáp vòng rồi, lại phải từ gốc động vật nhỏ xíu kia mà biến hóa một lần nữa giống như từ loài sâu bò, cá lội, ếch nhảy, rồi lần tới địa vị thỏ chạy, chim bay vậy. Cái thuyết nầy quả phản đối cùng nguyên tri của cả người đời. Vì bản năng ấy trong mọi người đều chứng quyết rằng vạn vật mà mắt thấy buộc phải có gốc rễ mới hiệp lý cho. Còn vật gì có căn nguyên tự nhiên phải là vật hữu thỉ vậy. Kinh Thánh cũng chứng thực cho lẽ thật nầy mà rằng,- xem He 11:3.II. LUÂN THỨ VẠN VẬT LÀM CHỨNG1. PHÁT HUY LÝ CHỨNGThường tra xét trời đất muôn vật, thì thấy sự sắp đặt có luân thứ trọn vẹn, vật nầy vật nọ đều tương hiệp nhau một cách diệu kỳ. Như mặt trời mặt trăng, các ngôi sao vận hành trên không gian; bốn mùa luân chuyển, tám tiết hiệp nghi, thích tình của sanh vật, định lệ của nguyên chất, cả thảy đều có diệu dụng, có thứ tự, không hỗn hiệp, không phản đối bao giờ. Ví bằng gọi muôn vật tự nhiên mà có, không có Đấng Chủ tể nào dựng nên, sắp đặt và bảo tồn cả, thì ấy chẳng qua là lời tự khinh lý tánh mình và khinh cả lý tánh của mọi người khác nữa. Vì lý tánh không thể nào suy nghĩ được rằng có công hiệu nào ở ngoài cái căn nguyên vậy.2. THỰC SỰ BIỂU MINH BẰNG CỚ NẦYTrong muôn vật có rất nhiều điều biểu minh bằng chứng nầy.a/ Sự diệu kỳ của muôn vật.– Nghiên cứu muôn vật thấy vật nào cũng có phương diện rất là diệu kỳ, bắt buộc ta phải tin nhận rằng quả do một Đấng toàn năng toàn tri mà có. Kìa, một cái đồng hồ, dầu có nhiều máy móc, song được sắp đặt có thứ tự chạy đúng giờ. Thấy nó, tự nhiên nghĩ rằng chắc có một tay thợ thiện nghệ đã chế tạo ra nó. Nay xem sự diệu kỳ của muôn vật, thật lấy làm khéo léo lạ lùng, khiến cho ta phải kính sợ, tự nhiên đoán rằng chắc có Đấng nào rất khôn ngoan mới tạo thành như vậy được.Nói về máy móc trong thân thể loài người thì nó cực kỳ tinh xảo lạ dường. Coi như hình thức của con mắt, nó có thể nhìn xa ngó gần, luân ra hay luân vào, liếc qua liếc lại, tùy ý của người. Mí mắt cũng hay mở nhắm vừa chừng với sự sáng đậm hay là lợt. Còn theo lời nhà giải phẫu,thì cái áo ngoài tròng của con ngươi có mười lớp để làm cho ánh vật nên hình.Trong lớp thứ chín có ba ngàn vạn chỉ dọc, bảy trăm vạn chỉ ngang đan như mặt lưới, đặng chiếu những vật bề ngoài. Sự cấu tạo diệu kỳ của con mắt đó đủ khiến cho ta biết rằng buộc phải có một Đấng Tạo hóa khôn ngoan vô cùng mới có con mắt như thế được. Lại thử xem qua muôn vật muôn sự thì cũng dễ thấy đều được nên rất diệu kỳ, vẫn tương đương thích hiệp cả thảy. Như loài nầy thì có lông có cánh để bay, loài kia có vảy có vi để lội, còn vật nọ lại có chơn có móng để đi chạy.Các sự ấy há phải là tự nhiên mà có sao? Chắc là không! Bằng chẳng tự nhiên thì thể nào? Buộc cho chúng ta phải công nhận có tay của Đấng Tạo hóa quyền năng rất lớn, khôn ngoan rất mực để tạo thành các sự vật như thế mới hiệp lý vậy.b/ Sự tương ứng của muôn vật.– Chúng ta thử xem những hiện trạng muôn vật chung quanh mình, thì thấy chẳng có một vật nào mà không có lẽ phối hiệp nhau. Như là lỗ tai với tiếng, con mắt với hình, miệng với vị ngon, lỗ mũi với mùi thơm, cái phổi với không khí, đều được dự bị thích hiệp nhau cả. Nói rộng ra nữa, hai vầng nhựt nguyệt, các vì tinh tú chiếu diệu khắp cõi trời, muôn vật sanh hóa sum sê đầy mặt đất, sự diệu dụng của các loài kim, mộc, thủy, hỏa, thổ, sự lưu thông của các thứ tiếng vang, ánh sáng, không khí, điện khí, đều có những tài lý diệu kỳ, tương phối tương sanh với nhau. Các nhà triết học, khoa học, dầu dùng đến hết hơi đớ lưỡi,bút cùn mực cạn cũng không sao giải tỏ hết được. Hễ ai thử giải quyết căn do và nguyên lý của các sự tương ứng lạ lùng ấy, đều phải đồng thinh chứng rằng trong vũ trụ nầy có một Đấng Tạo hóa khôn ngoan, quyền năng vô cùng, tạo thành và sắp đặt các sự ấy, mới hữu lý vậy.c/ Cái cơ thể trong vụ trụ.– Toàn bộ thiên nhiên giới được cai trị bởi một quy luật nhứt định không thể đổi thay, chẳng lúc nào sai chạy. Kỳ thực, nếu vũ trụ nầy không có một qui luật cai trị như thế, quả không còn có thể gọi là vũ trụ nữa, nhưng trái lại muôn vật thảy đều phải ra hư không đó thôi.Nói đến vật lớn lao như các tinh tú ở trên không gian mà người ta phải dùng kính viễn vọng để dòm xem, thì nó vốn thật hằng hà sa số, lại còn gây nên vô số tinh thế giới khác nữa, mà mặc dầu nó cách xa thế giới chúng ta muôn trùng như thế, thì nó cũng phải chiếu theo quy luật nhứt định mà dọc ngang theo quỹ đạo của nó mãi mãi. Lại nếu cứ lấy lý tánh và tưởng tượng mà luận đến vật rất nhỏ như cái nguyên tử (atome), thì dầu nó vốn một chất điểm cực nhỏ, phải dùng đến kính hiển vi mới thấy đi nữa, thì rõ ràng nó cũng có sự tổ hiệp đồng kiểu mẫu thái dương thống hệ (système solaire), có luân thứ, có chuyển vận, và phối hiệp nhau một cách rập ràng.Vả, vật rất nhỏ và vật rất lớn ở trong vũ trụ nầy đều theo lệ định mà phối hiệp với nhau cả. Như là hành tinh đi chung quanh mặt trời, mặt trời lại đi chung quanh trung tinh, cả đều y theo trình độ xa gần, có sức ở giữa khoảng không mà đi chậm hay là mau cũng vừa theo lượng thể lớn hay nhỏ, để luân chuyển luôn, không hề ngừng lại chút nào. Bởi vì nếu hễ ngừng lại dầu chỉ độ giây phút, thì cả vũ trụ nầy phải bị hư nát tức thì. Còn những nguyên tử kia cũng có khoảng cách nhau và vừa theo trình độ mà xây vần với nhau cách lẹ làng.Ấy vậy, ta thấy cả muôn vật ở trong vũ trụ nầy từ chất điểm nhỏ đến tinh cầu lớn, đều có ý nghĩa ăn hiệp với nhau, thuận phục một quy luật chung để cùng xây đi vần lại. Vả, nếu quy luật ấy đã thông hành rồi, nhứt định rồi, thì chắc phải có một Chủ não để sáng tạo quy luật ấy,mới nên được cơ thể của vũ trụ dường ấy. Vì ai dám gọi những vật trong vũ trụ,từ vật thấy được cho đến vật không thấy được đều có thể tự quy định lấy quy luật cho mình nó đâu; muôn vật vô tri giác vô ý thức kia, thể nào tự làm nên công việc khôn ngoan vô cùng, quyền năng tuyệt đối như thế? Quả hẳn vũ trụ cực lớn hoặc vũ trụ cực nhỏ, cả thảy đều buộc phải có một Nguyên nhơn nào đủ lớn đủ khôn ngoan đặng sáng tạo các quy luật của muôn vật ấy mới hữu lý. Còn Nguyên nhơn ấy tức là Đức Chúa Trời, Chủ tể của trời đất muôn vật vậy.3. KHUYẾT ĐIỂM CỦA BẰNG CỚ NẦYLuân thứ vạn vật minh chứng rằng có một Chủ ý đã làm nên vũ trụ hiện tại. Chủ não ấy rất khôn ngoan, có tài năng tối cao để tạo thành những vật nhỏ và lớn, khiến cho có sự tương hiệp với nhau rất khắng khít và rập ràng vậy. Thế mà, bằng chứng nầy cũng chưa toàn vẹn, còn có khuyết điểm, bởi vì không thể nào dạy cho ta biết hoặc Chủ não ấy có vị cách hay không; hoặc đơn số hay đa số; hoặc vô thỉ vô chung hay là hữu thỉ hữu chung; hoặc tự nhiên mà có hay nhờ căn nguyên khác mà sanh ra; hoặc tự chủ hay phải phục quyền bính của đấng nào khác. Nhưng vấn đề ấy lý chứng luân thứ vạn vật không minh giải được.III. LINH TÁNH LOÀI NGƯỜI LÀM CHỨNG1. PHÁT HUY LÝ CHỨNGBằng cớ nầy vin lấy nguyên tố thuộc linh của bản tánh loài người, gọi là linh tánh, gồm lại lòng đạo đức, giác ngộ,cảm tình và ý dục, để xét ra phải có một Đấng Tạo hóa thuộc linh, cò lòng đạo đức,giác ngộ, cảm tình và ý dục, mới tạo ra loài người được. Bằng chứng nầy có năm điều như sau đây:a/ Lòng phân biệt phải trái. – Trong lòng loài người có một chí lý biết phân biệt phải trái. Chí lý ấy không thể nào bởi vật vô tri giác mà ra, bèn phải có một Đấng có lòng đạo đức biết phân biệt phải trái, thưởng thiện phạt ác, mới có thể tạo nên cái chí lý ấy. Sách Nho rằng: “Thiên lý tại nhơn tâm” là đúng lắm;nhưng sở dĩ loài người không nhờ chí lý ấy mà nhận biết Đức Chúa Trời được, là chỉ tại phong hóa suy đồi, đạo đời xiêng vạy, nên tâm linh bị mờ tối, không còn có thể thấy sự khải thị từ tấm lòng phải trái kia mà ra được.b/ Tánh đạo đức.– Loài người chẳng những là có tấm lòng nhận định thị phi, phân biệt thiện ác,mà lại có tánh đạo đức, để ăn ở cho thánh khiết, công nghĩa, hiền lành và yêu thương. Cũng có ý chí và cảm tình để quyết định làm việc nầy, bỏ việc kia. Gọi loài người bởi giống động vật không có tài đạo đức mà lần tấn hóa đến bực thành nhơn, thì thực phi lý lắm. Nếu cứ lấy lý tánh ta mà xét thì dễ thấy hễ loài người đã có tánh đạo đức có đủ lương năng để ở cho thánh khiết, công nghĩa, hiền lành và yêu thương, lại có ý chí và cảm tình để quyết định làm việc nầy, bỏ việc kia, thì tất nhiên phải có Đấng Tạo hóa có tánh đạo đức luôn với các lương năng ấy, mới tạo thành loài người như thế được. Bởi vì theo lý tánh, chúng ta biết rằng công hiệu không khi nào trổi hơn căn nguyên bao giờ.c/ Lương tâm.– Trong loài người lại có một quan năng quý báu khác gọi là lương tâm. Ai ai cũng thường nghe tiếng nó xét đoán, biết rằng nó có quyền sai khiến mình được.So với luật pháp, thấy nó càng có quyền bính hơn, dầu khi chúng ta cượng biện với nó, cũng không thể khuất phục nó được. Có kẻ lấy luận tài của mình tranh biện với lương tâm, nhưng kết cuộc lương tâm cũng thường được phần hơn. Thế thì, dễ biết rằng phải có một Đấng có tài xét đoán và quyền sai khiến loài người, mới có thể dựng nên lương tâm của loài người được. Còn Đấng ấy là Đức Chúa Trời, Chủ tể của trời đất, Chúa của lương tâm ta có quyền xét đoán, cũng có quyền sai khiến ta tùy ý chỉ của Ngài vậy.d/ Sự tự tri tự giác.– Mọi người đều có sự tự tri tự giác, cảm biết mình thực tại. Nhờ lương năng ấy loài người tự nhiên biết rằng có Đấng vũ trụ Chơn tể, vẫn thực tại ngoài thân thể mình, lớn hơn mình, cai trị mọi sự mọi vật, có quyền đòi mình phải đầu phục,kính sợ, thờ lạy Đấng ấy. Kỳ thực, hễ ai chối Đấng ấy, cũng chối luôn sự tự tri tự giác của mình, nghĩa là chối ta là ta vậy. Bởi vì sự tự tri tự giác chứng thực rằng phải có một Đấng Tạo hóa cũng tự tri trư giác như loài người vẫn có, để làm căn nguyên của họ, mới hữu lý.e/ Lòng tin cậy.– Loài người ai ai cũng có thiên tánh kính thờ thần, tin nhận rằng có một Đấng giáng họa phước cho loài người. Xét thử các tôn giáo, nào là bái vật giáo hay là Thần đạo giáo, hết thảy đều bởi lòng tin kính một thần cao cả mà có. Dầu là người ta có tin tưởng nhiều sai lầm về Đấng ấy, thì lòng tin kính ấy vẫn chứng quyết rằng thiên tánh của loài người đều thầm nhận có một Đấng thiên địa Chơn tể vậy.Vả, nếu lấy sự từng trải của loài người làm chứng, thì nhận biết lẽ thật ấy rõ hơn hết. Xét bất luận dân tộc nào, chi phái nào, cũng đều có lời tục ngữ hoặc câu ca dao chứng tỏ chỗ tương quan giữa trời và người, như tục ngữ Việt Nam rằng: “Trời cho ai nấy nên, trời khiến ai nấy mất.” “Ông trời có con mắt.” Lại như: “Thuận thiên giả tồn, nghịch thiên giả vong.” “Ở lởi xởi trời gởi cho, ở bo bo trời lấy lại.” “Ví dầu trời hại mới hư,còn người có hại cũng như phấn dồi.”Có một điều chứng quyết đích xác hơn nữa là sự từng trải của tín đồ Christ. Họ được sự vui vẻ giao thông với Đức Chúa Trời,được ân tứ trong sự cầu nguyện, nhận lãnh hạnh phước, bước tới trên con đường thuộc linh, càng ngày càng được gần gũi với thần linh giới. Họ không những biết rằng chắc có Đức Chúa Trời, mà lại cũng thương yêu Ngài, tin cậy Ngài, giao thông với Ngài cách thân mật nữa. Họ xin Ngài, Ngài cho, họ nhờ Ngài, Ngài giúp; Ngài nuôi linh mạng của họ, mở thần trí của họ, đổi tánh nết của họ, bổ dưỡng lòng đạo đức của họ được tấn bộ càng hơn. Các sự từng trải ấy minh chứng rằng có một linh lực thần quyền vận hành ở trong họ. Còn linh lực ấy là chính quyền năng của Đức Chúa Trời, Chủ tể của trời đất vậy.2. KHUYẾT ĐIỂM CỦA BẰNG CỚ NẦYCái bằng cớ nầy dạy cho ta được biết Đức Chúa Trời rõ hơn bằng cớ trước, bày tỏ một Đấng có vị cách, hay dùng sự công nghĩa mà cai trị, rất đáng cho chúng ta đem lòng yêu mến vâng phục mọi bề.Nhưng mà bằng cớ nầy cũng chưa toàn vẹn, vì không thể bày tỏ cho ta biết hoặc Đấng ấy là Đấng Tạo hóa của cả muôn vật, hay là chỉ dựng nên loài người mà thôi.Cũng không giải quyết được hoặc Ngài vô thỉ vô chung, hoặc duy có sự công nghĩa, hay là cũng có sự thương yêu nữa chăng.IV. QUAN NIỆM CỦA LOÀI NGƯỜI LÀM CHỨNG1. PHÁT HUY NGHĨA LÝ BẰNG CỚBằng cớ thứ nhứt, thứ hai và thứ ba đều do công hiệu mà xét ra căn nguyên; còn bằng cớ nầy do căn nguyên mà xét ra công hiệu. Yếu điểm của bằng cớ nầy như sau đây: Loài người tự nhiên có cái quan niệm về một Đấng vô thỉ vô chung, rất trọn vẹn, làm cội rễ muôn vật, rất đáng cho mình thờ lạy. Vả, cái quan niệm như thế không thể bởi sự gì hữu thỉ hữu chung mà ra, buộc phải do một Đấng vô thỉ vô chung, rất trọn vẹn làm căn nguyên của nó vậy.2. KHUYẾT ĐIỂM CỦA BẰNG CỚ NẦYBằng cớ nầy yếu quá, vì các quan niệm của loài người dầu có can thiệp đến Đấng toàn năng vô cùng, thì cũng chẳng có thể gọi là trọn vẹn vô cùng đâu. Các quan niệm ây cũng không vô thỉ vô chung, vì cái gì thuộc về loài người đều bất toàn cả, đến nỗi quan niệm về Đức Chúa Trời cũng vậy.Thế thì, quan niệm về Đức Chúa Trời trong lòng loài người, nếu đứng độc lập, có lẽ không chắc minh chứng về sự thực hữu của Ngài được. Nhưng mà bằng chứng nầy quả có giúp đỡ cho ba bằng chứng kia, khiến cho ta thấy Đức Chúa Trời có những phẩm cách trọn vẹn vô cùng, như sự vô thỉ vô chung, sự toàn vẹn, và mọi thứ đức tánh trọn vẹn khác. Tuy bằng cớ nầy không thể quyết chứng cho những phẩm cách trọn vẹn đó, thì cũng rất giúp đỡ cho ba bằng chứng kia, thích hiệp với tâm lý của loài người mà chứng rằng Đấng Cao cả buộc phải có những phẩm cách trọn vẹn ấy,mới xứng đáng gọi là Đức Chúa Trời vậy.V. PHẨM VỊ CHRIST LÀM CHỨNGBằng cớ nầy được xây dựng lên trên năm cây trụ, chứng quyết rằng Đức Chúa Trời thực hữu. Năm cây trụ ấy như sau đây:1. Christ đối với Kinh Thánh. –Đấng Christ là trung tâm và châu vi của cả bộ Kinh Thánh. Bộ ấy khải thị và minh giải về phẩm vị và công việc của Ngài, quyết đoán rằng Christ quả một Đấng siêu nhiên từ Đức Chúa Trời đến, hiện ra trong cõi trần gian đặng cứu rỗi loài người. Sự giáng sanh, đời sống, công vụ, sự chết, sự sống lại của Ngài, đều minh chứng rằng mọi sự Kinh Thánh chứng cho Ngài đều là chơn thật cả. Vậy, nếu Christ quả từ Đức Chúa Trời mà đến, và chính phẩm vị và công vụ Ngài đều minh chứng vậy, thì thực sự ấy cũng là một xác cứ chứng rằng có Đức Chúa Trời.Vả lại, Kinh Thánh cũng dạy rằng cả bộ ấy được biên thuật và tập thành cách siêu nhiên, đến đỗi tuy có đến 66 quyển đặc biệt,bởi chừng 36 trước giả rải rác trải gần hai ngàn năm, thì cũng vẫn có sự liên hiệp khắng khít, tôn chỉ và chủ ý của mỗi sách chỉ là Christ mà thôi, trước giả nầy chẳng phản đối với trước giả kia, nhưng cả thảy đều hiệp một ý để bày ra Chiên Con của Đức Chúa Trời là Đấng cất tội lỗi thế gian đi. Vả, nếu Kinh Thánh được nên cách siêu nhiên như thế, cũng dễ tin rằng phải có một Đại Trước giả siêu nhiên trước thuật mới hữu lý. Còn Đấng ấy là Đức Chúa Trời, Đấng siêu nhiên vô cùng vậy.2. Sự dự ngôn được ứng nghiệm. –Sự dự ngôn của cả các tiên tri và của Chúa đều được ứng nghiệm rất nhiều cách đúng đắn với nguyên ngôn, là thực sự xưa nay chẳng ai cãi được. Giả như sự dự ngôn về nước A-si-ri và Ba-by-lôn bị đánh đổ, không còn thấy tên trong bản đồ nữa (Es 13:19-22; 14:22,23; Gie 50:13,39,40; Na 3:7; So 2:13,14); lời dự ngôn về nước Ai Cập, nói rằng “sẽ là một nước yếu hèn hơn hết các nước, và sẽ không dấy lên trên các nước nữa” (Exe 29:15), đều đã được ứng nghiệm trọn vẹn đến ngày nay.A-si-ri và Ba-by-lôn bị tuyệt diệt không còn nữa; còn Ai Cập, tuy bị hèn yếu,mà vẫn còn đến ngày nay, nhưng thật không “dấy lên trên các nước nữa”.Kinh Thánh cũng dự ngôn nhiều về sự tan tác dân Y-sơ-ra-ên ở khắp trái đất (Exe 22:15; Os 9:17; Am 9:9); sự ấy cũng thật đã xảy đến cho họ y như các tiên tri đã dự cáo đó vậy. Trải qua mười mấy thế kỷ có nhiều tiên tri và bậc thánh dự ngôn về sự giáng sanh, sự sống, sự chết, và sự sống lại của Christ. Các lời họ đều được ứng nghiệm trọn vẹn, chẳng một lời nào sai chạy cả, cũng như chúng ta có thể biết ở lịch sử của Ngài chép trong Tân Ước vậy.Vả, các lời dự ngôn ấy và sự ứng nghiệm trọn vẹn như thế, há chẳng chứng quyết rằng phải có một Đấng siêu nhiên vô sở bất tri, khải thị các điều ấy cho những trước giả Kinh Thánh được biết ư? Thật như lời; và Đấng siêu nhiên vô sở bất tri ấy là Đức Chúa Trời, Chủ tể của trời đất muôn vật vậy.3. Các phép lạ dấu kỳ. –Kinh Thánh thuật lại nhiều biến động siêu việt xảy ra trong đời Cựu Ước và Tân Ước. Các biến động siêu nhiên đó đều can thiệp với cõi vật chất, cõi thuộc linh, và là những việc chẳng người phàm nào tự nhiên có thể làm được. Giả như sự giải cứu dân Y-sơ-ra-ên ra khỏi xứ Ai Cập, sự tuyệt diệt dân Ai Cập tại Hồng Hải,sự dùng ma-na mà nuôi nấng dân Y-sơ-ra-ên trải qua đồng vắng bốn mươi năm, sự đầu thai của Christ, các phép lạ Ngài, sự chết, sự sống lại Ngài, thảy đều là những biến động siêu việt, có nhiều chứng kiến làm chứng đích xác cho. Vậy các biến động ấy từ đâu mà có? Nhờ quyền năng gì mà xảy đến? Nếu không thể ra người phàm, thì há chẳng rõ lắm buộc phải do một Đấng siêu việt vô sở bất năng mà có đó ư?4. Vị cách và công vụ của Christ. –Xét về vị cách và công vụ của Christ thì đễ biết Ngài không phải như người thường,vốn tánh rất đạo đức, lòng rất thánh khiết, hành vi rất hiền từ, ngộ tánh rất cao, trong cả loài người chẳng một ai sánh kịp. Chính mình Ngài tự xưng là Con Đức Chúa Trời từ trời giáng xuống đời. Vả, nếu sự tự xưng ấy không chân thật,thì Jêsus Christ bất quá một đứa làm chứng dối, mê hoặc người ta, thật ác tệ cực điểm đó thôi. Song xét hành vi Ngài quả không phải đứa giả dối ác tệ đâu. Bởi vì kẻ ác không thể nào làm các việc thiện như Ngài đã làm. Thành thử, nếu Ngài là thiện thì sự tự xưng của Ngài hẳn là chân thật, Ngài quả là Con Đức Chúa Trời bởi Đức Chúa Trời sai xuống thế gian. Mà lại, nếu Ngài là Con Đức Chúa Trời,thì chính Ngài là bằng cớ xác thực hơn hết chứng rằng Đức Chúa Trời quả thực hữu;thật như Giăng chép, – xem Gi 1:18.5. Sự từng trải của tín đồ. –Có một bằng chứng đích xác hơn nữa về sự thực hữu Đức Chúa Trời, ấy là sự từng trải của tín đồ. Họ được tái sanh, được lòng mới, ghét sự ác, mến sự thiện, vui vẻ giao thông với Đức Chúa Trời, được ơn trong sự cầu nguyện, nhận lãnh nhiều hạnh phước thuộc linh, được sức hằng ngày tấn bộ trên thiên lộ, được càng gần gũi với thần linh giới càng hơn. Tín đồ Chúa không những biết Đức Chúa Trời chắc thực hữu,mà lại yêu mến Ngài, tin cậy Ngài, giao thông với Ngài. Họ xin Ngài, Ngài cho,nhờ Ngài, Ngài giúp mà ban linh lực cho, mở trí cho, thay đổi tánh xấu trở nên nết lành. Nghiệm thử trong họ dễ thấy thực có một thứ linh lực hành động ngấm ngầm, khiến họ cử chỉ quá tài lực và trí não thiên nhiên. Sự từng trải ấy không phải họ lập ý dối mình gạt người đâu, bèn là thật sự, xưa nay hiển hiện trong đời sống của muôn trùng người tin theo Christ. Vả, nếu không có Đức Chúa Trời làm Căn nguyên và Đối tượng của những sự từng trải ấy, thì ai là căn nguyên, ai là đối tượng đấy ư?TỔNG ĐOÁNXét kỹ năm bằng cớ luận qua trên đây, ắt phải công nhận rằng có một Đấng thiên địa Chủ tể. Nếu vin lấy một trong 5 bằng cớ ấy,thì không đủ làm chứng đích xác về sự thực hữu Đức Chúa Trời. Nhưng nếu vin lấy hết cả 5 cái, thì lại là bằng cớ minh bạch đích đáng xác chứng rằng Đức Chúa Trời quả thực hữu. Năm lý chứng ấy giống như năm chiếc đũa nhập lại một bó cứng,không ai bẻ gãy được, nhưng nếu lấy ra từng chiếc một, thì bẻ gãy như chơi.Cũng một thể ấy, đem cả năm bằng cớ nầy hiệp lại mà chứng quyết rằng có Đức Chúa Trời thì rất mạnh. Nhưng nếu bỏ bớt đi một cái, thì bốn cái kia ra yếu ớt và thiếu mất giá trị, không còn đủ lý cớ xác chứng rằng Đức Chúa Trời thực hữu vậy. CHƯƠNG 3: LUẬN VỀ ĐỨC CHÚA TRỜI ĐỘC NHẤT VÔ NHỊChương trên đã minh chứng rằng trong vũ trụ nầy có Đấng Thần minh, chắc chắn và đáng tin lắm. Nhưng người đời suy nghĩ về Đấng ấy thì có nhiều ý khác nhau lắm, người thì tưởng thế nầy, kẻ thì nghĩ thế kia,khiến cho loài người không thể nào rõ hoặc Đấng Thần Minh ấy có một Thần hay là nhiều, hoặc Ngài cao hơn muôn vật, hay là lẫn lộn trong muôn vật. Trước xin thử xem các nhà triết học và các nhà tôn giáo suy luận thể nào về các vấn đề quan hệ ấy; rồi sau đem những bằng cớ để chứng về lẽ đạo Đức Chúa Trời độc nhứt vô nhị.I. SỰ ỨC ĐẠT LẨN THẨN CỦA CÁC NHÀ TRIẾT HỌCChúng ta xét xem vũ trụ rộng lớn, muôn vật bề bộn, tài tình diệu lý của sự vật, thì tâm lý ta không cần suy nghĩ lâu, nhưng rất dễ nhận biết phải có một căn nguyên của muôn vật mới hữu lý. Nhưng ta thấy đạo học và lý học bất đồng, linh trí và thể trí khác nhau, đến đỗi có khi đờn bà con nít bất học mà lại biết rõ sự mầu nhiệm của Đức Chúa Trời; còn những nhà văn học danh tiếng lại tối tăm không hiểu gì đến. Thực như Chúa Jêsus Christ đã phán: “Cha đã giấu những điều nầy với kẻ khôn ngoan, người sáng dạ, mà tỏ cho những con trẻ hay” (Mat 11:25). Kìa, nhiều người tự xưng là đạt nhơn triết sĩ ở đời nầy, mà vốn tối tăm không rõ Đức Chúa Trời là thể nào, rồi lại đem tư tưởng hư không mình mà ức đoán ý nầy lẽ nọ, nhưng kết cuộc, luận điệu của họ chẳng khác gà cồ ăn quẩn cối xay, suy luận mãi mà không ra lẽ gì cả. Sau đây xin lần lượt kể lại đại khái chủ ý của các nhà ấy.1. DUY VẬT LUẬNa/ Phát huy duy vật luận. –Thuyết nầy chủ trương rằng muôn vật chẳng do trí ngộ mà ra, bèn là bởi vật chất mà được nên. Trước khi chưa có một vật nào trong vũ trụ, thì duy có vật chất. Vật chất ấy bằng những nguyên điểm (atome), nhờ cái động lực ẩn ở trong mà tự nhiên sanh hóa ra muôn vật. Thế thì, duy chất điểm là thực tế, làm cội rễ của muôn vật,đến đỗi loài có tâm chí tự chủ hay là vật vô tri vô giác, đều chẳng qua là hiện trạng của các chất điểm hóa ra đó. Họ lại chủ trương rằng trí ngộ với các lương năng khác của loài người đều chỉ là tài liệu của vật chất, tức là người tài năng thuộc về vật chất do động lực trong nó mà tổ hiệp nên. Thành thử, trí ngộ không có trước muôn vật, cũng không phải là căn nguyên của sự tổ hiệp trật tự diệu kỳ ở trong vũ trụ đâu; bèn là sự tổ hiệp trật tự đó nhờ công lệ vốn tiềm tàng trong vật chất mà cấu tạo trí ngộ. Vậy, trí ngộ là con đòi của vật chất,chớ chẳng phải là chủ của nó. Vật chất vô tri vô giác đó làm căn nguyên của muôn vật đã có trật tự lạ lùng kia, cũng là nguồn gốc của loài người có sanh hoạt tự trị, tự chủ, đến đỗi không cần nhờ Đấng Cao cả làm Chủ não, trù hoạch và làm hoàn thành vũ trụ nầy làm chi.b/ Chỗ sai lầm của duy vật luận. –Duy vật luận sai lầm vì những cớ kể sau đây:(1) Chẳng cắt nghĩa về sự thực hữu của Đức Chúa Trời. – Thuyết duy vật chẳng cắt nghĩa về sự thực hữu của Đức Chúa Trời, duy chối hẳn Đức Chúa Trời đi mà thôi. Cái nguyên tri trong loài người hay chứng thực cho sự thực hữu Đức Chúa Trời thì thuyết nầy cho là do sự chuyển động của những chất điểm nhỏ xíu kia mà ra!(2) Không cắt nghĩa căn nguyên muôn vật. –Thuyết nầy cũng không đủ cắt nghĩa cho căn nguyên của muôn vật. Nói rằng muôn vật sanh hóa ra bởi chất điểm và động lực tiềm tàng ở trong nó, thì lại nảy ra câu vấn nạn nầy: Chất điểm ấy là gì? Động lực tổ hiệp các chất điểm ấy lại để thành muôn vật của vũ trụ từ đâu mà ra? Nếu muôn vật bằng những chất điểm, thì các chất điểm ấy là muôn vật, và muôn vật là chất điểm đó. Mà luận như thế thì vô lý lắm,chẳng khác gì nói rằng con sanh cha và cha lại là con của con, không cắt nghĩa gì cả về nguồn gốc của muôn vật đâu. Ta nhận rằng các chất điểm chắc là nền tảng của vật chất, vật chất lại là nguyên liệu của muôn vật hữu hình, nhưng muôn vật tổ hiệp lại đó bất quá là hiện trạng sờ sờ về công việc của một Chủ não rất khôn ngoan đã trù hoạch mọi sự, rồi nhờ quyền năng tạo hóa mình mà khiến cho kế hoạch diệu kỳ ấy được thành công.(3) Luận rất sai về trí ngộ. –Thuyết nầy chủ trương rằng trí ngộ với tư tưởng đều là những tư cách của vật chất.Những ý ấy là vô lý, vì trí ngộ tự xét mình là vượt quá vật chất, bằng nguyên liệu khác, và thuộc trong phạm vi cao hơn vật chất. Trí ngộ có những tư cách chẳng do vật chất mà ra, tức là tự tri, tự động, không bị không gian bó buộc. Ký ức làm chứng cho sự tự tri, vì trí ngộ có thể nhớ lại tôi bao giờ cũng là tôi mà thôi. Còn sự nhớ lại ấy không phải là nhờ các chất điểm của óc, vì chất điểm ấy hằng đổi ra khác, đến nỗi chất điểm nầy không thể nhớ lại chất điểm trước kia.Sự không động đậy của vật chất và sự hoạt động của mọi sanh vật chứng rằng vật chất không tự động, duy động mỗi khi nào có năng lực gì ở ngoài nó đụng đến. Lại theo lời khoa học một chất điểm tự mình không thể nào cử động, phải có ít nữa là hai; còn hai chất điểm ấy cũng không tự động,bèn cần phải nhờ một chủ lực ở ngoài nó mà tổ hiệp lại, mới hoạt động được.Thành thử, chính sự tổ hiệp vật chất minh chứng rằng nếu không có một Chủ lực hành động trên nó, thì vật chất tự nó chẳng có thể trở nên vũ trụ bao giờ.Vả lại, nếu tư tưởng là hiệu quả của óc vật chất, thì chẳng có thể vượt qua cao hơn giới hạn của vật chất. Nhưng nếu ta suy nghĩ cho kĩ, rất dễ thấy tư tưởng hẳn không bị hạn chế bởi vật chất đâu. Vì nó không bị hoặc không gian hay vật chất ngăn cản được, có thể tưởng tượng lui tới,lên xuống vượt qua các núi, trũng, sông, biển, nhảy từ đầu cùng trái đất đến tận chơn trời rất mau rất lẹ, chẳng gì bắt phục nó được. Ấy rõ ràng tư tưởng của trí ngộ trổi hơn vật chất mọi bề, ám chứng vũ trụ không thể do chất điểm mà ra đâu, bèn phải do một Đại trí ngộ, một Chủ não trù hoạch và làm hoàn thành mọi sự mới hữu lý.(4) Không thể cắt nghĩa kế hoạch của vũ trụ. –Thuyết ấy không thể cắt nghĩa được kế hoạch lớn và diệu kỳ trong vũ trụ. Khảo cứu muôn vật thì thấy mọi sự có kế hoạch, có trật tự rất khéo léo phiền phức, không thể do vật chất vô tri vô giác mà ra. Lý tánh buộc ta phải nhận rằng có một Chủ não, một Đấng trọn khôn ngoan, trọn quyền năng rất lớn tính toan sắp đặt mọi việc,mới định được kế hoạch diệu kỳ dường ấy.Nói như nhà duy vật luận rằng, trước có vật chất, sau mới có linh động, sự sống, tư tưởng v…v., thì rất vô lý; vì có lẽ nào muôn vật tự rập nhau lại vừa vẹn, mà gây nên một vũ trụ hoàn bị như thế nầy ư? Vậy, một lần nữa, ta tái quyết rằng: muôn vật với các kế hoạch trật tự đều chứng minh rằng phải có một Đấng Thần Linh đã trù liệu trước khi chưa có trời đất muôn vật, rồi sau dùng quyền năng vô hạn vô lượng mà tạo thành các vật ấy được nên hình trạng như hiện có vậy.2. VẠN HỮU THẦN LUẬNa/ Phát huy vạn hữu thần luận. –Thuyết duy vật luận chủ trương rằng trong vũ trụ không có Đấng Chơn tể, chỉ có vật chất mà thôi. Nhưng vạn hữu thần luận phản đối hẳn thuyết ấy, chủ trương rằng muôn vật đều là Đức Chúa Trời, Đức Chúa Trời là muôn vật. Những vật chung quanh và tư tưởng ở trong lòng đều là sự hiện diện của Đức Chúa Trời cả. Thuyết ấy lẫn lộn lắm, đã có từ thời cổ, vốn làm nền tảng của triết học Hy-lạp xưa kia, lại cũng là chủ nghĩa của nhiều bái vật giáo hiện nay nữa. Vậy, lấy làm quan hệ cho ta nên lược cứu qua để rõ đại ý của nó là thể nào. Thuyết này chủ trương rằng:(1) Muôn vật bởi một nguyên chất tự nhiên mà có, thông ra muôn loài, có nhiều hình thức, cứ biến hóa vô cùng. Sự biến hóa vô số ấy có hai thứ, là linh chất và thể chất. Nguyên chất ấy là Đức Chúa Trời; mọi vật đều là một thể cùng bày ra Đức Chúa Trời. Các vật sống thuộc về linh chất,các vật chết thuộc về thể chất, cả thảy hiện tượng trong vũ trụ đều là hình thức của Đức Chúa Trời biến hóa ra cả. Khi các vật ấy hao mòn rồi mất biệt, ấy bất quá là sự quy nguyên, nó trở về cội nguồn của nó, cũng gọi là Đức Chúa Trời vậy.Vả, mọi vật ở vũ trụ chẳng có vật nào độc lập độc tôn cả. Ấy vậy, Đức Chúa Trời cũng chẳng có thể thành vị, vì như muôn vật Ngài chẳng có thể độc lập độc tôn được, nhưng Ngài còn bị chính vũ trụ hạn chế sự thực hữu của Ngài nữa.Họ lại quyết rằng dầu Đức Chúa Trời không có vị cách mà vẫn có trí ngộ, hiện trạng trong vũ trụ, đạt đến sự tự tri trong tư tưởng của loài người, Đức Chúa Trời chỉ vận động trong sự xây vần của muôn vật,suy tưởng trong trí óc của loài người. Ngài chẳng thay đổi, duy các hiện trạng trong vũ trụ thay đổi đó thôi. Các hiện trạng ấy chẳng gì lượn sóng, còn nguyên chất tợ hồ nước biển. Hình trạng của lượn sóng dầu là thiên biến vạn hóa, mà nước biển vẫn còn y nguyên.Luận về trong lòng người ta Đức Chúa Trời hiện ra trong sự tự tri. Khi thân thể chết rồi, thì ngoại thể nó thay đổi hẳn, nhưng tự tri ở trong lòng trở về nguồn gốc là Đức Chúa Trời. Thuyết nầy không công nhận Đức Chúa Trời dựng nên muôn vật, vì muôn vật tức là Đức Chúa Trời, Đức Chúa Trời tức là muôn vật, cũng như nói rằng thân thể không thể rạo ra cái tay được, vì tay vốn một phần tử của thân thể vậy.(2) Thuyết nầy lại chủ trương rằng: “Có nguyên thần và có nguyên khí; nhưng nguyên thần chẳng tạo ra nguyên khí; bèn là nguyên khí đồng với nguyên thần từ trước vô cùng cho đến đời đời bất tận.Nguyên thần ở trong nguyên khí mới sanh hóa hược. Thần linh của loài người với phần linh của nguyên thần đều in nhau cả. Nhơn vì phần linh loài người do nguyên thần mà ra, khi người chết nó lại trở về nguyên thần. Ví như lấy nước đựng trong vò, bịt miệng lại, rồi thả xuống đáy biển; nước trong vò và nước biển phân rẽ nhau, kịp khi vò bể, thì nước trong vò cùng hiệp lại làm một với nước biển. Cũng một lẽ ấy, linh hồn loài người kiều cư trong thân thể ít mươi năm, rồi khi qua đời thì nó hiệp lại với nguyên thần mà trở về nguồn gốc vậy. Chúng ta có thể nói tóm tắt lại rằng giáo nầy có ba yếu điểm như sau đây:(a) Muôn vật đều từ một gốc và cũng lại về một gốc. (b) Mọi việc đều chẳng qua là hiện trạng tạm thời; hình thể của muôn vật luôn với cả sự cực khổ, lo phiền, đau đớn của người đời, thảy như áng vân cẩu vẩn vơ giữa trời, không bao lâu lại tan đi không còn tăm dạng. (c) Đức Chúa Trời ở khắp muôn vật, vì chính muôn vật là Đức Chúa Trời, chẳng vật gì mà không có Ngài tham dự vào. Sự vô sở bất tại của Ngài lan đến nhai hạn của vũ trụ mới tận cùng vậy.Ấn-độ giáo lấy thuyết vạn hữu thần làm tôn chỉ. Các thống hệ triết lý Hi-lạp dùng thuyết nầy làm nền tảng, nhứt là đảng Tân thuyết Platon (Neon Platonisme), dấy lên vào lối 205 S.C., do ông Plotenus thủ xướng. Phần nhiều bái vật giáo xưa nay đều lấy thuyết nầy làm kinh luận cho giáo lý của họ, nên nó đã thâm nhập lòng người ta nhiều lắm.b/ Sự sai lầm của thuyết nầy. – Sự sai lầm của thuyết nầy như sau đây:(1) Các quan niệm nó phản đối nhau. –Các quan niệm của thuyết nầy phản đối nhau cả. Vì nó xưng Đức Chúa Trời là vô hạn,lại cho thể yếu Ngài bằng các nguyên tố hữu hạn; quyết Ngài tự hữu, lại cho Ngài không thể thực hữu ở ngoài vụ trụ; dạy rằng Ngài cao cả, lại nhốt Ngài vào cõi tạo vật, đến đỗi phải nhờ loài người mới tự tri; chủ trương Ngài không tự định gì được, lại quyết rằng Ngài là căn nguyên của muôn vật. Một Thần như thế bất quá là Thần bất toàn, không thể nào sanh ra sự toàn vẹn vô cùng được. Thành thử,vạn hữu thần giáo kỳ thực chỉ chối Đức Chúa Trời đó thôi.(2) Chối vị cách của Đức Chúa Trời. –Vạn hữu thần giáo chối hẳn vị cách của Đức Chúa Trời. Bởi vì hễ vị nào có vị cách thì tự tri, biết tôi là tôi, rõ vật gì ở ngoài mình không phải là tôi.Cũng vậy, Đức Chúa Trời là Đấng tự tri, nên phải có vật ở ngoài Ngài không phải là thuộc trong thể yếu Ngài, mới có thể gọi Ngài là Đấng tự tri Đấng Christ.Nhưng vạn hữu thần giáo dạy rằng muôn vật là Đức Chúa Trời, Đức Chúa Trời là muôn vật nên làm cho Đức Chúa Trời không thể nào tự tri, vì ở ngoài Ngài chẳng có gì nữa. Như thế theo thuyết nầy, Đức Chúa Trời chẳng có vị cách, bởi chỉ vị nào có vị cách mới là tự tri được.(3) Quan ngại với luân lý. –Giáo nầy cũng có quan ngại với luân lý; bởi vì nếu loài người lẫn lộn với Đức Chúa Trời, thì tất nhiên mọi việc loài người làm tức là Đức Chúa Trời làm, hoặc sự lành sự dữ cũng vậy; đến nỗi ta không thể nào phân biệt thiện ác, phải trái,bởi cả hai đều cùng một gốc. Người hiền đức không cần khen, kẻ bất nhân cũng không đáng trách, vì hết thảy chẳng qua là sự đương nhiên. Nói như vậy, quả là lẫn lộn các quan niệm của luân lý, đến đỗi không còn nghĩa lý gì nữa; vì nếu thuyết nầy là đúng thì ăn ở xa xí là phận sự mình, sự tàn nhẫn là sự công chánh, tội lỗi là sự nhơn lành; hoặc Sa-tan hoặc thiên sứ Gáp-ri-ên cả hai đều là Đức Chúa Trời hiển hiện. Loài người không có ý chí tự do, chẳng có trách nhiệm đạo đức; sự cầu nguyện, cuộc thờ phượng đều ra vô vị cả, vì mình là Đức Chúa Trời,Đức Chúa Trời là mình. Hy vọng về sự sống đời đời và sự bất diệt cũng chỉ là ảo tưởng đó thôi.(4) Phản đối lòng kính thờ Đức Chúa Trời. –Giáo nầy cũng phản đối lòng kính thờ Đức Chúa Trời. Vả, sự kính thờ Đức Chúa Trời ấy là sự giao thông của kẻ có vị cách với Đấng cũng có vị cách. Nhưng giáo nầy luận rằng Đức Chúa Trời chẳng có vị cách, nên kính thờ Ngài làm chi. Ấy vậy, hễ ai tin nhận chủ nghĩa vạn hữu thần, thì tôn vạn vật làm thần để thờ phượng. Vả,chính mình người cũng một phần tự thuộc trong phạm vi vạn vật; vậy, kẻ thờ lạy thần của giáo nầy chẳng qua là thờ lạy chính mình đó thôi. Mà sự ấy há chẳng phải là điên cuồng sao?II. SỰ SUY TƯỞNG MỜ TỐI CỦA CÁC NHÀ TÔN GIÁOCác tôn giáo bởi người ta lập ra đều có thiên tánh kính thờ Đức Chúa Trời, song thiên tánh ấy dầu là giống nhau mà lại rất khác nhau, bởi vì lòng nguyên tri tuy là nhận biết có Đức Chúa Trời mà vẫn chiếu theo hoàn cảnh, giáo dục, tập tục và phong hóa mà giải nghĩa và kính thờ Ngài vậy. Nay xin thuật lại những lý luận của các nhà tôn giáo về vấn đề Đức Chúa Trời.1. HỖN NHIÊN NHỨT THẦN THUYẾTGiáo Bà-la-môn (Brahmanisme) bên Ấn-độ, chủ trương rằng họ thờ Bà-la-môn, là thần tối cao, độc nhứt vô nhị. Nhưng xét cho kỹ thì dễ thấy thần ấy chẳng qua là thần trí lẫn lộn trong muôn vật. Giáo nầy cứ nói muôn vật đều có hiện tượng của thần khí ấy; có khi tụ lại mà nên người, rồi sau lại tan về nơi thần Bà-la-môn, là chỗ quy tục. Thần Bà-la-môn phân phú ở trong thân thể mọi người, cho nên loài người cũng được xưng là thần. Ấy vậy, từ một gốc tan ra muôn mối lại trở về một gốc. Giáo Bà-la-môn cũng tin nhận chủ nghĩa luân hồi, quyết rằng loài người vì có tội mà phải cứ luân hồi biến kiếp mãi, đến đỗi phải nhờ sự tu nhơn tích đức mình để hòa hiệp làm một với nguyên thần, mới không còn bị luân hồi đầu thai biến kiếp mãi mãi nữa.Giáo Bà-la-môn cũng quyết rằng ở ngoài vị thần chí tôn ấy, lại có ba ức ba ngàn vạn thần nữa, là những thần từ Bà-la-môn lưu xuất. Vậy, xét cho kỹ thì thấy giáo Bà-la-môn chẳng qua là đa thần chủ nghĩa,chớ chẳng dạy về giáo lý độc thần đâu. Các thần Ấn-độ ấy chia ra từng hàng từng lớp, rồi trên hết cả có một thần chí tôn quản trị chúng đó vậy.2. NHỊ NGUYÊN LUẬNa/ Phát huy nhị nguyên luận. –Giáo nầy phát khởi từ nước Ba-tư. Xưa có người nước ấy đề xướng rằng: Muôn vật chẳng phải bởi một thần mà ra, bèn là bởi hai thần, gọi là Nhứt Thiện Nhứt Ác,hoặc Nhứt Âm, Nhứt Dương. Hai vị ấy đều có tâm chí quyền hoành, cùng sanh ra từ lúc vô cực, hằng phản nghịch nhau, đến đỗi giữa hai vị ấy có cuộc giao chiến không ngớt. Thiện thần không đủ quyền năng tuyệt diệt Ác thần mà Ác thần cũng chẳng biết sao trừ nỗi Thiện thần. Cũng dạy rằng những sự khổ nạn tà ác của loài người hết thảy đều là do Ác thần mà ra, và là sự phải có đời đời, người ta chẳng có phương pháp trừ bỏ được. Loài người tuy phải nhờ Thiện thần để cầu phước,mà cũng phải dua nịnh Ác thần để nhường tai.b/ Sự sai lầm của giáo nầy. –Giáo nầy có một chút lẽ thật, là nhận ở trong vũ trụ có hai nguyên lý là thiện và ác chiến đấu với nhau mãi. Ngoài lẽ thật ấy thì mọi ý nghĩa khác đều sai lầm cả. Xin giải tỏ sau đây:(1) Lẫn lộn ý niệm sự thiện với Đức Chúa Trời. –Giáo nầy lẫn lộn ý niệm thiện với Đức Chúa Trời. Sự thiện chẳng phải là Đức Chúa Trời, bèn là một sự thuộc tánh của Ngài; cũng như ta thường gọi người nầy kẻ kia là hiền lành, thì vẫn chẳng phải nói sự hiền lành ấy là bản ngã của người đó đâu, tuy nói về tâm tánh người ấy là hiền lành đó thôi.(2) Lầm gọi sự ác có vị cách. –Sự ác cũng không phải là thần có vị cách đâu, bèn là sự thuộc tánh của vị Sa-tan kia đương phản loạn với Đức Chúa Trời đó thôi. Sự gian ác chẳng phải có từ trước vô cùng, lại cũng chẳng phải còn đến vĩnh viễn đâu. Sự ác bắt đầu có ở nơi Sa-tan lúc nó dấy nghịch cùng Đức Chúa Trời. Về sau Đức Chúa Trời sẽ diệt trừ sự ác khỏi vũ trụ nầy khi Ngài bắt Sa-tan bỏ vào hầm lửa đời đời (Es 14:12-17; Kh 20:10). Cho nên ý kiến của giáo nầy về Đức Chúa Trời bất quá là những lời ức đạt viễn vông, lẫn lộn vị cách (personnalité) với sự thuộc tánh (attribut) vậy.3. ĐA THẦN GIÁOTruy nguyên về lẽ thờ thần của loài người,thì thấy rõ lẽ ấy bắt đầu từ nhứt thần, rồi trải lâu đời về sau đạo độc thần lần lần mất đi. Dầu vậy, tấm lòng kính thờ Đức Chúa Trời vẫn còn chưa dứt. Bây giờ,các dân tộc thế gian đều đua nhau sáng lập đa thần giáo. Ấy cũng là lý thế tất nhiên, vì lòng kính thờ của họ dầu đã mất lẽ thờ nhứt thần, thì vẫn còn và buộc họ phải tự tạo ra những vị thần để thờ phượng. Các thần ấy vô số, có nhiều danh hiệu khác nhau. Người thì kính trời đất làm thần, kẻ thì tôn mặt trời mặt trăng làm thần, kẻ khác lại đề xướng rằng sông, biển, núi, rừng đều có thần làm chúa.Cũng gọi những người qua đời là thần mà thờ lạy nữa, thậm chí hạ mình xuống cực điểm mà thờ thần trâu, thần bò, thần ngựa, thần ếch, thần lằng, thần rắn, nhân ngư, bạch ho; cũng thờ tà ma quỷ mị theo ý họ tưởng tượng ra nữa.Các thần ấy đều là hữu danh vô vị, hữu thể vô linh. Các lẽ dạy về họ đều là ức đạt, dị đoan, không giá trị gì cả. Dầu vậy,xưa nay vô số người vẫn mê tín sùng bái các thần vô hiệu ấy. Tại cớ sao vậy? Vì loài người dầu đã mất cái tôn chỉ thờ lạy Đức Chúa Trời, thì thiên tánh thờ lạy hãy còn, buộc họ phải thờ phượng. Tuy họ không còn biết thờ Đấng Chơn tể của trời đất, mà không thờ phượng ai hết cũng chẳng đành lòng; nên phải thờ phượng vô luận là thần nào, miễn là làm thỏa mãn ước vọng của linh tánh mình thì được.Đa thần giáo rất vô lý, rất dị đoan chẳng chút gì giúp cho loài người biết được Đức Chúa Trời, lại khiến cho họ rất tôi tăm, càng ngày càng xa Ngài đến đỗi Kinh Thánh dạy rằng, – xem Ro 1:21-23.4. THÁI CỰC THUYẾTa/ Phát huy thái cực thuyết. –Đạo Nho dạy rằng lúc đầu ở trong vũ trụ chỉ có cái lý vô cực, cũng được gọi là thái cực. Thái cực ấy tuy linh diệu và cường kiện, thì vốn rất huyền bí, không thể hiểu thấu được cái chơn chánh và chơn tướng của lý ấy. Thái cực lúc động có lúc tịnh. Khi động thì sanh dương, khi tịnh thì sanh âm. Âm dương bèn hiệp lại biến hóa sanh ra trời đất và vạn vật; còn vạn vật cứ sanh sanh hóa hóa vô cùng vô tận. Song vạn vật tuy nhiều và cứ sanh hóa chừng nào đi nữa, cũng chỉ do một căn nguyên là âm và dương. Còn âm và dương lại từ thái cực mà ra, là cái bản nguyên của cả thảy.Về sự tể trị muôn vật, thì đạo Nho lại chủ trương rằng Trời làm Chủ tể cả vũ trụ, nhờ ý chỉ rất mạnh gọi là thiên mạng, để khiến cho muôn vật cứ sanh hóa, tồn tại và hành động mãi. Những công việc người ta làm ở đời, bất cứ là tốt hay xấu, cũng đều do mạng Trời định vậy.b/ Sự sai lầm của Nho giáo. –Tra xét đạo Nho thì thấy về một mặt giống như thiên diễn tấn hóa thuyết, bởi chủ trương rằng thái cực tức là vô cực là căn nguyên của muôn vật cũng như thuyết kia cho muôn vật do một tế bào nhỏ xíu, vốn ở trong khoảng hư vô mà ra. Mà nếu thử hỏi đạo Nho rằng thần họ thờ đó là ai, thì họ đáp rằng cao diệu quá, không thể nào biết được. Cho nên họ bỏ qua sự tìm kiếm nhận biết Ngài, mà xây qua thờ vạn vật thọ tạo kia, lý tưởng họ lầm lạc, khiến cho linh tánh đạo đức trở nên điên dồ. Lại đề xướng rằng mọi việc bất cứ ác hay thiện, đều do thiên mạng mà ra, ấy chỉn chẳng qua là thuyết vận mạng, cướp ý dục tự do của loài người, coi họ như máy móc, chẳng được tự chủ mà làm việc gì cả. Lại còn nói việc ác họ làm là do Đức Chúa Trời mà ra cả, ấy lại cho Đức Chúa Trời là căn nguyên của tội ác nữa. Ôi! Suy luận dường ấy há chẳng là gớm ghê không xiết kể đấy ru?III. CÁC NGOẠI CHỨNG VỀ ĐỨC CHÚA TRỜI ĐỘC NHẤTKhoảng trên, ta đã suy luận về ý tưởng mờ tối của các nhà triết học, lời ức đạt lẩn thẩn của các nhà tôn giáo ngoại về Đức Chúa Trời, thấy ý kiến của họ không những là không hiệp với lẽ thật của Kinh Thánh, mà lại phản đối với khoa học vật lý nữa, vì muôn vật trong vũ trụ quả tỏ ra phải có một Đấng Chơn tể độc nhứt. Xem những bằng cớ sau đây sẽ rõ.(1) Sự hiệp hòa của vũ trụ làm chứng. –Ngửa xem vũ trụ thinh thang, liếc nhìn muôn vật trùng điệp, đều hòa hiệp dăng dính với nhau cả. Như mặt trời mặt trăng, các vì tinh tú sáng tỏa khắp bầu trời,đều noi theo quỹ đạo vần xây có chừng mực. Nếu không bởi Đấng Chơn tể sắp đặt bảo toàn, thì trời đất bao la kia chỉ cho khỏi bị hư hỏng. Kìa, mặt trời ở chính giữa,các hành tinh xây vần chung quanh, mau chậm xa gần đều vừa lệ định của thể chất nó lớn hay nhỏ, nặng hay nhẹ; cho nên đời đời nó khỏi bị thiên bên nầy hoặc lệch bên kia. Sự hòa hiệp rập ràng vững vàng dường ấy chứng thực rằng chắc phải có một thần độc nhứt làm Đấng căn nguyên và bảo tồn sự hòa hiệp ấy, cầm quyền tể trị muôn vật cho khỏi bị hư hỏng đó mới hữu lý.(2) Công lý muôn vật làm chứng. –Kìa, loài người dầu có trắng đen vàng đỏ khác nhau, nhưng thất tình lục dục vẫn giống nhau. Loài vật dầu có lớn nhỏ sang hèn khác nhau, nhưng về sanh trưởng dưỡng dục thảy đều giống nhau. Xem trên mặt đất có bốn mùa luân chuyển, tám tiết đổi thay, mưa gió theo thì âm dương phải độ, nước lên ròng có cản, hoa nở rụng có lứa,muôn muôn sự vật há chẳng phải nhứt lý quán thông theo công lệ đã định sao? Nếu gọi trời đất lớn bực ấy, muôn vật nhiều ngần kia, mà không có một Đức Chúa Trời độc nhứt cai trị theo công lệ Ngài đã định, thì không thể cắt nghĩa công lý của muôn vật được. Giả như một nước kia đất đai dầu rộng, dân sự dầu đông, công việc dầu nhiều, thì cũng có một luật pháp thống nhứt để thông hành toàn quốc, do một chánh phủ thống trị mà thôi. Cũng vậy, công lệ muôn vật minh chứng có một Đấng cầm quyền thống trị ban bố và bảo tồn công lệ và muôn vật ấy, mới hữu lý vậy.(3) Quyền năng của Đức Chúa Trời làm chứng. –Xem xét mọi vật thọ tạo, thì biết rõ có Đấng Tạo hóa thần thông quảng đại, vô sở bất năng, vô sở bất lý. Nên nếu ai gọi trong bầu trời đất còn có thần khác nữa thì Đức Chúa Trời tạo vạn vật chẳng phải là vô sở bất năng, bởi có vị khác chia quyền năng với Ngài; cũng chẳng phải là vô sở bất lý, vì ngoài Ngài còn có thần khác chia quyền chủ tể với Ngài. Nếu ở ngoài Đức Chúa Trời còn có thần khác,thì Ngài chẳng phải bao hàm mọi quyền bính, nhưng ai có quyền nấy, thì cái họa linh xuất đa môn, khiến cho cả bầu trời đất không còn nhứt luật, không có luân thứ, nhưng vô cùng hỗn độn vậy.(4) Sự vô lượng của Đức Chúa Trời làm chứng. – Nếu nhà thiên văn dùng vọng viễn kính mà dòm xem trong khoảng không thì có thể thấy vô số vì sáng phát ra tại đó rất tinh xảo rực rỡ. Nhưng dầu họ thấy xa bao nhiêu, cũng chưa thấy được toàn thể vũ trụ đâu, duy thấy một phần rất nhỏ đó thôi; bởi vì bộ phận lớn của vũ trụ thì ở ngoài thế giới của loài người. Các nhà thiên văn biết rằng ở ngoài thị giới mình cũng có những vũ trụ vô cùng muôn lần lớn hơn vũ trụ ta ở nữa. Dầu họ rán hết sức bình sanh để nghiên cứu đi nữa,thì nào có ai hiểu thấy được đâu. Hoặc ở trong vũ trụ ta đây cũng có nhiều thế giới cực kỳlớn lao. Có vì sao rất lớn rất xa cách địa cầu nầy, đến nỗi đã phát ánh sáng ra từ buổi sáng thế, mà mãi đến bây giờ cũng chưa soi tới ta đây. Vả,ánh sáng đi rất mau, mỗi giây đồng hồ đi được ước chừng 300.000 ki-lô-mét. Dường ấy, vì sao ấy xa trái đất nầy biết là dường nào! Mà kìa, vũ trụ lại có vô số vì sao như thế nữa. Vậy, vũ trụ đối với lượng trí hiểu ta thật như vô hạn vô lượng,nhơn đó cũng phải đoán rằng Đức Chúa Trời là Đấng Tạo hóa, cũng vô hạn vô lượng vậy. Mà nếu lại gọi còn có vị thần khác ở ngoài Đức Chúa Trời cũng vô hạn vô lượng đương địch thể với Ngài quả là vô lý vậy.(5) Đạo xưa làm chứng. –Các nhà tôn giáo truy nguyên sự bắt đầu kính thờ Đức Chúa Trời, thì đều công nhận rằng loài người từ buổi đầu tiên khỉ sự chỉ thờ Thần độc nhứt rồi về sau lần lần thoái hóa mà thờ đa thần, rồi lại từ đa thần mà trở lại thờ Thần độc nhứt như cũ. Ấy chẳng những riêng dân Do Thái như vậy, mà các nước thế gian cũng đều như thế. Kìa, các sách kinh truyện của nước Tàu xưa thường xưng Đức Chúa Trời là Thượng đế, tả Ngài là một Đấng tối cao cực diệu, có tâm chí ám hiệp với Giê-hô-va của đạo Do Thái đời xưa. Thực sự ấy minh chứng rằng ông bà về đời thượng cổ còn chưa mất tôn chỉ của thần đạo chánh đáng, tức là đạo về Đức Chúa Trời độc nhứt vô nhị vậy. Chương 4: LUẬN VỀ ĐỨC CHÚA TRỜI THÀNH VỊĐức Chúa Trời chẳng như giáo Bà-la-môn kia mê tín mà bị hỗn độn với muôn vật như không khí làm đầy dẫy không trung cũng chẳng như duy vật luận chủ trương Đức Chúa Trời là muôn vật, muôn vật là Đức Chúa Trời.Nhưng Đức Chúa Trời của vũ trụ có vị cách, đứng độc lập toàn vẹn ở ngoài muôn vật,chẳng bị lẫn lộn với vị nào hoặc vật nào khác.I. ĐỊNH NGHĨA DANH TỪ VỊ CÁCHVả, danh từ vị cách có nghĩa gì? Đáp: Vị nào có sự tự tri, tự giác, tự chủ gọi là vị có vị cách (personnalité). Nói cách khác, vị nào tự biết mình là thực hữu, có quan năng quyết định để lựa chọn làm việc nầy, chối việc kia, gọi là vị có vị cách vậy. Kỳ thực, điều phân biệt loài người với loài thú là điều nầy: loài người có bản quan tự tri, tự biết mình thực hữu; cũng có bản năng tự chủ, để quyết định theo tâm trí và ý dục dạy biểu. Còn thú vật thì khác hẳn, chẳng tự cảm biết nó thực tại, cũng không có tài quyết định làm việc nầy bỏ việc kia; vì nó cứ tự động theo công lệ của trực giác, chẳng thay đổi chẳng tẻ khỏi đường lối ấy chút nào.Nói đại khái, vị cách có ba nguyên tố, tức là trí ngộ, cảm giác và ý dục. Nhờ trí ngộ mà vị có tài tư tưởng; nhờ cảm giác mà vị có tài cảm xúc; nhờ ý dục mà vị có tài muốn hay không muốn làm việc nầy việc kia. Ngoài ba nguyên tố ấy ra lại còn có hai bản năng rất quan hệ cho vị cách, ấy là lương tâm và tự nhiệm. Vị nào có những bản năng ấy gọi là vị có vị cách vậy.II. VỊ CÁCH CỦA ĐỨC CHÚA TRỜICái vấn đề quan hệ cho sự kê cứu nầy là: Đức Chúa Trời há có vị cách chăng? Đáp: Nếu chúng ta có thể minh chứng rằng Đức Chúa Trời đã có lợi dụng trí ngộ, cảm giác, và ý dục để thi hành việc gì, thì cũng có thể đoán dịnh Đức Chúa Trời có vị cách vậy. Sau đây xin kể ra ba bằng cớ chứng rằng Đức Chúa Trời quả có dùng cả ba bản năng ấy trong hành vi cử chỉ của Ngài.(1) Muôn vật làm chứng. –Xét thử muôn vật thì thấy cuộc tạo hóa thực diệu kỳ vô song, sự sắp đặt theo luân thứ quả là lạ lùng vô cùng. Muôn vật ấy buộc phải gốc bởi một Đấng Tạo hóa có trí ngộ khôn ngoan tuyệt đối, mới làm nên muôn vật ấy được. Mà có trí ngộ khôn ngoan ấy không đủ, cũng cần phải có ý dục để quyết định thi hành công việc lạ lùng ấy mới hữu lý. Ấy vậy, cuộc tạo hóa muôn vật minh chứng rằng Đức Chúa Trời có vị cách vậy.(2) Loài người làm chứng. –Chúng ta đã thấy loài người vốn thuộc về hạng sanh vật có vị cách, vì họ đều có bản năng trí ngộ, cảm giác, và ý dục; cũng có lương tâm và tự nhiệm nữa. Chính người lớn tiếng chứng rằng Đấng Tạo hóa của họ chắc là một Đấng có trí ngộ, cảm giác, và ý dục cũng như họ đã có, mới dựng nên họ được. Lại cái bản năng ấy trong Đức Chúa Trời chắc trổi hơn loài người vô cùng, bởi vì theo công lệ bất di bất dịch thì căn nguyên bao giờ cũng trổi hơn công hiệu vậy.(3) Kinh Thánh làm chứng. –Kinh Thánh cũng dạy rõ ràng rằng Đức Chúa Trời có trí ngộ, cảm giác, và ý dục.Sau đây xin viện dẫn mấy câu để chứng thực cho lẽ ấy.a. Về trí ngộ. – Những câu nầy chứng rằng Đức Chúa Trời có trí ngộ khôn ngoan để tư tưởng, suy hiểu và xem xét:Ch 15:3; Gie 29:11; Cong 15:18; Ro 11:33b. Về cảm giác. – Những câu nầy chứng rằng Đức Chúa Trời có cảm giác để yêu mến, thương xót, và buồn giận:Thi 33:5; Thi 103:8; Gi 3:16; He 12:29c. Về ý dục. – Những câu sau nầy cũng chứng rằng Đức Chúa Trời có bản năng ý dục để toan liệu, quyết định làm việc:Thi 115:3; Es 46:10,11; Da 4:35; Mat 19:26TỔNG LUẬNNhờ các lý chứng kể ra trên đây, ta có thể đoán rằng Đức Chúa Trời có chẳng phải một sự hư ảo, một ảnh hưởng, hoặc một quyền năng vô tri vô giác đâu, bèn là Ngài có vị cách tức là Ngài có trí ngộ, cảm giác và ý dục hiệp lại thành vị, có sự tự tri tự giác, và tự nhiệm, đến đỗi có tài hiểu biết mọi sự, cảm xúc mọi sự, thi hành mọi sự vậy. Chương 5: LUẬN VỀ CÁC SỰ THUỘC TÁNH CỦA ĐỨC CHÚA TRỜIVả, Đức Chúa Trời đã có vị cách, thì tự nhiên cũng có bản tánh và những phẩm cách tương xứng với bản tánh ấy. Nhưng mà người đời vốn hèn nhỏ, làm sao biết được Đức Chúa Trời vô lượng vô biên? Tâm trí của họ hữu hạn, làm thể nào hiểu được phẩm cách của Đấng toàn vẹn vô cùng?Thực, bản tánh Đức Chúa Trời rất mầu nhiệm, rất diệu kỳ, đến đỗi lý tánh người không thấu nỗi, lời phàm không tả được. Dầu vậy, Đức Chúa Trời không muốn ta cứ ở trong sự dốt nát, bèn là muốn ta hiểu biết các phẩm cách và đức tánh của Ngài, hầu cho ta nhờ đó mà được cứu rỗi. Bởi vì, – xem Gi 17:3.Vả, nói đại khái, chúng ta nhờ ba điều mình biết các thuộc tánh của Đức Chúa Trời, là: (1) Nhơn tánh, vì loài người được dựng nên theo hình tượng Đức Chúa Trời, nên chắc ảnh tượng ấy cũng được chiếu ra cách mờ mờ; (2) Muôn vật, vì nó cũng bày tỏ bản tánh của Đức Chúa Trời, tiêu biểu các sự thuộc tánh oai nghiêm, vinh hiển của Ngài; (3) Kinh Thánh, vì bộ ấy khải thị bản tánh Đức Chúa Trời rõ hơn hết, không có chỗ nào sai lầm. Vậy, chẳng chi hay hơn là lấy Kinh Thánh làm chứng cớ của sự khảo cứu ta đây.Chương thứ năm nầy luận về tám sự thuộc tánh của Đức Chúa Trời, tức là: (1) Đức Chúa Trời là Đấng thuộc linh; (2) Đức Chúa Trời tự hữu hằng hữu; (3) Đức Chúa Trời vô hạn vô lượng; (4) Đức Chúa Trời vô sở bất năng; (5) Đức Chúa Trời vô sở bất tại; (6) Đức Chúa Trời vô sở bất tri; (7) Đức Chúa Trời vô thời biến cải; (8) Đức Chúa Trời thuần nhứt vô phân.Xin nhờ Thánh Linh soi sáng để lần lượt kê cứu qua các sự thuộc tánh ấy.I. ĐỨC CHÚA TRỜI LÀ ĐẤNG THUỘC LINH1. ĐỊNH NGHĨANói rằng Đức Chúa Trời là Đấng thuộc linh thì có nghĩa gì? Xin đáp:a/ Đức Chúa Trời là Thần Linh.(1) Không có Hình thể vật chất.– Xưng Đức Chúa Trời là Thần Linh, ấy có nghĩa là gọi Ngài không có xác thịt,không bằng vật chất, bèn là một Đấng thuộc linh, vô hình vô tượng, mắt không thể thấy được, tay không thể rờ được, lời phàm không thể tả ra được. Kinh Thánh cũng minh chứng cho lẽ thật ấy mà rằng: Xem Gi 4:24; Lu 24:39; Co 1:15;ITi-mô-tHe 1:17.(2) chẳng bị vật chất hạn chế.– Xưng Đức Chúa Trời là Thần Linh, tức là gọi Ngài không bị vật chất hạn chế.Loài người tuy có linh tánh, cũng không được tự do ngoài sự bó buộc của phạm vi vật chất. Sự động tịnh, hành chỉ của họ đều mãi bị nhốt trong sự hạn chế của vật chất. Nhưng Đức Chúa Trời chẳng phải vậy đâu. Ngài thực tại ở ngoài phạm vi vật chất, vượt cao hơn muôn vật, có trước muôn vật, dựng nên muôn vật, bắt phục muôn vật khiến làm con đòi Ngài để bày tỏ sự vinh hiển của Ngài. Nếu sự thực hữu Đức Chúa Trời can thiệp đến vật chất, thì Ngài không thể thực hữu trước lúc chưa có vật chất. Nhưng Kinh Thánh dạy rằng Đức Chúa Trời đã thực hữu trước khi chưa có vật chất nào cả. Thành thử sự thực hữu Ngài ở về cõi thuộc linh, không nương tựa vào vật chất, cũng không bị vật chất hạn chế. Sa 1:1; Gi 1:1; Eph 3:9; Kh 1:8.b/ Đức Chúa Trời là Đấng sống.– Đức Chúa Trời chẳng phải là lý trí không hay không biết, bèn là Thần Linh hằng sống, tự tri tự chủ. Sự sống ấy vốn ở trong Ngài, không do căn nguyên nào ở ngoài chính Đức Chúa Trời mà đến, từ trước vô cùng vẫn có, và đến đời đời cũng còn có mãi. Sự sống nầy chẳng cần nhờ đồ ăn uống, hơi thở, ánh sáng mặt trời,hoặc vật gì khác bề ngoài mà tồn tại, bèn là tự hữu hằng hữu, và là cội rễ của mọi loài sống khác, hoặc thuộc về cõi siêu nhiên hay là cõi thiên nhiên cũng vậy.Gie 10:10; ITe 1:9; Gi 5:26; He 7:16.2. LỜI KINH THÁNH TỪNG TẢ VẼ ĐỨC CHÚA TRỜI CÓ HÌNH THỂ NHƯ NGƯỜI TAa/ Lời tả vẽ Đức Chúa Trời có tứ chi ngũ giác. – Có kẻ luận rằng, Đức Chúa Trời đã là Thần Linh, sao mà Kinh Thánh thường tả ra Đức Chúa Trời có tứ chi ngũ giác, như là mắt để ngó, tai để nghe, mũi để ngửi, tay và chơn để sờ mó? Giả như trong Thi 34:15 chép: “Mắt Giê-hô-va đoái xem người công nghĩa,lỗ tai Ngài nghe tiếng kêu cầu của họ”. Trong Phu 33:37 nói về “cánh tay đời đời của Ngài.” Lu 1:51 chép “Ngài đã lấy cánh tay mình thi hành quyền năng”. Trong tiên tri Es 66:1 Đức Chúa Trời phán “Trời là ngai ta, đất là bệ chơn ta”. Còn Đa-vít hay “nương náu mình dưới bóng cánh của Chúa”(Thi 57:1). Nếu Đức Chúa Trời không có hình thể vật chất, thì các câu ấy và nhiều câu khác giống như thế, có nghĩa gì?Đáp: Những câu ấy chẳng có ý dạy rằng Đức Chúa Trời có hình thể vật chất đâu, duy là những ngụ ngôn Đức Chúa Trời dùng để dạy cho người trần giới những quan niệm về linh giới. Khi Đức Chúa Trời dạy loài người về việc vận động của Ngài, thì cần phải dùng lời nói thích hiệp trình độ của họ, mới mong họ hiểu được.b/ Lời tả Đức Chúa Trời hiện ra như một người. – Kinh Thánh cũng thuật lại nhiều phen Đức Chúa Trời hiện ra với các thánh đồ đời xưa, đồng đi, đồng ăn uống,đàm đạo với họ (Sa 16:7, Sa 16:10, Sa 16:13; Sa 32:12; Sa 18:1-16; Xu 13:21; Xu 14:19). Chánh nghĩa của những truyện tích ấy là thể nào? Kê cứu cả Cựu Ước cho kỹ, thì thấy Đức Chúa Trời từng hồi từng lúc mượn hình dung của loài người mà hiện đến với họ. Các sự hiển hiện ấy thần đạo gọi là Hiển Thần (Théophonie).Môi-se và các quan trưởng của dân Y-sơ-ra-ên khi ở trên núi Si-nai cũng đều chỉ được thấy Đức Chúa Trời hiển hiện bằng hình thể vật chất, là sự hiển hiện họ có thể xem được và hiểu nỗi (Xu 24:9,10); họ chẳng hề được thấy thần thể yếu (essence divine) đâu. Vì Giăng chứng rằng: “Chẳng hề ai thấy Đức Chúa Trời bao giờ; duy Con độc sanh ở trong lòng Cha, là Đấng đã giãi bày Cha.” (Gi 1:18).Đương khi tín đồ còn ở trong xác thịt, thì chẳng thấy thần thể yếu của Đức Chúa Trời được; duy đến khi qua đời, hưởng được linh thể mới mong được thấy rõ mọi sự thuộc linh giới vậy.3. ĐỨC CHÚA TRỜI VÀ HÌNH TƯỢNGLẽ đạo về Đức Chúa Trời là Thần Linh,nghiêm huấn một điều rất quan hệ về vấn đề hình tượng. Ấy là, sự chế tạo những hình tượng để bày tỏ ra Đức Chúa Trời rất vô lý và nguy hiểm: vô lý, vì nếu chẳng hề ai thấy được Đức Chúa Trời, thì chế tạo hình tượng Ngài làm sao cho đúng được?Lại rất nguy hiểm, vì sự bày tỏ ra Đức Chúa Trời bằng hình tượng vật chất khiến cho Ngài trở nên rất hèn mạt, giống như các thần tượng của dân ngoại bang; cũng làm cho quan niệm Đức Chúa Trời trong tâm trí người thờ phượng ra đê tiện,không chút gì xứng hiệp với bản thể yếu oai nghi vinh hiển tối thượng của Ngài đó.Vả lại, điều răn thứ hai nghiêm cấm tạo ra những hình tượng để thờ lạy (Xu 20:4,5). Cảm tạ Đức Chúa Trời! Tuy chúng ta không thể tạo ra tượng Đức Chúa Trời bằng vật chất, thì có thể được ghi tạc hình ảnh Ngài ở trong lòng ta bởi quyền năng của Thánh Linh, và hễ ai nhận Christ làm Chúa độc nhứt sẽ được nhờ Thánh Linh khiến cho tâm trí trở nên giống như Ngài (Ro 8:29); Con Ngài “là sự chói lói của vinh hiển Đức Chúa Trời, chân tượng của thể yếu Ngài” (He 1:3). Xu 20:2-4; Es 44:9-11, Es 44:17, Es 44:18; Ro 1:22, Ro 1:23; Ro 8:29.II. ĐỨC CHÚA TRỜI TỰ HỮU HẰNG HỮU1. Tự hữu.– Đức Chúa Trời vốn Đấng tự nhiên mà có. Sự tự hữu Ngài từ trong chính mình Ngài mà có, chẳng hề can thiệp đến ngoại vật nào cả. Xét về mọi vị thực hữu,thì thấy cần phải từ căn nguyên bề trong hay bề ngoài mà ra. Loài người từ căn nguyên ở ngoài mình mà có. Còn Đức Chúa Trời thì có từ trong chính mình Ngài.Nhưng chẳng có lúc nào gọi là lúc Ngài phải bắt đầu có từ trong căn nguyên ấy.Vì Ngài vốn vĩnh viễn tự hữu vậy. Danh Đức Giê-hô-va ám chứng về lẽ thật nầy (Xu 6:3), và chính Đức Chúa Trời tự chứng rằng: “Ta là Đấng tự hữu” (Xu 3:14).2. Hằng hữu.– Đức Chúa Trời cũng hằng hữu, thể yếu của bản tánh Ngài vô thỉ vô chung, nên sự thực hữu Ngài chẳng bị thời gian hạn chế. Tâm trí ta không thể hiểu nỗi quan niệm đời đời, vì bị thời gian bó buộc. Tuy cõi đời đời không có kỳ quá khứ, hiện tại,hay tương lai, thì chúng ta cũng chỉ có thể suy tưởng quan niệm ấy ra theo ý ba kỳ ấy. Cho nên ta tính lui cho đến trước vô cùng, lại tính tới cho đến mãi về sau, thì số tổng cộng ấy ta gọi là đời đời vậy. Cũng một thể ấy, khi ta suy tưởng về Đức Chúa Trời là Đấng hằng hữu, thì cũng tính như vậy, kể Ngài thực hữu từ trước vô cùng, lại sẽ hằng còn đến đời đời, tức vô thỉ vô chung vậy. Nhưng nói cho đúng, thì sự hằng hữu của Đức Chúa Trời ở ngoài thời gian, chẳng có trước sau, mới cũ, bèn là thuộc về một cõi gọi là hiện tại luôn luôn. Có một cậu học trò câm điếc tả ra sự hằng hữu của Đức Chúa Trời như vầy: “Sự hằng hữu của Đức Chúa Trời là thời lâu không ban dầu không cuối cùng; là sự thực hữu vô hạn vô biên; là sự hiện tại không trước không sau; là sự thanh xuân không buổi thơ ấu,không lúc già nua; là sự sống không có kỳ sanh không có ngày chết; là ngày nay không có hôm qua, cũng không có ngày mai.” Kinh Thánh chứng thực cho sự hằng hữu của Đức Chúa Trời mà rằng: Xem Thi 90:2; Phu 32:39, Phu 32:40; Es 41:4; Thi 102:24-27; ITi 1:17; IIPhi 3:8; Kh 1:8Xét những câu ấy và nhiều câu khác, thì biết Kinh Thánh dạy rằng Đức Chúa Trời hằng hữu. Vả lại, nếu Đức Chúa Trời thực hữu không do ai sanh Ngài ra, cũng chẳng có ai diệt Ngài được, thì rõ Ngài tự hữu hằng hữu. Trước vô cùng nguyên lai Ngài thể nào, nay Ngài vẫn thể ấy. Trời đất có khi cùng, muôn vật có lúc hết, nhưng Đức Chúa Trời hằng y nguyên, chẳng biến cải, chẳng tăng thọ, chẳng suy nhược, bèn hằng sống từ đời đời cho đến đời đời vô cùng vô tận vậy.III. ĐỨC CHÚA TRỜI VÔ HẠN VÔ LƯỢNGĐối với thời gian Đức Chúa Trời gọi là hằng hữu; đối với không gian Đức Chúa Trời gọi là vô hạn vô lượng. Đức Chúa Trời chẳng phải phục công lệ của không gian; vì sự thực hữu Ngài vẫn ở ngoài không gian. Chính Ngài hạn chế không gian nhưng không gian chẳng hạn chế Ngài được.Khoảng không gian, do Đức Chúa Trời mà có, để làm con đòi thi hành công việc Ngài. Nhưng không gian chẳng giúp đỡ, chẳng ngăn trở sự thực hữu của Ngài, cũng chẳng bao hàm Ngài; song Đức Chúa Trời bao hàm không gian luôn cả muôn vật hữu hình và vô hình, vì Ngài là Đấng vô hạn vô lượng vậy. Kinh Thánh chứng rằng:Xem IVua 8:27; Ro 8:38,39IV. ĐỨC CHÚA TRỜI VÔ SỞ BẤT NĂNG1. ĐỊNH NGHĨABốn chữ vô sở bất năng, nghĩa đen là chẳng có việc gì không làm được. Cho nên xưng Đức Chúa Trời là vô sở bất năng, tức là dạy rằng quyền năng của Đức Chúa Trời đầy đủ, không chừng mực, việc gì Ngài cũng làm được, chẳng cần ai giúp đỡ, cũng không ai có thể ngăn trở, hễ Ngài muốn làm gì thì làm dễ như trở tay, vì Ngài là Đấng toàn quyền toàn năng có một không hai vậy.2. CHỨNG CỚCó nhiều bằng cớ chứng thực cho sự vô sở bất năng của Đức Chúa Trời. Xin kể lại hai loại:a/ Muôn vật thọ tạo làm chứng.– Kìa, vũ trụ rộng lớn, muôn vật gấm thêu đều là do ý chỉ khôn khéo và quyền năng vô hạn của Đức Chúa Trời mà ra. Địa cầu nầy to lớn dường nào, dương hải minh mông biết bao! Dầu vậy , sánh với mặt trời thì nó vẫn còn nhỏ quá; bởi vì quang cầu ấy lớn hơn quả đất gấp 1.300.000 lần và cách xa nó chừng 144.000.000 cây số. Ta coi thái dương thống hệ đã là lớn lao rồi, nhưng các nhà thiên văn còn dạy rằng ở trong không gian của vũ trụ còn có vô số thế giới khác, lớn hơn thái dương thế giới muôn phần. Có những tinh tú rất xa quả đất, đến đỗi ánh sáng từ nó chiếu ra, tuy chạy mỗi giây (second) 300 ngàn cây số, thì cũng phải chạy 8 triệu năm mới tới đây cho ta thấy được! Lại đường xích đạo của các vì sáng ấy rộng lớn quá, đến đỗi nó chạy mấy triệu năm mới giáp vòng được. Còn xét về sự bài bố phối hiệp của muôn vật ấy, khiến cho ta kinh ngạc khôn xiết, vì quyền tạo hóa của Đức Chúa Trời hẳn thật lớn lao vô cùng! Ngài quả là vô sở bất năng!b/ Kinh Thánh làm chứng.– Kê cứu Kinh Thánh, thì thấy lắm đoạn sách đều minh chứng cho sự vô sở bất năng của Đức Chúa Trời sau đây:(1) Ngài là Đức Chúa Trời toàn năng: Sa 17:1(2) Ngài thi hành việc cả thể trong cõi thiên nhiên: Sa 1:1-3; Es 44:24;He 1:3.(3) Ngài thi hành dấu lạ trong cõi thuộc linh: IICo 4:6; Eph 1:19, Eph 1:20; Eph 3:20.(4) Ngài có năng lực để dựng nên vật mới:Mat 3:9; Ro 4:17; Kh 21:5.(5) Ngài làm mọi sự tùy ý định Ngài:Thi 115:3; Da 4:35; Eph 1:11.(6) Chẳng có điều nào gọi là bất năng cho Ngài cả: Sa 18:14; Mat 19:26.(7) Tin Lành hay cứu rỗi cũng tỏ ra quyền năng của Đức Chúa Trời: Ro 1:16.3. SỰ BÀY TỎ QUYỀN NĂNG CỦA ĐỨC CHÚA TRỜIĐức Chúa Trời dùng nhiều cách tỏ ra quyền năng của Ngài. Nhưng nói đại khái, Ngài dùng hai cách để bày tỏ quyền ấy, tức là:a/ Nguyên lực.– Nguyên lực tức là Đức Chúa Trời tự thi hành ngay vô luận một việc gì, chẳng nhờ cậy cái gì hết; như Ngài tạo thành muôn vật, cảm hóa lòng loài người, làm các phép lạ dấu kỳ, v…v. Các việc ấy Đức Chúa Trời làm cách trực tiếp không nhờ định lệ hay là cái gì tiên hữu mà làm nên vậy. Sa 1:1; Gi 3:8; Thi 33:9; Ro 4:17.b/ Tá lực.– Tá lực là Đức Chúa Trời bày tỏ quyền năng của Ngài trong định lý và công lệ của muôn vật. Rồi muôn vật mãi cứ theo công lệ và định lý ấy mà hóa sanh, và nương tựa nhau mà tồn tại trong quyền bảo thủ của Đức Chúa Trời. Không những là cuộc tạo hóa minh chứng về toàn quyền toàn năng của Đức Chúa Trời thôi đâu, sự bảo tồn muôn vật đó cũng làm chứng đích xác lắm. Sa 1:28; Sa 8:22; Cong 17:26; Cong 14:17; He 1:3.4. ĐỨC CHÚA TRỜI HẠN CHẾ QUYỀN NĂNGĐức Chúa Trời thực là Đấng vô sở bất năng; song mà Ngài vận dụng quyền của Ngài có chừng mực hẳn hoi. Hỏi: Chừng mực ấy thể nào? Đáp:a/ Không trái định luật.– Đức Chúa Trời không trái bản tánh của cõi thiên nhiên, chẳng phá hủy định luật trong muôn vật. Giả như Đức Chúa Trời không thể dựng nên hai hòn núi miễn là có cái trũng ở giữa. Cũng chẳng có thể làm cho hai gạch bình hành trặp nhau, vì hai vật ấy vốn phản đối bản tánh của muôn vật.Có kẻ hỏi: “Dấu lạ há chẳng phá luật thiên nhiên sao?” Đáp: Dấu lạ hẳn chẳng phá luật thiên nhiên đâu; các dấu lạ thuộc về cõi siêu nhiên, tri thức ta không hiểu thấy đầu đuôi của nó. Huống hựu,ta cũng chưa hiểu hết sự huyền diệu của luật thiên nhiên nữa, thì làm sao có thể đoán định rằng dấu lạ trái luật ấy?b/ Không trái bản tánh của Ngài. – Đức Chúa Trời rất thánh khiết, rất công bình, rất nhơn từ, rất thương yêu, Ngài chẳng có thể nào làm gì phản đối với các đức tánh ấy. Ngài không thể nói dối, phạm tội hay là chết, vì các điều ấy trái hẳn bản tánh của Ngài. Cái gì tương hiệp với bản tánh và đức phẩm Ngài thì Ngài làm cả; còn sự gì phản đối thì chẳng những Ngài không làm, mà lại còn dùng quyền năng vô hạn Ngài để hạn chế và ngăn trở nữa thì có. Ấy thật là công tác lớn hơn hết của Ngài vậy.Vả, có kẻ hỏi: “Nếu Đức Chúa Trời là Đấng vô sở bất năng, tại sao không tiêu diệt tội lỗi đi?” Đáp: Đức Chúa Trời có quyền năng tiêu diệt tội lỗi đi, trong lai thế cũng chắc sẽ tiêu diệt hẳn; nhưng hiện nay Ngài không làm, vì Ngài đã dựng nên loài người có tự nhiệm tự do. Nếu Ngài tiêu diệt tội đi, thì cũng phải tiêu diệt luôn bản tánh tự do của loài người nữa;song điều ấy cũng trái hẳn với bản tánh của Ngài. Cho nên Đức Chúa Trời tự hạn chế quyền năng của Ngài mà không tiêu diệt tội lỗi liền, duy lợi dụng cơ hội cám dỗ của tội mà thí nghiệm loài người. Việc ấy xong, Ngài mới tuyệt diệt tội lỗi vậy.V. ĐỨC CHÚA TRỜI VÔ SỞ BẤT TẠI1. ĐỊNH NGHĨAĐức Chúa Trời cũng vô sở bất tại. Ý nghĩa quan niệm ấy là trong vũ trụ nầy chẳng chỗ nào mà không có Đức Chúa Trời.Cả thể yếu toàn vẹn của Ngài vẫn hằng đầy dẫy mọi nơi mọi việc.2. KINH THÁNH LÀM CHỨNGKinh Thánh làm chứng rất rõ ràng rằng Đức Chúa Trời vô sở bất tại.a/ Đầy dẫy cả vụ trụ: IISu 2:6; Gie 23:23,24; Cong 17:27,28b/ Ở trong tín đồ: Gi 14:23; Eph 4:6.c/ Nghe mọi lời cầu nguyện của mọi người bất luận ở chỗ nào: Mat 18:19,20.Sở dĩ tùy thời tùy chỗ mà Đức Chúa Trời nghe được cả mọi người cầu nguyện, là bởi vì Ngài vô sở bất tại vậy.3. BA Ý KIẾN SAI LẦMTrong tư tưởng giới có ba ý kiến sai lầm về Đức Chúa Trời vô sở bất tại. Xin lược luận qua sau đây:a/ Nhờ quyền năng mà vô sở bất tại. –Có kẻ luận rằng, Đức Chúa Trời nhờ quyền năng Ngài thi hành khắp mọi nơi mà tỏ ra là vô sở bất tại. Xin đáp: Đức Chúa Trời chẳng những là thi hành quyền năng của Ngài khắp mọi nơi trong vũ trụ, mà lại chính thể yếu của Ngài vẫn ngự đầy dẫy mọi nơi nữa. Vẫn biết Kinh Thánh dạy rằng Đức Chúa Trời “ngự trên các từng trời”(Thi 123:1; Thi 113:5; Es 57:15); nhưng ý nghĩa câu ấy là tả sự cao xa của Ngài đối với trái đất, và dạy rằng Ngài tỏ mình Ngài ra với các vị linh ở trên trời trọn vẹn hơn hết. Phao-lô cũng minh giải về Đức Chúa Trời vô sở bất tại rằng: Ro 10:6-8.Giả như linh hồn ở trong khắp thân thể ta, đến đỗi không chi thể nào mà không có cả linh hồn thể nào, thì Đức Chúa Trời ở khắp vũ trụ, chẳng một chỗ nào không có cả thể yếu của Ngài cũng thể ấy.b/ Đức Chúa Trời ở chỗ nầy bằng một phần thể yếu nầy, ở chỗ kia một phần khác. – Có kẻ khác luận rằng, Đức Chúa Trời ở chỗ nầy bằng một phần thể yếu nầy, ở chỗ kia bằng một phần khác.Nhưng mà ý ấy rất sai, vì thể yếu Đức Chúa Trời chẳng bằng vật chất, không thể phân rẽ ra nhiều đoạn được. Nên cũng chẳng có thể lấy phần nầy để ở chỗ nầy, phần kia để ở chỗ khác. Sở dĩ Đức Chúa Trời gọi bằng vô sở bất tại, là vì Ngài đem cả thể yếu toàn vẹn của Ngài mà cùng một lượt ngự ở trong mọi nơi mọi chỗ. Cũng tại thực sự ấy Christ là Logos (Đạo) của Đức Chúa Trời có thể đem cả thể yếu Ngài mà cùng một lượt ngự vào Người Jêsus, luôn khắp vũ trụ để thống trị bảo tồn muôn vật. Cũng tại lẽ thật mầu nhiệm ấy mà Ngài có thể cùng một lượt ngự luôn trong lòng tín đồ rải khắp thế gian, ban cho mỗi cá nhân trong họ đều được đầy dẫy cả thể yếu của Ngài vậy.c/ Đức Chúa Trời sở dĩ vô sở bất tại là vì Ngài vốn một Thần Linh. – Kẻ khác lại luận rằng sự vô sở bất tại của Đức Chúa Trời tại vì Ngài vốn một Thần Linh. Chỉ các vị có thể chất không được vô sở bất tại; chúng ở nhứt định hoặc chỗ nầy hay chỗ kia, không hề có thể cùng một lượt ở khắp nơi được, bởi vì bị thể chất hạn chế. Còn Đức Chúa Trời thì khác, Ngài là Đấng Thần Linh, nên mới có thể cùng một lượt ở khắp chỗ được.Nhưng luận như vậy rất sai lầm. Vì nếu ấy là chơn lý, thì các linh hồn của kẻ qua đời, thiên sứ và ma quỷ cũng đều là vô sở bất tại, vì thảy đều là linh thể cả. Song Đức Chúa Trời chẳng vô sở bất tại vì Ngài có Linh thể đâu, bèn là một Đấng Thần Linh vô hạn vô lượng, cao quá trên muôn vật, suốt thông trong muôn vật, phẩm cách, trí ngộ, quyền năng và ý chỉ Ngài đều đầy dẫy cả vũ trụ. Duy một mình Ngài là vô sở bất tại, nên mới có thể cai trị muôn vật, ngự trong lòng các tín đồ Ngài, dạy dỗ, an ủi, dẫn dắt họ.Duy Ngài là vô sở bất tại, nên mới có thể khiến cho đứa ác rùng mình rởn óc,không dám toan mưu độc ác mà buông câu: “Ở đây không có Đức Chúa Trời, ta làm chi thì làm, không cần sợ ai.” Duy Ngài là vô sở bất tại, nên mới có thể giúp ích cho kẻ làm lành, nghe lời cầu nguyện của con cái Ngài, giáng lâm ở giữa họ,bất cứ họ nhóm ở chỗ nào trong thiên hạ. Cũng vì Ngài là vô sở bất tại, nên mới có thể nghe tiếng than khóc não nùng dưới đời mờ tối nầy mà cứu vớt kẻ hư mất,dắt đưa kẻ lạc đường, chữa kẻ đau yếu, an ủi kẻ buồn rầu, ban muôn ngàn ơn phước cho kẻ cậy nhờ danh thánh của Ngài vậy.VI. ĐỨC CHÚA TRỜI VÔ SỞ BẤT TRI1. ĐỊNH NGHĨAĐức Chúa Trời vô sở bất tri là nghĩa gì? Nói đại khái, thì từ liệu ấy nghĩa là Đức Chúa Trời thông biết mọi sự, hiểu thấu mọi việc, đến đỗi chẳng có điều gì hoặc thuộc trong cõi vô hình hay cõi hữu hình,hoặc thuộc về thời quá khứ hiện tại, hay tương lai mà Ngài không biết rõ ràng,trọn vẹn.2. LÝ DO VỀ ĐẠO ĐỨC CHÚA TRỜI VÔ SỞ BẤT TRITại sao gọi Đức Chúa Trời là Đấng vô sở bất tri?Đáp:a/ Vì Ngài là căn nguyên mọi sự. –Đức Chúa Trời là vô sở bất tri, vì Ngài là căn nguyên của mọi sự. Muôn vật muôn sự trong vũ trụ đều do Đức Chúa Trời mà ra, được dựng nên bởi Ngài, cũng tồn tại bởi quyền năng Ngài. Vậy nên ai dám nói rằng có điều gì trong đó mà Ngài không thông biết ư?b/ Vì Ngài trọn vẹn vô cùng. –Đức Chúa Trời vô sở bất tri, vì Ngài vốn là Đấng trọn vẹn vô cùng. Nếu gọi Đức Chúa Trời còn có chỗ không biết, có điều không hiểu, thì chắc Ngài không phải Chúa toàn vẹn vô cùng đâu.c/ Vì Kinh Thánh khải thị Ngài là vô sở bất tri. – Kinh Thánh cũng khải thị Đức Chúa Trời ra là Đấng vô sở bất tri: Ro 11:33; He 4:13.d/ Vì Ngài là Đấng phán xét. –Đức Chúa Trời là Đấng phán xét, đến đỗi phán xét sự kín giấu ở trong lòng của người ta, chiếu theo lẽ công bình và công việc làm của mọi người mà thưởng phạt cho. Vậy, nếu Đức Chúa Trời không vô sở bất tri, làm sao thi hành cuộc phán xét được?e/ Vì Ngài vô sở bất tại. –Đức Chúa Trời là Đấng vô sở bất tại, nên cố nhiên cũng là Đấng vô sở bất tri.Vì chẳng chỗ nào không có Ngài, nên cũng chẳng sự gì Ngài không biết vậy. Phỏng khiến Ngài không phải là vô sở bất tại, mới chắc có sự Ngài không rõ vậy.3. CĂN NGUYÊN CỦA SỰ HIỂU BIẾT CỦA ĐỨC CHÚA TRỜIĐức Chúa Trời bởi đâu mà biết mọi sự? Xin đáp:a/ Sự hiểu biết của Đức Chúa Trời là bản tri. – Sự biết của loài người do sự từng trải mà ra; mọi sự nên công cũng chỉ bởi sự thí nghiệm đưa đến. Nhưng sự biết của Đức Chúa Trời là gốc bởi lương tri của Ngài, không học mà biết, chẳng thí nghiệm mà nên.b/ Tự nhiên mà biết. –Sự biết của Đức Chúa Trời do sự tự nhiên mà biết. Ngài không cần viện lý mà suy, không cần lấy vật làm chứng, cũng không cần kê cứu, so sánh, suy nghĩ, bởi vì Ngài biết trước mọi sự mọi vật, chẳng cần nhờ ai dạy Ngài điều gì cả.c/ Thời gian hoặc không gian chẳng ngăn trở sự biết của Đức Chúa Trời. – Sự biết của Đức Chúa Trời chẳng bị hoặc thời gian, hoặc không gian ngăn trở gì cả. Ngài vốn vô sở bất tri từ lúc vô thỉ cho đến vô chung. Những sự cổ vãng kim lai đều bày ra ở trước mặt Ngài rõ rệt như chánh ngọ, chẳng sự gì giấu kín, chẳng vật gì lẩn khuất. Khoảng không gian cũng không hạn chế sự biết của Ngài được, vì phàm sự gì ở trong vũ trụ Ngài đều thông biết và hiểu thấu cả.4. NHỮNG ĐIỀU ĐỨC CHÚA TRỜI BIẾTTheo sự dạy dỗ của Kinh Thánh, thì Đức Chúa Trời biết những điều kể ra sau đây:a/ Ngài biết chính mình Ngài. Cũng chẳng chi lớn hơn sự biết ấy: Xu 3:14; Es 46:9; Kh 22:13.b/ Ngài biết mọi vật vô sanh cơ: Thi 147:4.c/ Ngài biết mọi vật hữu sanh cơ: Thi 50:11,12; Mat 10:29.d/ Ngài biết công việc và đường lối của loài người: Thi 33:13-15; Ch 5:21.e/ Ngài biết trong lòng và ý tưởng của loài người: Cong 15:8; Thi 139:2f/ Ngài biết sự thiếu thốn của ta: Mat 6:8.g/ Ngài biết những sự vật nhỏ mọn: Mat 10:30.h/ Ngài biết việc quá khứ: Ma 3:16.i/ Ngài biết việc tương lai: Es 46:9,10j/ Ngài biết việc loài người sẽ tự chủ mà làm: Es 44:28k/ Ngài biết việc ác mà người ta sẽ làm: Cong 2:23l/ Ngài biết mọi việc có thể do việc khác mà xảy ra: ISa 23:12; Mat 11:21m/ Ngài biết mọi sự từ trước vô cùng: Cong 15:185. NGƯỜI TA KHÔNG DÒ LƯỜNG SỰ BIẾT CỦA ĐỨC CHÚA TRỜILoài người chỉ biết những sự ở trước mặt, những sự đã qua. Họ chỉ nhờ những sự người ta thuật lại hoặc biên lại mà biết được.Có khi vì sự thuật lại không rõ, sự chép lại sai mất nguyên bản, đến đỗi loài người cũng không chắc biết rõ việc quá khứ nữa. Đã vậy, sao biết được cuộc tương lai? Nhưng Đức Chúa Trời chẳng vậy đâu, vô luận là sự dĩ vãng hoặc tương lai đều bày ra trước mặt Ngài rõ ràng cả. Thi 139:6; Ro 11:336. SỰ VÔ SỞ BẤT TRI QUAN HỆ VỚI NGƯỜI TAĐức Chúa Trời vô sở bất tri há có quan hệ với người ta chăng? Đáp: Có quan hệ lắm.a/ Quan hệ với kẻ ác. –Đứa tiểu nhân kia ở dưng làm điều chẳng lành; họ tự giấu điều dữ trong cái vỏ để lừa dối thiên hạ. Nhưng Đức Chúa Trời là Đấng vô sở bất tri, con mắt Ngài sáng như chớp, biết cả mọi sự. Dầu có tài cao bay xa chạy đến đâu, cũng không sao tránh khỏi tầm tuệ nhãn của Ngài được; đúng như câu chạy trời đâu khỏi nắng.Nên có những trước giả Kinh Thánh chứng rằng: Thi 139:12; Ch 15:11; He 4:13;b/ Quan hệ với người lành. –Lẽ đạo nầy khiến cho người lành vui vẻ, vì nhờ đó họ biết Đức Chúa Trời có thể thương xót sự yếu đuối của họ, nghe tiếng than thở của họ, đến đỗi cũng động lòng tự ái mà giúp đỡ họ trong cảnh khốn khổ nữa. Thi 103:13; Sa 16:13; Xu 3:7;Phu 2:7.VII. ĐỨC CHÚA TRỜI VÔ THỜI BIẾN CẢI1. ĐỊNH NGHĨAĐức Chúa Trời vô thời biến cải, nghĩa là gì?Đáp: Đức Chúa Trời vốn một Đấng từ trước vô cùng cho đến đời đời về sau vẫn y nguyên. Nào đức tánh, nào bản năng, nào thể yếu, nào ý chỉ Ngài, thảy đều chẳng thay đổi chút nào. Về lý sự cũng dạy rằng nếu Đức Chúa Trời thay đổi thì thật phi lý; gọi vị cách Ngài gia thêm hay giảm bớt, tấn bộ hay thụt lui, tiến hóa hay thối hóa, thật đều là bất năng cả. Theo lẽ thường hễ chỗ nào có sự thay đổi,thì kết cuộc hoặc tốt hơn hay là xấu hơn. Đức Chúa Trời vốn Đấng toàn vẹn vô cùng, nên cũng chẳng có thể nào còn phải lần tới chỗ toàn vẹn hơn; bằng thối hóa, tất nhiên không còn là Đấng toàn vẹn nữa. Phàm người đời sở dĩ có thay đổi,là vì họ hoặc từ lành ra dữ, hoặc từ dữ ra lành. Nhưng Đức Chúa Trời chẳng vậy đâu, vì sự lành Ngài vốn tột bực, không còn có thể trở nên lành hơn nữa. Ngài đã là Đấng chí thiện, nên chẳng có thể thay đổi điều nào ra khác phản đối với đức tánh ấy. Kinh Thánh minh chứng cho lẽ thật nầy như các câu kể ra sau đây. Thi 102:27; Ma 3:6; Gia 1:172. CHỖ DỊ NGHỊa/ Về sự thay đổi lời phán. – Vả,trong Kinh Thánh cũng có mấy câu hình như dạy rằng Đức Chúa Trời có thể thay đổi.Tiên tri Giô-na có chép: xem Gion 3:10.Có kẻ đọc qua truyện tích người Ni-ni-ve thì hỏi rằng: “Đức Chúa Trời đối với lời răn bảo thành Ni-ni-ve há chẳng đổi ý sao?” Đáp: Về phần bản tánh và ý định giáng hình phạt cho tội lỗi thì Đức Chúa Trời chẳng đổi ý chút nào. Ngài vẫn hết sức ghét tội, không thể dung nhượng nó được. Nói cho đúng thì sự thay đổi đây vốn ở nơi người Ni-ni-ve, chẳng phải ở nơi Đức Chúa Trời đâu. Họ đổi thái độ đối với tội lỗi và hết lòng ăn năn; nên Đức Chúa Trời cũng thay đổi thái độ Ngài đối với họ, không giáng hình phạt trên họ như Ngài đã phán. Đức Chúa Trời vẫn y nguyên mãi, bản tâm Ngài đối với tội, ý chỉ Ngài đối với sự công nghĩa bao giờ cũng y nguyên. Nhưng nếu người ta thay đổi thái độ mình đối với tội mà chịu ăn năn, thì Đức Chúa Trời cũng đổi phương cách đãi họ, không còn phạt họ vì cớ tội của họ nữa. Giả như ta lấy một viên sáp phơi ra nơi ánh sáng mặt trời, thì chẳng bao lâu viên sáp ấy tan đi. Nhưng nếu lấy một cục đất bùn phơi ra cũng tại chỗ ấy, chẳng bao lâu thì thấy nó khô và cứng lại. Ấy chẳng qua là tại tánh chất viên sáp và cục đất bùn kia thay đổi, chớ chẳng phải ánh sáng mặt trời có thay đổi đâu.Lại ví như đứa trẻ kia hay ngỗ nghịch bất phục,đến đỗi cha mẹ phải trừng phạt nó. Khi sắp trách phạt, nếu đứa ấy nghìn muôn vạn lạy, xin cha tha lỗi cho, hứa từ rày về sau con chẳng dám ngỗ nghịch nữa, thì chắc cha tha liền, không trừng phạt theo lời ngăm đe nữa. Ấy chẳng phải cha thay đổi thái độ về sự ngỗ nghịch bất phục của con đâu, chỉn vì con thay đổi,chịu ăn năn, bỏ nết xấu ấy đó thôi, rồi nhân dịp ấy cha cũng có thể đổi phương cách đãi con mà tha tội cho vậy. Đức Chúa Trời cũng vậy, thái độ của bản tánh Ngài đối với tội lỗi chẳng hề thay đổi, bao giờ cũng rất ghen ghét, buộc phải đoán phạt nó mới yên tâm. Nhưng nếu loài người đổi bỏ hẳn lòng yêu tội ra lòng ghét tội, thì Đức Chúa Trời cũng thay đổi phương cách đãi họ, không còn trừng phạt, nhưng thương xót tha thứ cho vậy.b/ Về sự thay đổi phương cách. –Vả lại, kê cứu các thời đại, thấy hình như Đức Chúa Trời lắm phen thay đổi phương cách thi hành ý chỉ của Ngài. Song sự thay đổi ấy chẳng ở nơi bản tánh hay ý chỉ của Ngài, bèn là ở tại chính công việc Ngài đã tiền định từ trước vô cùng mà nên vậy. Giả như Đức Chúa Trời trước lập đạo Môi-se, biểu dân Y-sơ-ra-ên phải tin theo, mới mong được ơn phước cứu rỗi. Rồi sau Ngài lại bỏ đạo Môi-se, mà lập đạo Christ bảo ai nấy phải tin theo, mới mong được cứu. Ấy há chẳng phải là sự thay đổi sao? Chẳng phải đâu. Sự lập đạo Môi-se, rồi sau lại bỏ đạo ấy mà lập đạo Christ, cả hai là hai phần tử quan trọng trong việc làm trọn ý định cứu rỗi mà Ngài đã dự định từ trước vô cùng vậy. Christ chẳng giáng sanh để sửa đổi khuyết điểm trong đạo Môi-se, bèn giáng sanh để làm ứng nghiệm các tiêu biểu dự ngôn của đạo ấy, và làm trọn ý định của Đức Chúa Trời về sự cứu rỗi loài người,như đã dự cáo trong các tiêu biểu ấy.Chúng ta hay thay đổi, Đức Chúa Trời bất di bất dịch. Lẽ thật ấy an ủi lòng tín đồ lắm. Vì chẳng những thái độ Ngài đối với tội lỗi không thay đổi, mà các đức tánh của Ngài, như sự nhơn từ, sự chân thật,sự yêu thương, cũng chẳng hề thay đổi nữa; đến đỗi hễ ai làm theo ý muốn Ngài,thì được Ngài lấy các đức tốt quý báu ấy mà hậu đãi lại, ban cho người ấy được an nhiên kiên cố, khỏi phải day động đến bị hư mất vậy.VIII. ĐỨC CHÚA TRỜI THUẦN NHỨT VÔ PHÂN1. ĐỊNH NGHĨAĐức Chúa Trời thuần nhứt vô phân nghĩa là gì? Đáp: Đức Chúa Trời thuần nhứt vô phân, nghĩa là bản tánh của Ngài chẳng chia ra, cũng không thể nào chia ra được, Đức Chúa Trời đã là một Đấng Thần Linh vô hạn vô lượng, nên linh tánh và linh chất Ngài cũng rất thuần nhứt không thể chia ra được. Chỉ có một Thần toàn vẹn vô cùng có một thể yếu, một bản tánh mà thôi. Kinh Thánh minh chứng cho lẽ đạo nầy, như tỏ ra trong những câu viện dẫn sau đây: Phu 6:4; Es 44:6; Gi 17:3; ICo 8:4; ITi-mô-tHe 1:17; ITi-mô-tHe 6:15; Eph 4:5,6.2. CHỖ DỊ NGHỊCó kẻ hỏi rằng: “Đức Chúa Trời thuần nhứt vô phân, há chẳng phản đối với lẽ đạo Ba Ngôi sao? Đáp: Lẽ thật nầy chẳng phản đối với lẽ đạo Ba ngôi đâu; vì lẽ đạo ấy luận về Đức Chúa Trời có ba Ngôi hiệp nhứt,là một Chân Thần độc nhứt vô nhị. Còn bản tánh và thể yếu của ba Ngôi ấy đều là thuần nhứt vô phân. Cả ba Ngôi đều chỉ có một bản tánh toàn vẹn vô cùng, một thể yếu cũng toàn vẹn vô cùng. Thành thử, Ngôi nào trong ba Ngôi ấy cũng đều là Đức Chúa Trời hoàn toàn cả.”3. CÁC TÀ THUYẾT PHẢN ĐỐI ĐẠO ĐỨC CHÚA TRỜI THUẦN NHỨT VÔ PHÂNCác tà thuyết phản đối về Đức Chúa Trời thuần nhứt vô phân đa thần chủ nghĩa, tam thần luận, và nhị nguyên giáo. Ba thuyết ấy đều là sai cả, vì nếu Đức Chúa Trời đã là vô hạn vô lượng, thì tất nhiên trong vũ trụ không thể có hai hoặc nhiều thần khác cùng xưng là vô hạn vô lượng được.Ví thử có hai hoặc nhiều Chúa ngang nhau, có quyền đồng nhau không đấng nào lớn hơn hành quyền trên đấng nào, ắt không sao tránh khỏi cuộc tương tranh, sanh nhiều sự rối loạn vô kể trong linh giới luôn cả chất giới nữa. Nhưng mà trong vũ trụ nầy chỉ có một Chúa vô hạn vô lượng, là Đức Chúa Trời hằng sống của chúng ta; mọi sự đều theo ý chỉ khôn khéo và năng lực vô đối của Chúa ấy mà được sắp đặt sửa sang, đến đỗi muôn sự đều có công lệ nhứt định, loài người có chánh đạo độc nhứt, ai tín phục Ngài bèn được hạnh phúc cứu rỗi đời đời vậy. Chương 6: LUẬN VỀ CÁC ĐỨC CỦA ĐỨC CHÚA TRỜIChúng ta đã kêu cứu qua các sự thuộc tánh của Đức Chúa Trời, hiểu rõ hơn về các phẩm cách tối thượng của bản tánh Ngài là diệu kỳ dường nào! Nay xin kê cứu qua các mỹ đức của Ngài. Thần học thường chia các đức ấy ra làm bốn loại, là đức thánh khiết, đức công nghĩa, đức nhơn ái, và đức chân thành. Sau đây xin lần lượt kê cứu qua các đức ấy từng loại một.I. ĐỨC THÁNH KHIẾT1. ĐỊNH NGHĨAa. Là sự thuần khiết tuyệt đích. _Đức thánh khiết có nghĩa gì? Nhà thần đạo A.H. Strong định nghĩa sự thánh khiết của Đức Chúa Trời mà luận rằng: “Sự thánh khiết của Đức Chúa Trời là sự tinh sạch tự quyết của Ngài. Ngài nhờ đức ấy mà tự quyết hằng có hằng giữ lòng đạo đức tối cao tuyệt đích của Ngài.” Những câu Kinh Thánh viện dẫn sau đây minh giải rằng sự thánh khiết hoặc ở trong Đức Chúa Trời hay là ở trong người ta đều là sự trong sạch trọn vẹn, sự tinh bạch thuần nhứt, trái hẳn với mọi sự bất khiết.Xu 15:11 (cũng xem Xu 19:10-16); Es 6:3.Đây sự thánh khiết của Đức Chúa Trời tương phản với sự bất khiết của tiên tri; người cần phải nhờ than lửa đỏ nơi bàn thờ để làm cho tinh sạch, mới có thể đứng nổi trước mặt Đức Chúa Trời (Es 6:5-7).IICo 7:1; ITe 3:13; ITe 4:7; He 12:29b. Là cái tổng hiệp các đức phẩm của bản tánh Đức Chúa Trời.­_Nói cách khác, thì đức thánh khiết của Đức Chúa Trời không phải là một trong các đức của Ngài, bèn là sự tổng hiệp của cả các đức Ngài tập thành cái bản tánh oai nghiêm vinh hiển của Ngài. Cho nên ta có thể phân luận rằng:(1) Nếu lấy bản tánh của Đức Chúa Trời mà luận thì phải đoán rằng: Sự thánh khiết của Đức Chúa Trời can hệ với cả bản tánh của Ngài, đến đỗi bản tánh ấy, được hoàn thiện toàn mỹ, chẳng chút ô uế,ác tưởng hay tì vít bất khiết nào cả, bèn được tánh khiết thuần nhứt vô song vậy.(2) Nếu lấy tâm chí của Đức Chúa Trời mà luận, thì phải đoán rằng: Sự thánh khiết của Đức Chúa Trời là tâm chí Ngài ưa lành ghét dữ, đời đời chẳng hề thay đổi thái độ ấy.(3) Nếu lấy các thuộc tánh trọn vẹn của Đức Chúa Trời mà luận, thì phải đoán rằng: Sự thánh khiết của Đức Chúa Trời là sự chói lói của các đức tánh của Ngài tổng hiệp lại mà chiếu ra vậy. Giả như quang tuyến phân tích thí thấy ánh sáng được tỏ ra bằng bảy sắc, là đỏ, hồng,vàng, xanh, tím, tía, và bích (lục); bảy sắc ấy hòa hiệp lại trở nên sắc trắng,là ánh sáng mà con mắt ta thường thấy, do ở trong toàn bảy sắc kia mà được nên.Cũng một lẽ ấy, sự thánh khiết của Đức Chúa Trời do ở trong toàn các mỹ đức vô hạn vô lượng của Ngài tổng hiệp mà chiếu ra, làm cội gốc của mọi thiện hạnh mỹ đức của loài người nữa.2. QUAN NIỆM SỰ THÁNH KHIẾT CỦA ĐỨC CHÚA TRỜI LẦN LẦN PHÁT TRIỂNQuan niệm về sự thánh khiết của Đức Chúa Trời theo luật tiến hóa mà được khải thị cho loài người. Đức Chúa Trời khởi sự bày tỏ ý niệm ấy cho dân Y-sơ-ra-ên trong xứ Ai Cập và tại đồng vắng. Ban đầu ý niệm ấy chỉ can thiệp đến bề ngoài, chú trọng về sự phân rẽ những điều dơ dáy, đê hèn, uế tục của xác thịt. Lần lần về sau người ta áp dụng ý niệm thánh sạch đó cho Đức Chúa Trời, coi Ngài là tinh khiết thuần nhứt, chẳng chịu sự dơ dáy, đê hèn, uế tục gì cả, bất luận là thuộc thể hay thuộc linh cũng vậy; thậm chí người ta lần lần hiểu rằng hể ai muốn đẹp lòng Ngài, muốn đến gần để sùng bái Ngài, thì họ không những cần phải có xác thịt sạch sẽ thôi đâu, lại rất cần phải có lòng tinh sạch thánh khiết, mới mong được Ngài nhậm là xứng đáng đến gần Ngài vậy.Các lễ nghi về vật bất khiết, lễ tẩy uế,nhà trại với nơi thánh và nơi chí thánh, các con thú tinh sạch và không tinh sạch,v…v., thảy đều là những tiêu biểu Đức Chúa Trời dùng để mở mang và ấn tượng ý niệm ấy ở trong Y-sơ-ra-ên. Ban đầu họ thọ giáo rất chậm, nhưng về sau nhờ cách Đức Chúa Trời đãi họ, và nhờ sự dạy dỗ của các tiên tri, thì ý niệm ấy phát triển hẳn, rồi đến khi Christ hiện ra thì được bày tỏ rõ ràng ở trong đời sống và lời dạy dỗ của Ngài.Trong Xu 19:3-25 ta thấy vì có sự thánh khiết oai nghiêm của Đức Chúa Trời mà dân sự cần phải tắm rửa, giặt áo đặng dự bị mình cho tinh sạch, mới có thể đến gần Đức Chúa Trời. Ý niệm về sự thánh khiết vẫn còn đơn sơ, duy tiếp xúc với xác thịt mà thôi. Đến đời tiên tri Ê-sai thì khác hẳn. Hơn 30 lần chính ông ấy xưng Đức Chúa Trời là “Đấng Thánh của Y-sơ-ra-ên”; ấy cũng vì ông đã được nhận thấy sự thánh khiết ấy, hiểu thấu rằng hễ ai muốn đẹp lòng Ngài, muốn đến gần Ngài, thì chẳng còn phải chỉ cần tắm rửa giặt áo như trong đời Môise là được Ngài nhậm thôi đâu, lại cũng rất cần phải có lòng tinh sạch, mới mong đứng nổi ở trước mặt Ngài được (Es 6:1-7).Đến đời Chúa Jesus Christ, sự khải thị về sự thánh khiết của Đức Chúa Trời mới đạt đến cực điểm. Vì chính Ngài “là sự chói lói của vinh hiển Đức Chúa Trời, chân tượng của thể yếu Ngài” (He 1:3). Trải qua khoảng thời gian hơn 33 năm, Ngài dùng sự nói năng làm lụng, sự sống, sự chết,mà bày ra sự thánh khiết tuyệt đích của Đức Chúa Trời. Tôn chỉ của đạo Ngài là khiến người ta nên thánh. Mục đích cao thượng ấy là gốc bởi sự thánh khiết của Đức Chúa Trời; nên Phi-e-rơ khuyên rằng: -xem IPhi 1:15,163. CÁC BẰNG CỚ CHỨNG MINH ĐỨC CHÚA TRỜI THÁNH KHIẾTCó nhiều bằng cớ chứng minh rằng Đức Chúa Trời rất thánh khiết. Sau đây chỉ xin viện lấy ba cái dễ hiểu hơn.a) Lương tâm làm chứng:Bản năng của lương tâm loài người có tài phân biệt phải quấy, bảo phải làm lành lánh dữ. Hễ khi người ta vâng theo lời dặn bảo ấy, thì trong lòng cảm xúc vui vẻ bình an, được lương tâm khen ngợi; bằng chẳng vâng theo, thì sẽ thấy lương tâm trách móc. Vả, nếu Đấng Tạo Hóa đã dựng nên loài người có bản năng mến sự lành ghét sự dữ, ấy há chẳng chứng rằng vì chính Đấng ấy rất thánh khiết, nên cũng mến sự lành ghét sự dữ đó sao?b) Luật đạo đức làm chứng:Luật đạo đức hoặc ghi trong lòng hoặc chép vào sách, đều minh chứng cho sự thánh khiết của Đức Chúa Trời. Nào mạng lệnh, nào điều răn, nào môi giới, bất cứ gián tiếp hay trực tiếp, đều bày tỏ bản tánh thánh khiết toàn vẹn vô cùng của Đấng Chấp pháp, cốt để khiến kẻ thủ pháp lánh ác làm thiện, trở nên thánh khiết tâm linh như chính Đấng Chấp pháp là thánh khiết vậy. Luật đạo đức dạy rõ ràng rằng loài người bị loại ra cách biệt sự hiện diện của Đức Chúa Trời, chẳng phải vì sự thiếu thốn của xác thịt đâu, duy bởi sự bất khiết ở tâm linh đó thôi. Luật đạo đức chứng minh rằng hễ ai không thánh khiết chẳng thấy được Đức Chúa Trời, chẳng được cư trú nơi trời mới đất mới, bèn bị ném ra ngoài chỗ tối tăm mù mịt mà bị khốn khổ đời đời vô cùng vậy.Thi 24:3,4; Mat 5:8; Kh 22:27; Kh 22:14,15c) Kinh Thánh làm chứng:Tra xét Kinh Thánh thì thấy thông suốt cả bộ ấy đều có ý niệm thánh khiết, có rất nhiều loại sách minh luận và thích nghĩa về đức thánh khiết, của Đức Chúa Trời.Tiên tri Êsai xưng Đức Chúa Trời là “Đấng Thánh của Y-sơ-ra-ên.” hơn 30 lần.Tiên tri Giê-rê-mi, Ê-xê-chi-ên, và các tiên tri khác cũng đều gọi như vậy.Trong Tân Ước, Con Đức Chúa Trời được xưng là “Đấng Thánh” (Cong 3:14). Còn Ngôi thứ ba trong Ba Ngôi Đức Chúa Trời thường xưng là Thánh Linh vậy.(1) Thực sự về sự thánh khiết của Đức Chúa Trời: Các câu viện dẫn sau đây chứng thực rằng sự thánh khiết của Đức Chúa Trời vốn một sự thực tế.Xu 15:11; Thi 99:9; Es 6:3; Ha 1:13; Gi 17:11; IPhi 1:15,16(2) Hai phương diện của sự thánh khiết của Đức Chúa Trời: Kinh Thánh thường theo hai phương diện tiêu cực và tích cực mà tả ra sự thánh khiết của Đức Chúa Trời: Giop 34:10Ấy là Gióp theo phương diện tiêu cực mà tả ra sự thánh khiết của Đức Chúa Trời. Lấy lý tánh mà suy xét, dễ thấy một Đức Chúa Trời làm ác thật phi lý. Có lắm việc Đức Chúa Trời làm mà chúng ta không hiểu nổi; dầu vậy, ta tự nhiên biết chắc rằng Ngài chẳng hề làm việc gì ác, chẳng xét đoán trái luật, chẳng trừng phạt bất công bao giờ, bèn thi hành mọi việc theo lẽ chí công chí chánh, tức là theo luật của bản tánh cực thánh khiết của Ngài vậy. Le 11:43-45Ấy là theo phương diện tích cực mà tả ra đức thánh khiết của Đức Chúa Trời, ngầm chứng rằng ở trong Ngài tánh vốn tinh khiết thuần túy, lòng vốn trong sạch trọn vẹn, thậm chí chẳng có vết mảy may nào làm cho Ngài ra bất khiết, có thể làm mất sự thánh khiết thuần nhứt của Ngài bao giờ. IGi 1:15Sự sáng ấy là sự thánh khiết chói lói tuyệt đích của Đức Chúa Trời, hễ soi đến đâu, thì mọi sự ô uế kín đáo phải lộ ra, mọi sự tối tăm của tội lỗi bị đuổi ra, hoặc để tẩy sạch, hoặc để trừng phạt cũng có. Đối với kẻ biết ăn năn thì lấy sự thương xót tha thứ cho, khiến nên tinh khiết như chính Ngài vậy; đối với kẻ bạn nghịch thì lấy sự công nghĩa mà trừng phạt. Bất cứ là sự tha thứ, hay là sự trừng phạt, cả hai đều do đức thánh khiết tuyệt đích của Đức Chúa Trời mà ra.(3) Tiếp xúc với Đức Chúa Trời thì được thánh khiết như Ngài. Kinh Thánh cũng dạy rõ mọi vật, mọi người hễ tiếp xúc với Đức Chúa Trời đều được trở nên thánh khiết; đối với vật, thì chỉ can thiệp bề ngoài, còn đối với người thì can thiệp đến cả bề trong nữa. Cho nên lời của Ngài gọi là Kinh Thánh; đền thờ Ngài xưng là đền thánh; thành của Ngài kêu bằng thành thánh; dân Ngài cũng được xưng là dân thánh; thảy đều được gọi là thánh,vì được tiếp xúc với Đức Chúa Trời. Kia kìa, âm nhạc có định âm, luật pháp có định chỉ, định âm định chỉ của Đức Chúa Trời là đức thánh khiết của Ngài. Cho nên trong mọi sự, kẻ đến gần Đức Chúa Trời phải lấy sự “Thánh cho Giêhôva” làm tôn chỉ (Xa 14:20), phải có lòng thánh khiết (Thi 24:3,4), lương tâm tưới sạch khỏi sự xấu (He 10:22), vì chỉ những kẻ có lòng trong sạch tinh khiết mới mong được thấy Đức Chúa Trời (Mat 5:8), được ơn theo Chiên Con mãi mãi (Kh 14:4,5). Mà sự thánh khiết của tín đồ cũng chỉ do sự tiếp xúc với Đức Chúa Trời bởi sự thánh khiết của Ngài nhờ Thánh Linh áp dụng cho mà nên vậy.Xa 14:20; Thi 24:3,4; He 10:22; He 12:104. ĐỨC THÁNH KHIẾT VỐN NGUYÊN TỐ ĐẦU NHỨT CỦA VỊ CÁCH ĐỨC CHÚA TRỜI:Lấy theo phương diện vị cách Đức Chúa Trời mà luận, thì các đức của Ngài vốn bằng nhau; nhưng đối với loài người, thì đức thánh khiết của Ngài đứng đầu, làm nền tảng của các đức khác. Khi chúng ta chụp hình, phần quan hệ ta muốn người khác thấy là mặt mày, chớ không phải là chơn hoặc tay. Cũng vậy, khi Đức Chúa Trời khải thị Ngài ra, thì trước sau Ngài chú trọng về đức thánh khiết của Ngài, muốn loài người hiểu rõ chính diện chân tướng của Ngài tất là đức thánh khiết hơn là thấu rõ hoặc tay hoặc chơn của Ngài tức là sự vô sở bất năng, vô sờ bất tri, vô sở bất tại của Ngài. Những bằng cớ kể sau đây minh chứng đức thánh khiết làm nguyên tố quan hệ nhất trong các sự thuộc tánh của Đức Chúa Trời .a) Kinh Thánh làm chứng. Sứ mạng duy nhất của Kinh Thánh là sự thánh khiết của Đức Chúa Trời. Các trước giả của Kinh Thánh đều tin nhận và thường dùng đủ phương pháp để minh giải và ấn tượng cho tâm trí loài người nhận biết rằng Đức Chúa Trời thánh khiết thuần nhất.Cũng tỏ ra đức ấy ở trên trời vẫn là đề mục đầu nhứt của sự ngợi khen, là đối tượng vô song của sự thờ phượng của thiên sứ và các thánh vị ở đó.Phi-e-rơ dạy rằng ta phải thánh khiết vì Đức Chúa Trời là thánh khiết (IPhi 1:16). Trước giả thơ Hê-bơ-rơ chứng rằng nếu không nên thánh ắt không ai thấy được Đức Chúa Trời (He 12:14). Sự từng trải của Phi-e-rơ (Lu 5:8) ám chỉ rằng khi tội nhân gặp Chúa, liền cảm xúc sự thánh khiết oai nghiêm tuyệt đích của Ngài, nên kinh hãi vô cùng, kêu la xin Ngài lìa khỏi mình, vì mình tự thấy rất bất khiết ở trước mặt Ngài cảm biết dường như mình sắp bị sự oai nghiêm kinh khiếp ấy tiêu diệt đi (xem Es 6:1-7).IPhi 1:6; Lu 5:8; Es 6:3-5Vả, chẵng những Kinh Thánh hằng đề xướng sự thánh khiết của Đức Chúa Trời thôi đâu; các vị thánh trên trời cũng hằng ngay hằng đêm kêu lên:”Thánh thay, thánh thay, thánh thay là Giêhôva vạn quân!” (Es 6:3).Trước giả Thi 97:2 vẽ ra Vị cách màu nhiệm của Đức Chúa Trời thì nói rằng:” Sự công nghĩa và sự ngay thẳng làm nền của ngôi Ngài.” Còn sự công nghĩa ấy há chẳng là sự thánh khiết thực tế của Ngài ư?b) Lòng đạo đức làm chứng.Lương tâm ta hành quyền trên hết các bản năng khác, bao giờ cũng đòi sự thánh khiết ở nơi lòng ta. Các mỹ đức khác, như nhân ái, chân thành, v..v..đều khả ái cả; duy đức thánh khiết thì bắt buộc. Nếu không có mỹ đức ấy, các đức kia cũng chẳng có nữa. Vả Đức Chúa Trời theo hình tượng Ngài mà dựng nên lòng đạo đức của ta, ban cho lương tâm nhận biết đức thánh khiết là đứng đầu hàng các mỹ đức khác. Nên nhân đó ta biết đạo đức của Ngài bao giờ cũng đặt đức thánh khiết đứng đầu, hằng thi hành theo đức ấy trước các đức kia. Ngài có thể thương xót, cũng có thể tùy ý Ngài lấy làm phải mà không thương xót, nhưng Ngài tự quyết phải thánh khiết luôn, tự bắt buộc hằng noi theo đức ấy mà thi hành mọi sự. Sự trừng phạt tội thi hành do đức thánh khiết bắt buộc; sự cứu rỗi thi hành do lòng thương xót giục giã. Đức thánh khiết bao giờ cũng bắt buộc hình phạt tội; còn lòng thương xót phải phục tùng mạng lịnh của đức thánh khiết mà áp dụng sự cứu rỗi cho kẻ này, hoặc không áp dụng cho kẻ kia vậy.Ro 9:18; IIPhi 2:4c) Cách Đức Chúa Trời đối đãi với loài người làm chứng. Xem xét cách Đức Chúa Trời đối đãi với loài người, thì thấy đức thánh khiết của Đức Chúa Trời quả làm điều kiện và giới hạn cho sự thực hành các đức khác. Giã như thử xem công việc cứu chuộc của Christ,ta nhận thấy dầu lòng thương yêu của Đức Chúa Trời làm ra sự cứu chuộc ấy, thì thật là sự thánh khiết của Ngài đã bị người đời xúc phạm đòi hỏi bắt buộc Đức Chúa Trời phải làm ra sự cứu chuộc như thế. Trong cuộc hình phạt kẻ ác, dầu Đức Chúa Trời yêu thương tội nhân, nhưng Ngài cũng không có thể vì cớ ấy bỏ được sự thánh khiết mình mà miễn hình phạt họ đâu; bởi vì trong sự đối đãi với loài người,sự thánh khiết bao giờ cũng phải đứng đầu các đức khác vậy. Tình yêu thương của Đức Chúa Trời thật như biển minh mông kia. Nhưng mà bờ của biển ấy là sự thánh khiết của Ngài, sự yêu thương của Ngài chẳng bao giờ tràn qua khỏi bờ ấy được.Trong khi yêu thương loài người, Đức Chúa Trời không thể trái phạm hoặc bãi bỏ sự thánh khiết của Ngài được. Bằng làm vậy, chính Ngài đã xúc phạm đến nguyên tắc của sự thực tại Ngài, không còn đáng gọi là Đức Chúa Trời nữa.d) Sự cứu chuộc làm chứng. Từ trước vô cùng Đức Chúa Trời định dùng Christ để cứu chuộc loài người; nhờ đó sự công nghĩa và sự thương xót hòa hiệp với nhau. Christ được gọi là” Chiên con đã bị giết từ buổi sáng thế.” (Kh 13:8), ám chỉ rằng trong bản tánh Đức Chúa Trời vốn có một nguyên tắc đòi phải có sinh tế vãn hồi, mới chịu khởi sự thi hành việc cứu rỗi. Còn nguyên tắc ấy há chẳng phải là Đức thánh khiết của Ngài sao? Bởi vì từ trước vô cùng đã có Christ, Con Đức Chúa Trời, làm sinh tế vãn hồi, “bị giết từ buổi sáng thế”, nên Đức thánh khiết mới có thể cho Đức Chúa Trời theo tình yêu thương mà làm nên sự cứu chuộc đó. Thế thì, Đức Chúa Trời sỡ dĩ đòi sinh tế đền tội, ấy là Ngài là thánh khiết; lại Ngài tự mình làm ra cuộc đền tội đó, ấy là vì Ngài cũng là sự yêu thương vậy.Ấy vậy, ta nhờ bốn bằng cớ ở trên mà quyết đoán ràng đức thánh khiết của Đức Chúa Trời là nguyên tố đầu nhứt của vị cách Ngài; và nguyên tắc bất di bất dịch về mọi sự thi hành của Ngài; các đức khác đều phục tùng đức ấy mà vận động cả.5. ĐỨC THÁNH KHIẾT ĐỨC CHÚA TRỜI LÀ CĂN CỨ CỦA TRÁCH NHIỆM ĐẠO ĐỨC LOÀI NGƯỜI:Kìa, đạo đức ai cũng tôn chuộng, dầu là đứa trẻ cũng biết. Song tại cớ sao người ta tôn chuộng đạo đức? Căn cứ trách nhiệm nó ở đâu? Có nhiều ý kiến. Có kẻ gọi rằng, kẻ có đạo đức thì y quan tề chỉnh,dung mạo đoan nghiêm, khí tượng sáng suốt, cử chỉ ôn tồn, làm cho người ta khởi kỉnh. Kẻ khác rằng, người ta tôn trọng đạo đức là vì nhờ đó mới biết rõ phải quấy,định được chánh tà, mà xã hội được bình yên. Có kẻ nữa luận rằng. Đức Chúa Trời đã ban cho loài người lương tâm, để yêu chuộng đạo đức, nên họ cũng cho sự yêu chuộng ấy bất quá là lẽ tự nhiên, căn cứ nó là lương tâm đó thôi. Nhưng mà các sự suy luận đó chẳng qua là đều theo mỗi sở kiến, chớ chẳng nói đến căn cứ của trách nhiệm đaọ đức được đâu.a) Luận về phương diện tiêu cực. Do luật đạo đức loài người cảm biết có những trách nhiệm buộc mình phải làm trọn.Các trách nhiệm đạo đức ấy đều từ đâu mà có? Đáp: Theo phương diện tiêu cực thì thấy:(1) Chẳng phải do năng lực bề ngoài.a. Trách nhiệm đạo đức chẳng do năng lực của cha mẹ ràng buộc con phải theo. Kẻ làm con vẫn nên vâng lời cha mẹ, ấy vốn là một trách nhiệm của lòng đạo đức đòi buộc. Dầu vậy, kẻ làm con vẫncó thiên lương, dạy rằng duy có lời phải nên vâng, củng có lời quấy phải bỏ; dầu cha mẹ bảo phải làm quấy, cũng chẳng nên làm. Và bởi vì lòng con vẫn có tài tùy cơ ứng biến, có tài lựa chon quyết định, nên chẳng cầnvì cớ sự thuận theo cha mẹ mà phải trái với thiên lương của mình đó.b. Chẳng phài do năng lực của chánh quyền.Quyền bính của chánh phủ là bởi Đức Chúa Trời ban cho (Ro 13:1-3), bá tánh phải nên vâng phục. Song cũng có khi chánh phủ làm điều phi pháp, thì dân quả không nên trái lương tâm mình mà cử động theo sự phi pháp ấy.c. Không phải do năng lực của quần chúng ràng buộc. Thật, mọi người hiệp lại thì quyền lực vẫn mạnh. Thế mà hễ lẽ phải,dầu chỉ một người cũng đáng theo; còn trái lại thì dầu muôn người thúc giục,cũng nên bỏ ngay, bởi trách nhiệm đạo đức nghiêm răn rằng không hề nên trái thiên lý mà theo quần chúng bao giờ.d. Năng lực của Đức Chúa Trời cũng chẳng làm căn cứ của trách nhiệm đạo đức. Tuy chúng ta ở dưới quyền bính của Đức Chúa Trời , hễ không vâng lời ắt không khỏi bị thiệt hại; song chúng ta chẳng vì cớ năng lực Đức Chúa Trời mà buộc phải làm trọn trách nhiệm đạo đức đâu; duy tại vì nghe giọng nghiêm nghị của Đức Chúa Trời dạy rằng:” Hãy nên thánh vì Giê-hô-va Đức Chúa Trời các ngươi vốn là thánh.” (Le 19:2) đó thôi.(2) Chẳng phải lấy ích lợi làm căn cứ.Hễ có đạo đức thì tất nhiên có ích lợi. Giả như người biết tiết chế, xa bỏ tửu sắc, an cư lạc nghiệp, thì gia đạo phấn chấn,thân thể mạnh khỏe, danh giá càng cao, trong có ích cho gia đình, ngoài có lợi cho xả hội. Mà đạo đức chẵng những có ích cho đời nầy, cũng có ích cho đời sau nữa (IITi 4:8; Thi 16:1).Chúng ta thường nghe người ta quả quyết đạo đức có ít lợi lắm. Thật vậy, song nếu chúng ta làm theo đạo đức, chỉ vì cớ ích lợi, thì chẳng còn là đạo đức nữa, bèn là sự ích kỷ mà thôi. Chúng ta chẳng nhận sự hành vi cử chỉ của ai là chánh đáng bởi vì là hữu ích; bèn là nhận nó hữu ích vì là chánh đáng vậy. Ví bằng chúng ta công nhận căn cứ của đạo đức là sự ích lợi, thì cũng buộc phải nhận rằng trong cõi đời đời trước kia Đức Chúa Trời sở dĩ thánh khiết là chỉ vì Ngài cũng vụ lợi đó thôi. Bằng vậy, sự thánh khiết bất quá là lợi kỷ chủ nghĩa, và Đức Chúa Trời chẳng còn có tánh đạo đức nữa.b) Luận về phương diện tích cực.Vậy, nếu căn cứ trách nhiệm đạo đức chẳng ở nơi năng lực, cũng chẳng ở nơi ích lợi, thì từ đâu mà có? Đáp theo phương diện tích cực thì thấy Kinh Thánh dạy rõ ràng rằng căn cứ của các trách nhiệm đạo đức đều ở nơi đức thánh khiết của Đức Chúa Trời, tức là ở nơi tánh đạo đức trọn vẹn của Ngài. Luật đạo đức ghi ở trong lòng ta và chép ở trong Kinh Thánh đều buộc chúng ta phải vâng theo đức tánh trọn vẹn ấy. Chúng ta nhờ ở ba bằng cớ mà biết.(1) Điều răn.“Các ngươi phải thánh khiết” (IPhi 1:16). Điều răn ấy bảo chúng ta phải thánh khiết, chỉ bởi vì Đức Chúa Trời là thánh khiết. Trong Mat 5:48, Chúa cũng răn bảo rằng:”Thế thì các ngươi phải nên trọn vẹn như Thiên Phụ các ngươi là trọn vẹn vậy.”Trách nhiệm của lời ấy là phải nên trọn vẹn; còn duyên do của nó là vì chính Cha ở trên trời là trọn vẹn vậy. Thế thì ta đoán rằng: chỉn tại vì chính Đức Chúa Trời là thánh khiết trọn vẹn, nên loài người cũng cần phải thánh khiết trọn vẹn vậy.(2) Sự yêu thương .Trong luật pháp tỏ ra cả trách nhiệm đạo đức của ta. Christ tóm tắt trách nhiệm ấy trong một điều răn nầy: Mat 22:37Yêu mến Đức Chúa Trời là yêu mến các đức của Ngài. Đức đầu nhứt là sự thánh khiết. Chỉ kẻ yêu mến Đức Chúa Trời có thể làm trọn cả trách nhiệm của luật đạo đức, như Phao-lô chép rằng: Ro 13:10Vậy, bổn phận yêu mến Đức Chúa Trời đó chứng minh rằng căn cứ và tiêu chuẩn của trách nhiệm đạo đức là đức thánh khiết của Đức Chúa Trời vậy.(3) Gương của Christ. Đời sống của Christ biểu minh lòng kính mến Đức Chúa Trời đến điều, tỏ ra tâm chí yêu chuộng ý muốn Ngài hơn hết mọi sự. Ở ngoài Đức Chúa Trời, Christ chẳng còn nhận thấy có điều gì lành (Mac 10:18), và Ngài chỉ bắt chước làm theo điều Ngài thấy Cha làm trước đó thôi (Gi 5:19,30). Tuân theo ý chỉ Đức Chúa Trời trong mọi sự, ấy là cái tổng kê của cả bổn phận ta; còn sự thánh khiết tuyệt đích của Ngài là duyên do có một không hai, giục giã chúng ta phải theo ý chỉ ấy.Mac 10:18; Gi 5:19,20II. ĐỨC CÔNG NGHĨA1. ĐỊNH NGHĨAMọi sự suy liệu, quyết định hành động của Đức Chúa Trời đối với muôn vật hữu hình và vô hình đều hiệp lý, chánh đáng và thánh khiết chẳng chỗ nào dư, chẳng nơi nào thiếu, nhưng được hoàn toàn tuyệt đích. Ấy gọi là đức công nghĩa của Đức Chúa Trời. Nói cách khác, đức công nghĩa của Đức Chúa Trời ấy là cách thức Ngài vin theo đức thánh khiết mà đối đãi với loài người.Vả, sự thánh khiết vốn là yếu tố đầu nhứt của bản tánh Đức Chúa Trời; đức công nghĩa là cơ quan biểu dương bản tánh ấy ra, bắt buộc các vị có tâm tánh đạo đức (như thiên sứ và loài người) phải có hạnh kiểm và hành vi xứng hiệp với bản tánh thánh khiết ấy; bằng bất hiệp, thì cứ phép gia hình để trừng phạt ngay.Cho nên điều gì xứng hiệp với bản tánh thánh khiết của Đức Chúa Trời thì luật đạo đức gọi là công nghĩa; điều gì không hiệp gọi là bất nghĩa vậy.2. KINH THÁNH LÀM CHỨNGKinh Thánh có nhiều đoạn sách chứng thực cho đức công nghĩa của Đức Chúa Trời, tỏ ra Ngài mến người công nghĩa, ghét kẻ bất nghĩa. Sau đây xin dẫn ích câu để làm chứng:Sa 18:25; Phu 32:4; Thi 5:5; Thi 7:9-12; Thi 18:24-26; Mat 5:48; Ro 2:6; IPhi 1:16Các câu ấy tỏ ra rằng chính tội nhân mà Đức Chúa Trời ghét bỏ, thì Ngài lại cũng yêu thương nữa. Vậy, nói rằng Đức Chúa Trời ghét tội lỗi mà yêu thương tội nhân, không đúng. Kỳ thực, Ngài vẫn vừa thương vừa ghét: ghét vì tội nhân cố ý phản nghịch lẽ thật, xúc phạm sự thánh khiết của Ngài, thương là vì nó vốn là một nhân vật có những lương năng hay làm lành, mà nay lại đã bị tội lỗi làm hủ bại rồi. Kỳ thực, ghét tội ở ngoài cá tội nhân là việc bất năng. Đức Chúa Trời đối với tội nhân chẳng khác gì người cha kia đối với đứa con ngỗ nghịch, dầu cha vì thật yêu thương con, thấy con ngỗ nghịch mà phải đau lòng xót dạ, thì cũng phải đành đuổi nó ra khỏi nhà, mới giữ gia đạo trọn vẹn được.3. SỰ BÀY TỎ ĐỨC CÔNG NGHĨA CỦA ĐỨC CHÚA TRỜIĐức công nghĩa của Đức Chúa Trời được bày tỏ ra trong ba điều kiện kể ra sau đây:a) Trong cuộc tạo thành loài người.Chính bản tánh của loài người minh chứng cho sự công nghĩa của Đức Chúa Trời. Đức Chúa Trời dựng nên bản tánh loài người là linh hơn muôn vật, và giống như bản tánh của Ngài. Trong bản tánh của loài người vẫn có quan niệm về sự công nghĩa.Kìa, hai đứa trẻ cãi nhau đứa nào cũng cho mình là phải; người đứng giải hòa cũng thường viện lấy vẻ công bình mà nói; hai người kiện nhau ai cũng viện lẽ này lý nọ để được kiện; ấy, thảy đều tỏ r a mình có bản tánh tự nhiên hướng về sự công nghĩa, có tài cân nhắc lý sự đặng đoán định sự gì công nghĩa, sự gì bất nghĩa vậy.Ấy chứng minh rằng Đấng Tạo Hóa có đức công nghĩa, vì loài người được dựng nên theo hình trạng của bản tánh Ngài. Vả lại, trật tự trong xã hội nhờ sự công nghĩa mà được tồn tại. Giềng mối của nước nhà cũng nhờ sự công ngĩa mà chỉnh đốn.Dầu lắm khi xã hội suy đồi, thị phi điên đảo mà cứu cánh lẽ công nghĩa trong lòng người ta vẫn không tắt; bởi vì trong thiên tánh mọi người đều có ấn tượng quan niệm về sự công nghĩa của Đức Chúa Trời.b) Trong trường chính trị đạo đức.Trong trường chính trị đạo đức, Đức Chúa Trời theo ba phương diện mà bày tỏ đức công nghĩa của Ngài, tức là: (1) pháp luật, (2) thưởng phạt, (3) ghét điều ác mến điều thiện.(1) Pháp luật. Đức Chúa Trời thiết lập luật đạo đức, ban bố những điều răn công bình, đòi người ta phải làm theo trọn vẹn. Ấy là đức thánh khiết Ngài được tỏ ra trong trường chính trị vậy. Chúng ta xem xét điều răn của Đức Chúa Trời, thì hẳn phải công nhận Ngài là Đấng công nghĩa chẳng sai; vì trong bản tánh mình có lương năng minh chứng rằng luật đạo đức có ghi trong bản ngã, hoặc tạc trong cõi thiên nhiên, hoặc chép trong Kinh Thánh, đều là chí công chí chánh, bắt buộc mọi người phải làm theo cả. Vả, chúng ta sở dĩ phục tùng luật đạo đức chẳng phải vì Đấng luật pháp có oai quyền vô song, bèn là vì luật pháp ấy bởi chính Chúa công nghĩa ban bố ra, lương tâm tự nhiên công nhận là chí công chí chánh, buộc mình phải vâng theo hết thảy.(2) Sự thưởng phạt.Trong trường chính trị đạo đức Đức Chúa Trời cũng tỏ ra Đức công nghĩa Ngài bởi sự thưởng phạt. Hễ ai vâng theo luật pháp đều được thưởng; còn ai trái luật pháp phải bị phạt. Vả, Đức Chúa Trời đã là Đấng công nghĩa, thì Ngài cũng chiếu theo lẽ công nghĩa mà thi hành sự thưởng phạt. Dầu Ngài ban ân điển cho ai, thì cũng chẳng thiên vị ai đâu; dầu hình phạt ai cũng chẳng bất công; vì Đức thánh khiết Ngài hằng chủ trương phải theo sự công nghĩa tuyệt đối mà thi hành mọi sự.Khi thi ân, lúc gia hình, Ngài cũng chẳng tẽ đường công nghĩa chút nào. Còn luật pháp mà Ngài theo đễ phán đoán thưởng phạt đó; ấy là đức thánh khiết của Ngài;cái gì thích hiệp với đức ấy là công nghĩa; còn cái gì không thích hiệp là bất công bất nghĩa vậy. Những câu kể sau đây chứng rằng Đức Chúa Trời hằng theo nghĩa công lẽ công nghĩa mà thưởng người công nghĩa, phạt kẻ gian ác:(a) Thưởng người công nghĩa:IITi 4:8; He 6:10; (Cũng xem IVua 8:32; Thi 98:1-3;103:6.)(b) Phạt kẻ gian ác:IITe 1:6-7 (Cũng xem Thi 7:9-11; Thi 129:1-4; Da 9:12-14; Kh 16:5,6.)Vả, có kẻ cãi rằng:”Từ xưa đến nay biết bao điều trong cách Đức Chúa Trời thưởng phạt người đời nay hình như là bất công bất nghĩa vậy. Kìa, ông thiện này buồn dười dượi, bà ác kia vui hỉ hả, bác bất nghĩa nọ giàu lút mặt, còn chú hiền lành kia nghèo cháy da. Như vậy sự công nghĩa của Đức Chúa Trời ở đâu?” Đáp: Những sự ấy bất quá là vì con mắt của chúng ta thấy được nửa mặt, nên không biết đầu đuôi trọn vẹn các sự ấy được.Duy một mình Đức Chúa Trời biết nguyên nhân của sự vui vẻ cực khổ, sự giàu sang nghèo hèn của người đời; ở ngoài Ngài chưa hề có ai lấy chí lý đích xác để tỏ bày cho người đời thông hiểu nguyên nhân ấy. Song kịp đến ngày phán xét ai nấy đều sẽ rõ mọi sự, biết rằng các sự thưởng phạt của Đức Chúa Trời hoặc trong đời nầy hay đời sau, thảy đều theo lẽ công bình nhân nghĩa trọn vẹn cả.(3) Sự ghét điều ác mến điều thiện.Suy xét về Đức Chúa Trời dụng hình trong cuộc thống trị loài người, thì có nhiều kẻ lầm hiểu nguyên nhân của sự ấy. Có kẻ nói Đức Chúa Trời dụng hình:(a) Cốt để khiến người ta ăn năn. Thuyết ấy không hiệp với lòng thị phi của người đời, bởi ai ai cũng kể kẻ có tội đáng chịu hình, chớ không ai luận đến sự gia hình đó có thể khiến người ấy ăn năn hay không. Mà kẻ thọ hình nếu tấm lòng phải quấy còn cử động, ắt cũng tự nhận rằng chịu hình phạt là phải lẽ lắm. Vả lại, nếu quả như thuyết nầy thì sự hình phạt địa ngục đặt ra làm chi? Còn kẻ có tội mà biết ăn năn rồi thì không phải chịu phạt gì cả. Song chúng ta thường thấy kẻ ăn năn chữa lỗi, cũng tình nguyện thú phục tội hình, rồi sau lòng mới bình an. Ấy há chẳng chứng rằng mục đích của sự dụng hình chẳng phải là sự để khiến ăn năn, bèn là để bày tỏ đức tánh Đức Chúa Trời cực điểm đối nghịch với tội lỗi cực điểm đó ư?(b) Để làm cho người ta dời qua điều lành.Có kẻ luận rằng Đức Chúa Trời sở dĩ dụng hình vì muốn người ta dời qua điều lành; bởi vì hễ thấy sự hình phạt người ta đã chịu nếu là đúng luật, thì có thễ khiến cho họ sanh lòng ưa điều lành ghét điều dữ. Song điều tai nghe mắt thấy,thì lắm kẻ dầu chịu hình phạt bao nhiêu, lại càng cứng lòng mà nịch điều dữ bấy nhiêu (Xem Xu 9:23-27; Xu 9:34; Kh 9:20-21).(c) Để bảo tồn luật đạo đức. Người ta sa vào tội lỗi, đều là can phạm đến luật đạo đức. Đức Chúa Trời cần vì ngôi nước Ngài mà phải hình phạt kẻ trái luật mới bảo toàn luật ấy được. Ý ấy dầu một mặt là chân thật, thì cũng chưa đủ lý tỏ ra nguyên nhân của sự dụng hình; bởi vì nếu quả như thuyết này, thì có thể bắt lẽ rằng loài người vì luật pháp mà tạo ra,chớ không phải luật pháp được lập ra vì cớ ích lợi cho loài người.Vậy thì Đức Chúa Trời dụng hình vì duyên cớ nào? Nói tóm một lời, là vì Ngài ghét điều dữ mến điều lành. Bản tánh của Ngài bao giờ cũng phản đối sự dữ, đến đỗi hễ thấy chỗ nào có sự giữ, thì tự nhiên thấy phản động gia hình ngay. Còn sự dụng hình ấy là cực công nghĩa, vì xứng hiệp với đức thánh khiết của Ngài, biểu minh rằng Đức Chúa Trời hằng ghét sự ác mà mến sự thiện vậy (xem Xu 9:23-27; IISu 12:5,6)c) Trong sự tha tội.Giăng chép rằng: “Còn nếu chúng ta xưng tội mình, thì Ngài là thành tín công nghĩa, ắt tha tội cho chúng ta, và làm cho chúng ta sạch mọi sự bất nghĩa” (IGi 1:8). Câu ấy minh chứng rằng sự tha tội bày tỏ sự công nghĩa của Đức Chúa Trời. Thế nào vậy? Ấy vì Christ đã chuộc hết tội của chúng ta rồi; và Đức Chúa Trời đã hứa hễ ai tin nhận Ngài, sẽ được tha tội. Cho nên hễ ai nhận tội mình mà nương cậy nơi Christ thì được Đức Chúa Trời tha tội cho; vì Ngài vốn Đấng thành tín giữ lời hứa, Đấng công nghĩa, không hề lại đòi tế lễ gì nữa để đền tội lỗi cho chúng ta.d) Trong sự giữ lời hứa.Tiên tri Nêhêmi chứng rằng Đức Chúa Trời nhờ sự giữ lời hứa với dân sự mà bày tỏ đức công nghĩa Ngài (Ne 9:7,8). Đức Chúa Trời đã là công nghĩa nên cũng chắc sẽ giữ lời hứa với chúng ta, cũng như xưa kia Ngài đã giữ lời hứa với Áp-ra-ham, Y-sác và Gia-cốp vậy. Hẳn chẳng có điều gì trên trời, dưới đất, hay là trong địa ngục có đủ quyền khiến cho Đức Chúa Trời thất tín với ta; Ngài chắc giữ vẹn lời hứa, vì lời ấy được đức công nghĩa Ngài bảo lãnh vậy.e) Trong sự giải cứu kẻ công nghĩa.Trước giả Thi 129:1-4 chép: “Từ khi tôi còn thơ ấu, chúng nó thường hà hiếp tôi, Y-sơ-ra-ên đáng nói, Từ khi tôi còn thơ ấu,chúng nó thường hà hiếp tôi, nhưng không thắng hơn tôi được. Các nông phu cày trên lưng tôi, Xẻ đường cày mình dài theo trên đó. Giêhôva là công bình; Ngài đã chặt những dây kẻ ác.” Câu ấy dạy rằng Đức Chúa Trời bày tỏ sự công nghĩa Ngài mà giải cứu dân sự khỏi tay kẻ ác. Trải qua các đời, dân sự Đức Chúa Trời thường bị kẻ ác hà hiếp áp chế, nhưng không sớm thì muộn họ chắc được toàn thắng,vì đức công nghĩa của Đức Chúa Trời giục giã Ngài phải chổi dậy, dùng lẽ công bình mà xử đoán duyên cớ của họ. Một mai dân Ngài được đứng vào địa vị mới, sẽ hát bài khải ca, hớn hở không xiết kể, vì “ở đó những kẻ hung ác thôi rầy rạc,và các người mỏn sức được yên nghỉ” (Giop 3:17).III. ĐỨC NHÂN ÁIĐức nhân ái của Đức Chúa Trời có hai phương diện, tức là sự nhân từ và sự yêu thương. Đức Chúa Trời thường dùng ai đức ấy mà đối đãi loài người, vô luận la người công nghĩa hay là kẻ bất nghĩa cũng vậy.Xin theo hai phương diện ấy mà kê cứu qua đức nhân ái.1. SỰ NHÂN TỪa) Định nghĩa.Lòng nhân từ (thương xót) của Đức Chúa Trời là tâm đức khiến cho Ngài thương xót kẻ có tội, mà ban ơn thuộc linh và thuộc thể cho họ, đến đỗi dầu chính Ngài phải chịu khổ nạn đến điều trong khi ban ơn ấy, cũng chẳng chán nản đâu,Phao-lô chép:Eph 2:4; Ro 5:8Lại lòng nhân từ Ngài khiến cho Ngài giáng các hạnh phước tốt nhất cho con cái vâng phục của Ngài, Phao-lô lại chép: Ro 8:32.b) Kinh Thánh làm chứng.Kinh Thánh minh tả và chứng thực cho lòng nhân từ (thương xót) của Đức Chúa Trời.Thi 103:8Chúng ta đáng lẽ bị khổ, nghèo, và chết, vì ấy là lương hướng của tội lỗi. Nhưng Đức Chúa Trời đã dung thứ ta, cứu mạng sống ta, ban sức mạnh cho ta, thêm các hạnh phước an cư lạc nghiệp cho ta với sự sống đời đời nữa. Phu 4:31Xưa Đức Chúa Trời sỡ dĩ không bỏ dân Y-sơ-ra-ên là vì lòng nhân từ (thương xót) của Ngài. Hiện nay Ngài chẳng bỏ chúng ta, cũng chỉ bởi lòng nhân từ ấy. Cũng nhân vì Đa-vít biết: “Chúa là Đức Chúa Trời hay thương xót và làm ơn, chậm nóng giận, có sự nhân từ và sự chân thật dư dật”, nên ông mới dám tin chắc rằng Đức Chúa Trời chẳng hề lìa bỏ mình trong cơn hoạn nạn quá khổ kia (Thi 86:15). Truyện tích về con hoang đàng trong Lu 15:11-32 cũng mô tả lòng nhân từ của Đức Chúa Trời, tỏ ra Ngài không những là vui tiếp kẻ ăn năn trở lại, nhưng lại có lòng rất mong mỏi ước ao kẻ có tội mau mau trở về với Cha hay thương xót đó vậy.c) Sự bày tỏ lòng nhân từ của Đức Chúa Trời.Nói đại khái, thì Đức Chúa Trời sẵn lòng ban ơn phước cho muôn vật thọ tạo, nhứt là cho kẻ tận tâm tìm cầu Ngài. Trước giả Thi thiên chép rằng: Thi 86:5Đức Chúa Trời cũng hành quyền cao cả mà ban ơn thương xót cho người ta tùy ý chỉ Ngài muốn cũng như Phao-lô đã chép: Ro 9:18Kê cứu qua Kinh Thánh thì thấy Đức Chúa Trời thường tỏ lòng nhân từ Ngài mà thương xót tội nhân, và ban ơn cho tín đồ.(1) Thương xót tội nhân: Lu 6:36; Mat 5:45Hai câu ấy dạy rằng Đức Chúa Trời ban ơn thương xót cả người thiện cùng kẻ ác. Nếu Ngài ban ơn dư dật cho kẻ cứng lòng không chịu ăn năn đó, ấy cốt để khiến họ biết ơn mà ăn năn. Tiên tri Ê-sai dạy rằng hễ ai biết ăn năn thì Đức Chúa Trời sẵn lòng thương xót và tha thứ cho cách dồi dào. Es 55:7Nhưng ta khá ghi nhớ rằng, ơn thương xót của Đức Chúa Trời do lòng thánh khiết chủ trị; nên Ngài chẳng hề bào chữa và che đậy tội lỗi đâu, bèn trông mong tội nhân ăn năn để Ngài có thể bày tỏ lòng nhân từ mà tha thứ họ. Lòng nhân từ của Đức Chúa Trời chẳng khác nào nơi trú ẩn của kẻ biết ăn năn: song kẻ cứng lòng chẳng thế nào nương cậy nơi đó hầu mong được cứu đâu (xem Gio 20). Kinh Thánh dạy rõ ràng lắm rằng hễ ai muốn được Đức Chúa Trời thương xót, phải thú tội, lìa bỏ nó, mới được như nguyện. Vì ai lìa bỏ tội,nương cậy nơi lòng nhân từ của Đức Chúa Trời chắc được ơn tha thứ dồi dào.Ch 28:13; Thi 51:1Vả lại, Kinh Thánh cũng dạy rằng Đức Chúa Trời bày tỏ lòng nhân từ mà Ngài khoan nhân đối với tội nhân. Kỳ thực, nếu Ngài lấy sự công bình mà xử họ, thì họ đã bị tận diệt rồi.IIPhi 3:9; He 9:31Than ôi! Đức Chúa Trời thấy loài người đầy dẫy gian ác, ô uế, tội lỗi tràn trề, khiến cho Ngài phải gớm ghê là dường nào! Tuy Ngài có quyền tuyệt diệt họ trong nháy mắt, thì Ngài cũng chẳng nỡ; trái lại Ngài khoan nhân, khuyên bảo, nài nỉ và hy sinh mình để tỏ cho họ biết lòng yêu thương của Ngài, mong rằng họ xúc cảm lòng ấy mà ăn năn. Chúng ta khá coi chừng,e chúng ta lạm dụng lòng nhân từ lớn lao ấy, mà cứ cứng lòng, e rằng Đức Chúa Trời phải theo nghĩa nộ phừng phừng mà trừng phạt chúng ta chăng; vì Đức Chúa Trời cũng là “đám lửa hay thiêu đốt” (He 12:29) vậy.(2) Làm ơn cho tín đồ. Đức Chúa Trời cũng bày tỏ lòng nhân từ mà ban ơn cho tín đồ. Thi 32:10Câu ấy dạy rằng hễ con cái Chúa nương cậy nơi Ngài, tức thì khiến cho lòng nhân từ Ngài phù hộ người như một cha tự nhiên phù hộ con dại biết nhờ cậy mình vậy. Hễ lúc nào ta phó mình cho Chúa, thì sự nhân từ Ngài liền vây phủ ta, đứng xung quanh ta một thành lũy kiên cố, chẳng có thù địch nào xô đổ thành ấy, hoặc ai tài nào xông vào làm hại ta được. Hễ ai chống cự Chúa ắt khó tránh khỏi nỗi đau đớn vây hãm; còn ai nương cậy nơi Ngài ắt được an nhiên vô sự ở trong lòng nhân từ của Ngài. Đức Chúa Trời cũng tỏ lòng thương xót mà chữa bệnh cho kẻ đau ốm (Phi 2:27), cả bệnh thuộc thể lẫn bệnh thuộc linh (Thi 6:2-4). Ngôi nước của các vua chúa được vững bền, cũng chỉ tại lòng thương xót của Đức Chúa Trời (Thi 21:7). Thực, ta có thể quyết đoán rằng,nếu sự cứu rỗi ta được còn đến đời đời, cũng chỉ tại lòng nhân từ của Đức Chúa Trời hằng đối với chúng ta đến vô cùng vô tận đó thôi (Thi 136).Phil 2:27; Thi 6:2-4; Thi 21:7; Thi 136:23-24.2. SỰ YÊU THƯƠNGDuy đạo Christ lấy tình yêu thương làm trung tâm điểm. Đức Chúa Trời nhờ đạo ấy mà bày tỏ lòng yêu thương tối cao đối với loài người, đến đỗi cái động cơ của cách Ngài đối đãi họ chỉ là sự yêu thương mà thôi. Xét qua các đạo khác thì thấy tỏ ra nào những thần giận hờn ghen ghét,ganh tị, có tánh rất ghê gớm. Hễ ai thờ phượng các thần ấy, phải dùng lễ này vật kia để khẩn đảo cúng bái mới mong được nhậm. Thần của đạo Christ chẳng như vậy đâu, vì Ngài vốn là Đức Chúa Trời của sự yêu thương vậy.a. Kinh Thánh thường chứng thực cho sự yêu thương của Đức Chúa Trời, minh huấn rằng Ngài không những là yêu thương mà lại chính Ngài là sự yêu thương. Sự yêu thương là nguyên tố của bán tánh Ngài. Ngài cư trú và hành động trong phạm vi yêu thương; cũng là nguồn gốc của sự yêu thương chân chính nữa. Giải nghĩa sự yêu thương thật khó, người phàm không tài nào tả nổi. Song nếu kê cứu hai câu viện dẫn ra dưới đây và nhiều câu khác nữa cũng chứng về sự yêu thương của Đức Chúa Trời, thì rõ ràng tình yêu thương hằng giục giã Ngài muốn ban phước hạnh thuộc linh và thuộc thể cho loài người, đến đỗi vui lòng hy sinh mình, chịu đau khổ vô cùng đặng làm việc ấy.Gi 3:16; IGi 4:8,16 (Cũng xem Mat 5:44-45)b. Đối tượng của sự yêu thương Đức Chúa Trời.Vả Đức Chúa Trời yêu thương những ai? Xin đáp:(1) Con độc sanh của Ngài. Kinh Thánh chứng rằng Jesus Christ là Đối tượng đầu nhứt của tình yêu thương Đức Chúa Trời. Đức Chúa Trời yêu thương Ngài một cách riêng, vì Ngài là Con độc sanh đẹp lòng Đức Chúa Trời mọi đàng. Vả, bản tánh Đức Chúa Trời là vĩnh viễn. Mà nếu từ trước vô cùng đã có tình yêu thương của Đức Chúa Trời, thì rất hữu lý mà đoán rằng tình ấy phải có một đối tượng cũng vĩnh viễn. Kinh Thánh dạy rằng đối tượng ấy là Con độc sanh của Đức Chúa Trời. Thành thử, tình yêu thương của Cha đối với Con minh chứng rằng Con vĩnh hữu cũng như Cha vĩnh hữu vậy.Mat 3:17; Gi 17:24(2) Các tín đồ trong Jêsus Christ. Đức Chúa Trời vẫn yêu thương chung cả mọi người, nhưng Ngài yêu thương những kẻ bởi đức tin liên hiệp với Con Ngài cách đặc biệt. Jêsus Christ vốn Đối tượng đầu nhứt của sự yêu thương Đức Chúa Trời. Rồi kẻ nào tín nhận Con được đồng đứng trong một địa vị với Con, và được Đức Chúa Trời yêu thương bằng tình yêu thương Ngài đem mà yêu thương Con độc sanh của Ngài vậy. Chúa Jêsus chứng rằng: Gi 16:27; Gi 14:21-23; Gi 17:23(3) Cả thế gian. Đức Chúa Trời không những chỉ yêu thương tín đồ, nhưng cũng yêu thương cả thế gian nữa. Chúa Jêsus phán cùng Ni-cô-đem rằng: Gi 3:16Ni-cô-đem nghe lời ấy thì thấy làm lạ, vì ông tin rằng Đức Chúa Trời chỉ yêu thương dân Do Thái mà thôi. Nhưng nay Christ tỏ ra Đức Chúa Trời không những là yêu thương dân Do Thái theo như thành kiến sai lầm của họ thôi đâu, mà cũng yêu thương cả dân ngoại bang nữa. Ngài chẳng những yêu thương một phần của giồng giống loài người, mà lại thật yêu thương cả loài người, vô luận là thuộc về chủng nào, nước nào, hoặc người thiện kẻ ác, hoặc có tội ít hay nhiều; vì Ngài chẳng tây vị ai, song muốn mọi người được cứu rỗi và đạt đến sự thông biết lẽ thật (ITi 2:4).c. Sự bày tỏ tình yêu thương của Đức Chúa Trời.Vả, tình yêu thương của Đức Chúa Trời được bày tỏ như thế nào? Nói đại khái thì được bày tỏ theo ba cách:(1) Bởi sự hi sinh vô hạn vô lượng để cứu chuộc loài người. Thánh Giăng luận về vấn đề này có chép rằng: IGi 4:9-10Tình yêu thương của Đức Chúa Trời chẳng những là thương hại chúng ta, nhưng tự bày tỏ mình ra trong sự hi sinh mình cách đau khổ để cứu chuộc chúng ta. Thập tự giá biểu minh cả lòng yêu thương của Đức Chúa Trời đối với tội nhân, Ngài không những là phó một con, bèn là phó Con độc sanh của Ngài để phó chúng ta khỏi tội. Ro 5:6-8(2) Bởi sự tha thứ tội. Đức Chúa Trời cũng bày tỏ lòng yêu thương Ngài mà tha tội cho người ta. Tiên tri Ê-sai tường thuật sự từng trải mình mà rằng: Es 38:17Đời sống của tiên tri bị lắm nỗi đắng cay;nhưng Đức Chúa Trời nhơn lòng yêu thương của Ngài ném mọi tội lỗi của người ra sau lưng Ngài, ban cho người được bình an êm dịu vô song. Phao Lô cũng dạy rằng: Eph 2:4-5Trong Eph 2:1-3 Phao lô tỏ ra giống loài người đang kéo nhau đồng đi trên con đường hư mất chẳng chỗ nào nương cậy. Nhưng khi họ đến chỗ cùng vô sở xuất, vô phương khả đảo nữa, thì Đức Chúa Trời bèn can thiệp, giơ tay quyền năng Ngài ra mà cứu chuộc họ khỏi sự hư mất, tha tội cho họ,và ban cho họ đồng hưởng được một địa vị với Jêsus Christ ở trong nước của Ngài. Cái động cơ khiến cho Đức Chúa Trời thi hành cách diệu kỳ ấy là lòng yêu thương của Ngài vậy.(3) Thi ân cho con cái Ngài. Đức Chúa Trời hằng tỏ lòng yêu thương Ngài mà ban ơn cứu rỗi con cái của Ngài. Tiên tri Ê-sai chép: Es 63:9Trong câu ấy tiên tri tỏ ra Đức Chúa Trời yêu thương dân Ngài, đến nỗi hễ khi họ chịu khốn khổ, thì chính Ngài cũng đồng chịu khốn khổ với họ. Ngài đồng đi với họ, cứu họ, và phù hộ họ trong cả đường khó khăn hiểm trở của đời nầy. Ê-sai lại chứng rằng: Es 49:15,16Người đời cho tình mẫu tử là cao hơn núi, rộng hơn biển, mạnh hơn dòng nước. Nhưng tình yêu thương của Đức Chúa Trời lại là lớn,rộng, và mạnh muôn phần hơn vậy. Vì người mẹ có thể quên con mình cho bú; nhưng Đức Chúa Trời chẳng hề quên được dân của Ngài đâu bao giờ.Có khi tình yêu thương của Đức Chúa Trời dường như bị đám sương mù che khuất, vì trong vòng tín đồ chúng ta thường thấy ông nầy hay lâm hoạn nạn, bà nọ gặp nhiều nỗi ưu sầu; kẻ thì nghèo khổ cơ cực, người lại lưu lạc bơ vơ, đến nỗi ta muốn hỏi: Sự công bình của Đức Chúa Trời ở đâu? Làm sao Ngài vô tình như thế? Song nếu chúng ta kê cứu Kinh Thánh, thì thấy người đời chỉ được hạnh phước ấy cùng mất luôn với họ. Con đường của tín đồ dầu gặp lắm khúc eo hiểm đáng thương, dầu phải lâm cơn cùng khốn, thì vẫn có cánh tay Đức Chúa Trời gìn giữ dẫn dắt, tiêu trừ mọi sự ngăn trở, hằng cứu khỏi các sự thiệt hại. Sự cứu trợ ấy ta không thấy được, vì dường như Chúa giấu mình trong cơn hoạn nạn đó. Thế mà, khi ta đã vượt qua các sự khổ nạn rồi, xét lại thì thấy mình được toàn cứu là chỉ tại vì Đức Chúa Trời lấy lòng yêu thương mà giải cứu mình đó thôi.Tiên tri Sô-phô-ni chép: So 3:17IV. ĐỨC CHÂN THÀNHĐức chân thành của Đức Chúa Trời có hai mặt,tức là sự chân thật và sự thành tín. Ngài dùng cả hai sự ấy trong khi Ngài đối đãi với loài người. Hoặc tín đồ hay người ngoại đều dự phần đến sự chân thật và thành tín của Ngài cả.1. SỰ CHÂN THẬTChúng ta thường thấy người đời không chân thật.Họ rất tối tăm về lẽ phải quấy, hay cưu mang ý riêng, nên vì cớ đó mà mất lẽ chân thật. Đức Chúa Trời là Đấng hay biết rất sáng, không tây vị, trong mọi việc hằng lấy lẽ chân thật làm chủ. Kinh Thánh làm chứng cho sự chân thật của Đức Chúa Trời rằng:Thi 138:2; Gi 3:33; Ro 3:4; Gi 14:17a) Định nghĩa. Vả,sự chân thật của Đức Chúa Trời có nghĩa gì? Xin đáp:(1) Tánh chất của Đức Chúa Trời là chân thật. Đức Chúa Trời là chân thật không dối trá. Ngài chẳng những đối đãi loài người và muôn vật cách chân thật, mà chính bản tánh Ngài vẫn là chân thật; cho nên hoặc trong việc làm, hoặc trong lời nói thì Ngài là chân thật trọn vẹn. Kinh Thánh xưng Đức Chúa Trời là A-men (Kh 3:14), và dạy rằng trong Christ chúng ta cũng nhận sự ấy là như vậy (IICo 1:20); bởi vì sự chân thật là đức tánh cội rễ của Ngài, nên mới gọi Ngài là Chân Thần vậy.Kh 3:14; IICo 1:20; Gi 17:3(2) Lý luận của Đức Chúa Trời là chân thật. Chẵng những chính Đức Chúa Trời là chân thật, Ngài lại làm cội rễ của mọi lẽ chân thật.Vả, mọi sự vật trong vũ trụ đều có định lý chắc chắn cả. Ví như người đốn cây lớn,xem những thớ ở trong cây, thì biết được cây ấy đã sống bao nhiêu năm, bởi vì ở trong đó tỏ ra chân lý. Lại như thứ tự của bốn mùa đông đi xuân về, hè qua thu đến, muôn đời không hề thay đổi, cũng như Đức Chúa Trời đã hứa với Nôê rằng: Sa 8:2Lời ấy rất đáng tin và có lý nghiệm lắm. Mà xét ra mọi sự vật trong bầu trời trái đất, thảy đều có định lý không hề thay đổi,chẳng hề sai chạy bao giờ. Còn thực sự ấy há chẳng minh chứng rằng Đức Chúa Trời mà đã định lý cho muôn vật như thế cũng là Đấng chân thật sao?(3) Lời phán của Đức Chúa Trời là chân thật. Đức Chúa Trời đã là chân thật, thì lời phán của Ngài cũng là chân thật. Kinh Thánh chứng rằng:Gio 23:14; Thi 89:34; Thi 119:89Duy một mình Ngài là Đấng chân thật, nên hễ Ngài giao ước điều gì với loài người, thì thực hành cả thảy. Lời hứa của Ngài chẳng hề bỏ luống đâu. Phao lô chứng rằng:IICo 1:19; Tit 1:2; He 10:23. (Cũng xem Thi 105:42; Lu 1:54-55)Kinh Thánh chứa đầy những lời hứa rất quý. Hễ ai tín nhận và làm theo điều kiện Chúa đã chỉ cho, ắt hưởng được hết thảy, chẳng một lời nào sai chạy cả. Quả như thánh Giăng dạy rằng: IGi 1:9(4) Sự cứu rỗi của Đức Chúa Trời là chân thật. Sự cứu rỗi của Đức Chúa Trời chẳng phải một sự mơ hồ huyền ảo không bằng cớ đâu;bèn là sự chắc chắn vững vàng, do bản tánh của Đức Chúa Trời, đời đời chẳng hề thay đổi. Kinh Thánh chứngThi 3:8; IITi 1:9; ITe 5:9; Thi 34:22. (Cũng xem Phu 32:15; IISa 22:47)Chính Đức Chúa Trời là hòn đá của sự cứu rỗi ta, hễ ai nương cậy nơi Ngài chẳng hề bị hổ thẹn. Ngài đã nhờ Christ làm xong sự cứu rỗi ấy; nên trước giả thơ Hê-bơ-rơ cũng chứng rằng: He 7:25Còn mọi lời hứa của Đức Chúa Trời về sự cứu rỗi ấy đều là phải và chân thật trong Christ Jêsus cả cho những kẻ công nhận Ngài; nên Phao Lô quyết rằng: IICo 1:18,20b) Hạnh phước do sự chân thật của Đức Chúa Trời mà ra. Vả, đức chân thật của Đức Chúa Trời có hạnh phước gì cho loài người không? Có nhiều lắm, đây xin chỉ kể ra bốn điều thôi.(1) Thiên tánh chân thật. Bởi sự chân thành của Đức Chúa Trời loài người nhận lãnh được thiên tánh chân thật.Thực sự ấy đều được thí nghiệm ở trong lương tri của mọi người. Dầu rằng trong trần thế có lắm kẻ giả dối lường gạt, thì bậc quân tử chân thật cũng chẳng thiếu.Thực, nếu trong thế gian chẳng có lẽ chân thật, thì xã hội chẳng được vững chãi. Vì như chẳng còn ai là chân thật, thì hành khách không một ai dám đi tàu đi xe, vì sợ e người tài công làm cho xe lật tàu đắm. Lại nếu đói thì chẳng ai dám ăn, khát chẳng ai dám uống, vì sợ e bồi bếp bỏ thuốc độc vào đồ ăn thức uống chăng. Nếu kẻ nầy dối gạt, người kia lường lận, ai nấy đều đua nhau sống trong sự gian trá, thì xã hội quả như tơ vò, chẳng ai ở đời được. Song may thay! Đức Chúa Trời là chân thật, khi Ngài dựng nên loài người thì ban cho họ cũng có lương năng chân thật như Ngài. Nhờ hạnh phước lớn lao ấy loài người mới ăn ở chung đụng trên địa cầu này được.(2) Bản năng không lừa dối. Nếu biết Đức Chúa Trời là chân thật, thì cũng nhờ đó mà biết các bản năng mà Ngài đã ban cho mình không lừa dối mình. Hễ khi mắt thấy, tai nghe, mũi ngửi, miệng nếm, tay rờ, nếu ngũ quan ta không bịnh tật, thì biết nó chẳng lừa gạt mình đâu; đều mình xem, nghe, ngửi, nếm và rờ đó, đều có thật như ngũ quan đã cảm biết vậy. Khi lý tánh đoán rằng vũ trụ này phải có mục đích đặc biệt, công hiệu phải có căn nguyên, linh giới phải có luật thưởng phạt như trần giới, làm thiện được phước, làm ác bị họa, thì biết sự đoán định như thế rất đúng đắn, vì do bản năng bởi Đức Chúa Trời chân thật dựng nên vậy.(3) Sự khải tị chân thật. Nhờ sự chân thật của Đức Chúa Trời mà loài người lãnh được sự khải thị rất chân thật.Sự khải thị hoặc trong cõi thiên nhiên, hoặc trong Kinh Thánh chẳng hề phản đối nhau, bèn là thảy đều tương hiệp cách rập ràng vậy. Lại nhờ sự chân thật của Đức Chúa Trời, ta có thể đoán rằng sự hiểu biết thêm về sau chẳng phản đối với sự khải thị quá khứ, nhưng nhờ sự hiểu biết sau đó ta sẽ càng thấy sự khải thị trước kia còn giấu nhiều lẽ thật sâu nhiệm mà mình chưa hề nghĩ đến bao giờ.(4) Sự bình yên. Lắm điều trong công việc của Đức Chúa Trời chúng ta không hiểu nỗi, nhiều ý tưởng Ngài, trí khôn ta không giải tỏ được. Thấy vậy lòng vô tín có thể khiến cho mình bối rối sờn lòng, nản chí. Nhưng hễ nhớ lại Đức Chúa Trời là Đấng chân thật,thì biết chắc chắn rằng công việc Ngài làm đều phải cả, ý tưởng Ngài bày ra cũng rất chánh đáng, vì Ngài chẳng có thể làm quấy hay là bảo ai làm gì không xứng hiệp với sự chân thật đâu. Cho nên dầu ta không hiểu thấu việc làm, ý tưởng của Đức Chúa Trời , thì cũng nhờ biết sự nhận biết Đức Chúa Trời là chân thật mà linh hồn ta được bình an; vì ta đồng thinh với Apraham mà đoán rằng: “Đấng xét đoán toàn thế gian, há lại không làm sự công bình sao?” (Sa 18:25). Xưa kia chính Đức Chúa Trời cũng đã phán cùng tiên tri Êsai rằng: “Ý tưởng ta chẳng phải ý tưởng các ngươi, đường lối các ngươi chẳng phải đường lối ta. Vì các từng trời cao hơn đất bao nhiêu, thì đường lối ta cao hơn đường lối các ngươi, ý tưởng ta cao hơn ý tưởng các ngươi cũng bấy nhiêu” (Es 55:8,9). Sự biết chắc điều ấy làm cho lòng ta hằng được an lạc bình tịnh vậy.2. SỰ THÀNH TÍN.Đức Chúa Trời lấy lòng thành tín mà đối đãi với loài người, cả tín đồ lẫn kẻ không tin cũng vậy. Kinh Thánh làm chứng cho sự thành tín của Đức Chúa Trời rằng:ICo 1:9; ITe 5:24; IPhi 4:19; IICo 1:20.(Cũng xem Dan 23:19; Tit 1:2; He 6:18; He 10:23)Nhờ sự thành tín của Đức Chúa Trời chúng ta hưởng được những hạnh phước như sau đây:a) Các lời hứa được ứng nghiệm.Nhân sự thành tín của Đức Chúa Trời, Ngài khiến cho các lời hứa được ứng nghiệm,vô luận lời đó được chép trong Kinh Thánh hay là được bày ra trong cõi thiên nhiên. Những điều Đức Chúa Trời đã hứa cho chúng ta, chúng ta hưởng được chẳng phải vì chúng ta xứng đáng hoặc có công lao gì đáng cho Đức Chúa Trời đoái thương chúng ta đâu, bèn là chỉ tại sự xứng đáng và bởi công lao của Christ đó thôi. Cho nên sự sai lầm của chúng ta chẳng hề khiến cho lời hứa của Đức Chúa Trời bị xóa đi đâu; hễ chúng ta biết ăn năn, nương cậy nơi sự thành tín của Ngài, thì các lời hứa của Ngài hẳn được ứng ngiệm cho ta cả. Giăng xưng Đức Chúa Trời “là thành tín công nghĩa” (IGi 1:9) thành tín đối với lời hứa, công nghĩa đối với Christ để tha tội cho ta.b) Dự bị mọi sự cần dùng. Sự thành tín của Đức Chúa Trời cũng dự bị cho chúng ta mọi sự cần dùng thuộc thể và thuộc linh, hoặc trong cõi hiện tại hay là trong cõi tương lai cũng vậy.Kinh Thánh chứng rằng:Thi 84:11; Thi 91:4; Mat 6:33; ICo 2:9Loài người đã là kẻ có tội và rất bất toàn mọi bề, mà còn biết giữ lời hứa của mình, lấy làm khó chịu về sự thất tín thay, huống chi Đức Chúa Trời là Đấng cực chân thật thành tín, Ngài lại há chẳng giữ lời hứa của Ngài hơn loài người mà chẳng hề thất tín đối với chúng ta sao?c) Lòng dạn dĩ trong khi cầu nguyện. Sự thành tín của Đức Chúa Trời cũng ban cho ta lòng dạn dĩ trong lúc cầu nguyện. Bởi vì khi chúng ta viện lấy lời hứa của Đức Chúa Trời mà cầu xin điều gì, thì lòng thành tín của Ngài khiến cho ta được đức tin mạnh, đến nỗi cứ nài xin cho đến kỳ nhận được. Bằng chẳng nương cậy nơi sự thành tín của Đức Chúa Trời, thì sự cầu nguyện mình nhận được hay không cũng hóa ra một sự mơ màng khó hiểu, chẳng ai dám chắc rằng lời hứa ấy Chúa sẽ làm ứng nghiệm cho mình hay không. Nhưng biết Ngài là chân thật không hề giả dối, lại là rất thành tín, thì lòng tự nhiên tin mình chắc nhận được điều mình cầu xin đó vậy. Kinh Thánh chứng rằng:Es 65:24; Thi 50:15; Thi 91:15; IGi 5:14 Chương 7: LUẬN VỀ BA NGÔI HIỆP MỘT ĐỨC CHÚA TRỜIĐức Chúa Trời là một thể, nhưng chia ra làm ba Ngôi. Lẽ đạo ấy rất sâu nhiệm, không thể lấy tri thức loài người mà đo lường được, cũng không thể nhờ vật lý mà chứng nghiệm được nữa; duy nhờ sự khải thị trực tiếp cũa Đức Chúa Trời trong Kinh Thánh mới biết được thôi. Lẽ đạo Ba Ngôi chẳng luận về sự thật hữu cũa Đức Chúa Trời, bèn luận về trạng thái của thực hữu ấy (Modallité D’exist Ence). Tra cứu Kinh Thánh thì thấy trong đó theo hai phương diện mà luận về Đức Chúa Trời: mặt nầy thì bầy ra Đức Chúa Trời độc nhứt vô nhị: mặt kia thì tỏ ra ba Đấng đều được xưng là Đức Chúa Trời cả, gọi Cha,Con và Thánh Linh. Tuy ba Đấng ấy đặc biệt chẳng lẫn lộn nhau, thì cũng rõ lắm là ba Ngôi hiệp lại trong một thể yếu rất diệu rất cao. Lẽ đạo này, tuy ngộ tánh phàm nhân không thể thấu rõ nổi, thì nó cũng chẳng tự tương mâu thuẫn đâu, bèn là cái chìa khóa mở ra sự mầu nhiệm của các lẽ đạo khác, tín đồ có linh giác bao giờ cũng vui lòng công nhận là chánh giáo đáng tin đáng nhận mọi bề vậy.I. KINH THÁNH LÀM CHỨNG CHO ĐẠO BA NGÔIMuốn kiếm xác chứng về lẽ đạo Ba ngôi thì phải khảo cứu Kinh Thánh. Trong cõi thiên nhiên có bằng chứng về sự thực hữu của Đức Chúa Trời; nhưng chẳng có bằng cớ nào chứng cho lẽ đạo Ba ngôi. Chỉ Kinh Thánh đem xác cứ mà chứng rằng Đức Chúa Trời vốn độc nhất mà lại vẫn là tam vị. Dầu vậy,Kinh Thánh chẳng chỗ nào trực tiếp nói rằng Đức Chúa Trời có ba ngôi, duy ngụ ý dạy lẽ đạo ấy thôi. Nhưng chúng ta có thể nói chắc chắn rằng hễ ai chẳng nhận Kinh Thánh quả đã dạy lẽ đạo ấy, thì cũng chẳng có thể hiểu được Kinh Thánh dạy lẽ gì cả.1. Cựu Ước làm chứngDiệu nghĩa của lẽ đạo Ba ngôi là lẽ đạo khải thị, lần lần bày tỏ ra trong bộ Kinh Thánh. Trong Cựu Ước dầu chưa nói rõ ràng,cũng có nhiều đoạn ám chỉ đến, hoặc bằng lời nói hay là bằng hình bóng. Các bằng chứng của Cựu Ước như sau nầy:a) Danh từ đa số.Chúng ta thử mở Kinh Thánh ra mà xem quyển đầu, đoạn đầu, câu đầu, thì thấy rằng:“ Ban đầu Đức Chúa Trời dựng nên trời đất.” Trong nguyên văn Hê-bơ-rơ danh Đức Chúa Trời đây là Elohim, một danh từ đa số (pluriel) ; chữ “dựng nên” là bara,một động từ đơn số (singulier). Danh từ Elohim ấy minh chứng rằng về phương diện trạng thái thực hữu, thì Đức Chúa Trời chẳng phải đơn vị, bèn là đa số, chia ra nhiều Ngôi; còn sự dùng động từ bara theo lối đơn số, ám chỉ rằng các Ngôi ấy đều đồng hiệp như một mà làm việc vậy.b) Đại danh từ đa số.Trong Cựu Ước Đức Chúa Trời thường dùng đại danh từ đa số “chúng ta” mà tự xưng. Sa 1:26 có chép: “Đức Chúa Trời phán rằng: Chúng ta hãy làm nên loài người như hình ta và theo tượng ta.” (Cũng xem Sa 3:22; Sa 11:7; Es 6:8). Cách dùng đại danh từ ấy cũng ám chỉ về lẽ đạo Ba ngôi, chứng rằng trong thể yếu Đức Chúa Trời có đa số.c) Thiên sứ của Giê-hô-va.Trong Cựu Ước có nói đến một Vị gọi là thiên sứ của Giê-hô-va. Vị ấy thường hiện ra cho các thánh tổ xưa, nhơn danh Giê-hô-va mà phán, tự xưng mình là chính Giê-hô-va; cũng được kẻ khác nhận là Giê-hô-va, và chịu cho họ thờ lạy mình nữa.Những câu Kinh Thánh kể sau đây luận về Vị ấy:Sa 22:11, Sa 22:16,17; Sa 31:11,13 Sa 16:9,13. (Cũng xem Sa 48:15,16; Xu 3:2,4,5; Cac 13:20-22)Vậy, thiên sứ của Giê-hô-va là ai? Kê cứu các đoạn sách nói đến Vị ấy, thì dễ biết rằng chẳng phải một vị thọ tạo đâu,bèn chắc là Ngôi thứ hai trong ba Ngôi Đức Chúa Trời, là Đạo (Logos), là Christ trước khi giáng sanh, đã từng hồi từng lúc mượn hình loài người mà hiện ra trong đời (Xem Sa 18:2,13; Dan 3:25,28). Trong Tân Ước cũng có một vị gọi là thiên sứ của Chúa, nhưng vị ấy khác với vị của Cựu Ước; vì vị của Cựu Ước đòi và nhận sự thờ phượng; còn vị trong Tân Ước không cho phép ai thờ lạy mình, chỉ bảo người ta phải thờ phượng Đức Chúa Trời mà thôi. (Xin sánh Xu 3:5 với Kh 22:8,9)d) Sự khôn ngoan.Trong Châm ngôn đoạn 8 có nói về sự khôn ngoan, bày tỏ vị ấy như có vị cách, từ trước vô cùng đồng thực hữu với Đức Chúa Trời, có tánh cách và thể yếu của Ngài.Ch 8:1 (Xin sánh với Mat 11:19; Lu 7:35; Lu 11:49).Ch 8:22; Ch 8:30,31Trong Ch 3:19 cũng chép rằng:“Giê-hô-va dùng sự khôn ngoan lập nên trái đất.” (Xin sánh với He 1:2). Xem kỹ những câu ấy, thì rõ lắm danh từ “khôn ngoan” đây chẳng nói về quan niệm khôn ngoan đâu; nhưng chắc ám chỉ về Christ, Ngôi thứ hai trong Ba ngôi Đức Chúa Trời.Vị ấy “là Đấng mà Đức Chúa Trời đã làm nên sự khôn ngoan… cho chúng ta” vậy (ICo 1:30).e) Lời dự tả Mêsi.Cựu Ước có nhiều câu dự tả Đấng Mêsi, tỏ ra Ngài tuy hiệp nhứt với Giêhôva, thì cũng là một Đấng đặc biệt, có Ngôi riêng không lẫn lộn với Đức Chúa Trời. Các câu viện dẫn sau đây ám chỉ rằng Đức Chúa Trời và Đấng Mê-si là một mà lại là hai, tuy là nhứt thể mà lại phân vị, mỗi Đấng mỗi phẩm cách, mỗi ý chỉ riêng vậy.Es 9:5,6; Mi 5:1; Thi 45:6,7; Mal 3:1Tóm lại, điều Kinh Cựu Ước khải thị về lẽ đạo Ba ngôi, thì ta phải nhận rằng Cựu Ước chỉ ám chỉ đến lẽ thật ấy, chớ chẳng minh huấn Đức Chúa Trời có Ba ngôi đâu; nhưng lẽ đạo ấy, quả tiềm tàng trong đó như hột giống, chỉ nhờ cơ hội Tân Ước để nảy nở ra đó thôi.2. Tân Ước làm chứng.Duy Tân Ước khải thị rõ ràng lẽ đạo về Ba ngôi Đức Chúa Trời, nhận rằng có ba Đấng đặc biệt gọi là Đức Chúa Trời. Sau đây xin dẫn bằng cớ để chứng cho.a) Cha được nhận là Đức Chúa Trời. Tân Ước luận rất rõ ràng Cha là Đức Chúa Trời, có nhiều câu làm chứng cho; sau đây xin chỉ viện dẫn hai câu mà thôi:Gi 6:27; IPhi 1:2b) Jêsus Christ được nhận là Đức Chúa Trời. Tân Ước cũng có nhiều câu hiển nhiên xưng Jêsus Christ là Đức Chúa Trời.Gi 1:1; Ro 9:5; Tit 2:13; He 1:8; IGi 5:20c) Thánh Linh được nhận là Đức Chúa Trời.Tân Ước lại có nhiều đoạn sách xưng Thánh Linh là Đức Chúa Trời, gọi Ngài là Thánh Linh của Đức Chúa Trời hay là của Jêsus Christ:Cong 5:3-4; ICo 3:16; ICo 6:19. (Cũng xem ICo 12:4-6)d) Lễ nghi Báp têm và lời chúc phước chỉ tỏ ba Ngôi. Khi Jêsus Christ dạy môn đồ về cách phải làm báp têm cho người ta, thì ngầm chứng cho lẽ đạo ba Ngôi, vì chỉ bảo nhân danh Cha, Con, và Thánh Linh mà làm lễ ấy (Mat 28:19). Lời Phao-lô chúc phước cho tín đồ Cô-rinh-tô cũng chứng cho lẽ đạo ấy nữa:Mat 28:19; IICo 13:19. Cũng sánh các câu ấy với Dan 6:24-27 và Es 6:3.Xem những bằng chứng ở trên, thì rõ lắm trong Tân Ước có giới thiệu ba Đấng, gọi là Cha, Con, và Thánh Linh; cả ba đều được xưng là Đức Chúa Trời, có đồng tánh, đồng cách, đồng thể, đồng căn, đồng đẳng với chính Đức Chúa Trời. Theo cách Kinh Thánh mô tả ba Đấng ấy, thì buộc phải nhận là luận về ba Ngôi đặc biệt hiệp nhất trong một thể yếu. Bằng chẳng nhận như thế, thì giáo huấn của Kinh Thánh rất mơ hồ, câu này phản đối với câu kia,không còn thể nào ai hiểu nổi được nữa.II. BA NGÔI HIỆP MỘT THỂ1. ĐỊNH NGHĨACăn nguyên của lẽ đạo ba Ngôi là Duy nhất thần chủ nghĩa. Ba ngôi Đức Chúa Trời chẳng phải là ba Thần đặc biệt, bèn là ba Ngôi ở trong một thể yếu. Chữ Ngôi đây chẳng đồng nghĩa mười phần với ý nghĩa chữ ngôi thường thông dụng cho cá nhân loài người. Bởi vì mỗi ngôi riêng trong vòng loài người là mỗi cá nhân đặc biệt, có bản tánh và thể yếu khác nhau. Nhưng Đức Chúa Trời có ba Ngôi ở trong một bản tánh, một thể yếu, và sự nhứt thể ấy định nghĩa riêng cho chữ “ngôi” đó, bất đồng với chữ “ngôi” của loài người. Có thể nói rằng ngôi của ông Xoài bất đồng mọi bề với ngôi của ông Mít, đến đỗi thể yếu của ông nầy chẳng tương quan với thể yếu của ông kia chút nào. Song trong Đức Chúa Trời ba Ngôi đều do trong một thể yếu mà ra, có một bản tánh và chính là trạng thái về sự thực hữu của Đức Chúa Trời duy nhứt. Dầu vậy, ba Ngôi ấy chẳng lẫn lộn nhau, mỗi Ngôi đều đặc biệt, đứng độc lập, có các nguyên tố của Ngôi riêng.Bài tín điều Athanase (thế kỷ IV) minh chứng cho ý nầy rằng: “Cha là Đức Chúa Trời, Con là Đức Chúa Trời, Thánh Linh cũng là Đức Chúa Trời; dầu vậy, chẳng có ba Đức Chúa Trời, duy chỉ có một mà thôi. Cũng một thể ấy, Cha là Chúa, Con là Chúa, Thánh Linh cũng là Chúa; dầu vậy, chẳng có ba Chúa, duy có một mà thôi. Như lẽ thật của Cơ đốc giáo buộc chúng ta phải nhận rằng mỗi Ngôi trong ba Ngôi Đức Chúa Trời đều cả thảy là Đức Chúa Trời và là Chúa thể nào, thì chính lẽ thật ấy nghiêm cấm chúng ta nói rằng có ba Đức Chúa Trời hoặc ba Chúa cũng thể ấy.”Xét về ba người riêng trong nhân loại, thì thấy họ có thể yếu chỉ giống như nhau mà thôi; còn ba Ngôi Đức Chúa Trời đồng có một thể yếu duy nhứt vô phân. Cả thể yếu duy nhứt ấy đều thuộc riêng về mỗi Ngôi, đến đỗi Ngôi nào cũng đều có cả thể yếu, cả thần cách, cả thần đức của Đức Chúa Trời vậy. Cho nên sự đa số trong Đức Chúa Trời chẳng thuộc về thể yếu, bèn là thuộc về Vị cách mà thôi. Chúng ta chẳng nên nói: Đức Chúa Trời là ba Ngôi và một thể yếu: bèn nên nói: Đức Chúa Trời là ba Ngôi trong một thể yếu. Còn thể yếu duy nhứt ấy thực hữu theo ba trạng thái gọi là Cha, Con, và Thánh Linh vậy.2. CÁC CHỨNG CỚ VỀ BA NGÔI HIỆP MỘT THỂ:Những bằng cớ sau đây minh chứng cho sự hiệp nhứt của ba Ngôi Đức Chúa Trời.a. Kinh Thánh chứng rằng Đức Chúa Trời duy nhứt.Kinh Thánh thường tả ra Đức Chúa Trời là độc nhứt vô nhị. Chính Ngài hằng bảo tuyển dân Ngài rằng:Phu 6:4; IVua 8:60Gia cơ cũng dạy rằng: Gia 2:19 “Ngươi tin rằng Đức Chúa Trời duy nhứt, ngươi tin phải; các quỉ cũng tin vậy mà run sợ.”b. Jesus Christ làm chứng:Chúa Jesus Christ thường làm chứng rằng Ngài với Cha đều hiệp làm một:Gi 10:30; Gi 17:23; Gi 14:9; Gi 14:11Chúa Jesus Christ lại chứng rằng Thánh Linh cũng hiệp làm một với Cha và Con nữa:Gi 14:18; Gi 15:26c. Sự tương quan Ngôi nầy với Ngôi kia làm chứng: Ai ai cũng biết rằng mọi vật đều bởi Đức Chúa Trời (tức Cha) dựng nên, như có chép rằng: “Ban đầu Đức Chúa Trời dựng nên trời đất.”(cũng xem Xu 20:8-11) Song nếu khảo cứu Kinh Thánh cho kỹ, thì lại thấy Con cũng dự phần đến cuộc tạo hóa, như trước giả thơ Hê-bơ-rơ đã dạy rằng: He 1:1-3Thế mà, Con không những dự phần vào cuộc tạo hóa thôi đâu, lại dự đến mọi công việc khác của Cha làm nữa (Gi 5:17,19); hoặc việc bảo tồn muôn vật (He 1:3), hoặc việc cứu chuộc (IICo 5:19; Tit 2:10), hoặc việc phán xét (He 12:23; Gi 5:22; Cong 17:31), thì Ngài đều dự đến cả.Gi 5:17,19; He 1:3 viện dẫn ở trên. IICo 5:19; Tit 2:10; He 12:23; Gi 5:22; Cong 17:31Ấy vậy, ta thấy công việc Cha làm cũng gọi là công việc của Con, và công việc Con làm cũng gọi là công việc của Cha; lại chức nhiệm của Cha cũng đồng xưng là chức nhiệm của Con nữa. Thực sự ấy há chẳng chứng minh rằng Cha và Con dầu là hai lại là một, dầu là một lại là hai sao?Kinh Thánh cũng có nhiều chỗ tỏ cái tương quan của Ngôi Cha với Ngôi Con là thế nào, thì cái tương quan của Ngôi Thánh Linh với Ngôi Cha Con cũng thế ấy. Giăng dạy rằng Con đến thế gian cốt để bày tỏ lẽ thật về Cha (Gi 1:18) Chính Chúa dạy Philip rằng thấy Con tức là thấy Cha vậy (Gi 14:9). Còn về Thánh Linh thì Chúa chứng rằng, Ngài đến cốt để bày ra lẽ thật về Con (Gi 16:13,14).Gi 1:18; Gi 14:9; Gi 16:13,14;Trong thơ Êphêsô cũng ám chỉ về sự tương quan của Ba Ngôi Đức Chúa Trời, tỏ ra mỗi Ngôi có tương quan với chúng ta nữa: Eph 4:6Cũng vì sự tương quan ấy mà Phao-lô xưng Christ là Thần Linh, lại xưng Thánh Linh vừa là Linh của Christ, vừa là Linh của Đức Chúa Trời:ICo 15:45; IICo 3:17; Ga 4:6; Phi 1:19; Kh 5:6Ấy vậy, ta thấy rõ Cha, Con và Thánh Linh, cả ba đều đồng kêu tên, đồng một việc, có tương quan rất thân mật với nhau. Còn điều đó há chẳng chứng minh rằng Đức Chúa Trời là Ba mà Một, Một mà Ba sao?III. BA NGÔI BÌNH ĐẲNG NHAUKê cứu Kinh Thánh thì thấy Ba Ngôi Đức Chúa Trời dường như có thứ bực, vì trong đó tỏ ra Cha là Ngôi thứ nhất, Con là Ngôi thứ hai, và Thánh Linh là Ngôi thứ ba. Vậy, về thời gian, về quyền năng, về chức vị, thì trong ba Ngôi ấy há có chia ra trước sau, lớn nhỏ, hơn kém không? Đáp:Chẳng có đâu; vì Đức Chúa Trời là duy nhứt, chia ra ba Ngôi trong một thể yếu,đến đỗi Ngôi nào cũng là Đức Chúa Trời trọn vẹn, nên giữa ba Ngôi ấy chẳng có thể có sự bất đồng, bèn phải có sự bình đẳng mọi bề mới hữu lý.1. VỀ THỜI GIAN:Luận về thời gian thì trong ba Ngôi Đức Chúa Trời chẳng có trước sau, vì cả ba đều đồng thực hữu từ trước vô cùng. Song có kẻ nói: “Nếu vậy, thì sao gọi Christ là Con độc sanh của Đức Chúa Trời? Bởi vì hễ gọi là Con, thì phải có lúc Con sanh ra chớ?”Ta đáp rằng: Tuy Ngôi thứ nhứt gọi là Cha,và Ngôi thứ hai gọi là Con độc sanh của Cha (Gi 1:14–16), thì danh từ ấy chẳng ám chỉ về sự khởi đầu thực hữu, bèn chỉ về sự tương đối đời đời của Con với Cha. Nếu xem xét bản tánh của Đức Chúa Trời thì dễ hiểu hơn. Đức Chúa Trời thực hữu đời đời, chẳng có lúc nào mà Ngài không có. Vả, trong thể yếu Đức Chúa Trời đã có ba Ngôi, là Cha, Con và Thánh Linh. Nếu Đức Chúa Trời thực hữu đời đời,thì ba Ngôi ấy tự nhiên cũng thực hữu đời đời vậy. Nói cách khác, nếu Ngôi Cha chẳng khi nào khởi đầu thực hữu, bèn vẫn có từ trước vô cùng, thì Ngôi Con cũng chẳng hề bắt đầu sanh ra, bèn cũng thực hữu từ trước vô cùng vậy. Vì nếu chẳng có lúc nào mà không có Ngôi Cha, thì cũng chẳng khi nào mà không có Ngôi Con.Giả như nếu có một mặt trời gọi là mặt trời đời đời, thì tự nhiên cũng phải có ánh sáng đời đời để tỏ ra mặt trời ấy mới hữu lý. Vì nếu chẳng có ánh sáng, thì cũng chẳng có mặt trời. Cũng vậy, nếu Ngôi Cha, vốn là nguồn sự sáng đời đời,đã thực hữu từ đời đời, thì Ngôi Con, vốn là sự chói lói của sự sáng ấy, cũng đã thực hữu từ đời đời vô cùng vậy. Cho nên Ngôi thứ nhứt và Ngôi thứ hai đều là thực hữu đời đời cả, từ trước vô cùng Ngôi nầy vẫn là Cha, Ngôi kia vẫn là Con, chẳng chia ra trước sau gì cả.Về Thánh Linh cũng vậy. Tuy Ngôi thứ ba từ Cha mà ra (Gi 15:26) và bởi Cha và Con mà sai xuống đời, thì lời ấy bất quá là luận về thời gian Ngôi thứ ba hiện ra cùng loài người, chớ chẳng dạy rằng lúc Ngài giáng lâm thì mới bắt đầu thực hữu đâu. Thánh Linh là một Ngôi trong ba Ngôi Đức Chúa Trời. Nếu Đức Chúa Trời, vốn chia ba Ngôi trong một thể yếu, đã thực hữu từ trước vô cùng, thì Thánh Linh là Ngôi thứ ba cũng thực hữu thể ấy.Thế thì, chúng ta thừa nhận rằng về phương diện thời gian, thì ba Ngôi Đức Chúa Trời chẳng chia ra trước sau trên dưới, bèn là đồng thời và bình đẳng nhau mọi bề.ITi 1:17; Gi 1:1; Gi 8:58; He 9:142. VỀ QUYỀN NĂNGLuận về quyền năng của ba Ngôi Đức Chúa Trời,thì Kinh Thánh dạy rõ chẳng có chia ra lớn nhỏ, cả ba đều có quyền năng bằng nhau. Song có kẻ hỏi rằng: “Chúa Jesus Christ đã xưng Cha là lớn hơn mình (Xem Gi 14:28; Mac 13:32). Vậy, trong ba Ngôi há chẳng có sự phân ra lớn nhỏ sao?”Ta đáp: Chúa Jesus thật có xưng Cha là lớn hơn mình; nhưng sự lớn nhỏ ấy chẳng thuộc về thể yếu của thần tánh; bèn thuộc về phận sự và thứ tự trong động tác của Ba Ngôi vậy. Có thể nói rằng: Trong động tác của ba Ngôi mỗi Ngôi đều có bổn phận, mà thứ tự thực hành bổn phận của Ngôi nầy Ngôi kia thì có trước sau; nhưng sự trước sau ấy chẳng do sự hơn kém trong thể yếu đâu. Cả Kinh Thánh đều minh chứng rằng hoặc Cha, hoặc Con, hoặc Thánh Linh, cả Ba đều là vô sở bất năng, vốn không phân biệt lớn nhỏ chút nào, bèn bình đẳng nhau cả (Xem các câu Kinh Thánh viện dẫn trong phần II, c.).3. VỀ CHỨC VỊLuận về chức vị của ba Ngôi Đức Chúa Trời, thì cũng chẳng có sự chia ra cao thấp. Cha, Con và Thánh Linh thật có tâm chí, vị cách và công việc khác nhau, song cả Ba đều đồng linh, đồng thể, đồng tánh, chớ chẳng có sang hèn, cao thấp khác nhau đâu. Song có kẻ hỏi: “Nếu trong Đức Chúa Trời có Cha, Con và Thánh Linh, thì há chẳng nhờ đó chia ra cao thấp sao?”Ta đáp rằng: Chữ Cha Con đây không nên câu nệ theo nghĩa chữ cha con thế gian. Về cha con của loài người, thì cha vẫn có trước con; con thì bắt đầu mà có từ khi cha sanh hạ nó, có thể yếu khác với cha, và đối với đời thì con đứng về bực dưới cha. Nhưng về ba Ngôi Đức Chúa Trời thì khác.Cha và Con từ đời đời đồng thực hữu. Cha sanh Con từ trước vô cùng, cả hai Ngôi đều một thể yếu, đều gọi là Đức Chúa Trời trọn vẹn. Trong giống loài người con nhờ cha sanh mới có. Song trong Ba Ngôi Đức Chúa Trời chẳng như vậy đâu; như Cha không nương dựa Con mà thực hữu thể nào, thì Con cũng không nương dựa Cha mà thực hữu cũng thể ấy, đến nỗi nếu là xứng hiệp cho Thần thể yếu làm Cha, thì cũng xứng hiệp cho Thần thể yếu làm Con vậy. Song nói cách khác, thì Cha cũng phải nương dựa Con để làm Cha, cũng như Con phải nương dựa Cha để làm Con vậy.Vì nếu trong Thần thể yếu chẳng có Con, thì cũng chẳng có thể có Cha. Cho nên chỗ tương quan Cha Con trong Ba Ngôi Đức Chúa Trời đã chẳng tương tợ với sự sanh hóa của loài người, thì cũng chẳng tại danh từ ấy mà chúng ta dám đoán rằng trong chức vị Cha Con có sự sang hèn, cao thấp.Về Thánh Linh cũng vậy, Ngôi ấy từ trước vô cùng là Ngôi thứ ba, từ Cha và Con mà lưu ra, từ vĩnh viễn vốn là Linh của Cha và của Con, gọi là Linh của Đức Chúa Trời và của Christ vậy. Cho nên chúng ta quyết rằng: Cha, Con và Thánh Linh về thể yếu, chức vị, thần tánh, thần đức, thần quyền, thì đều bình đẳng cả, chẳng có chỗ nào gọi là trước sau, cao thấp, hoặc khác nhau gì hết. Nhưng về Ngôi riêng, về bổn phận và việc làm thì có thứ tự trước sau: Cha là Ngôi thứ nhứt, Con là Ngôi thứ hai, Thánh Linh là Ngôi thứ ba. Cha dự định, Con thực hành, Thánh Linh thành toàn; trong cuộc hành động thì Cha dùng Con; rồi Cha và Con cùng dùng Thánh Linh để làm xong các sự dự định của Cha vậy.IV. LẼ BA NGÔI HIỆP MỘT RẤT MẦU NHIỆMTrước khi chưa luận về lẽ đạo Ba Ngôi Đức Chúa Trời, thì thấy huyền bí sâu nhiệm lắm; mà luận xong rồi, cũng vẫn còn thấy lẽ đạo rất cao siêu, khó cho ngộ tánh ta hiểu thấu nổi.1. KHÔNG CÓ SỰ LÝ GÌ MÀ VÍ DỤ CHỈ RÕ ĐƯỢCCó kẻ ví dụ Cha, Con và Thánh Linh như cây có gốc, nhánh, và quả; mặt trời có hình, ánh sáng và nóng; vật có hình, sắc có màu; không gian có bề dài, bề rộng, bề cao; loài người có ba nguyên tố, là xác,hồn và linh. Các ví dụ ấy cốt để phát biểu lẽ đạo Ba Ngôi hiệp một; nhưng các sự lý ấy tuy bày tỏ hình bóng của ý niệm ba trong một, một trong ba, thì cũng chẳng có thể biểu minh hết được đạo màu nhiệm ấy; trong cả cõi vật chất chẳng có cái gì làm ví dụ trọn vẹn về Ba Ngôi Đức Chúa Trời được. Nếu có dùng ví dụ nào, thì phải cẩn thận, dùng lấy nó làm căn cứ cho lẽ đạo ấy, e sai lầm lớn chăng.2. KHÔNG THỂ LẤY LÝ TƯỞNG MÀ SUY HIỂU:Ta cũng chẳng có thể lấy lý tưởng mà biết được lẽ đạo mầu nhiệm này; duy phải nhờ lời khải thị của Kinh Thánh, và đức tin nhận lời ấy, mới mong biết được. Bởi vì lẽ đạo này rất huyền diệu cao siêu, trí khôn của người đời suy xét không nổi. Nhưng mà dẫu là lẽ đạo huyền diệu thật, thì cũng không dám kể là huyền nghi vô bằng mà không đáng tin đâu. Ta thường thấy trong loài sanh vật, từ bực hạ lên đến bực trung, bực thượng; hễ vật loại có cơ quan càng nhiều chừng nào, thì tinh thần càng lớn chừng nấy, đến nỗi sanh vật hạng dưới khó hiểu bản tánh của sanh vật hạng trên.Vả, Đức Chúa Trời về mọi phương diện đều là lớn hơn loài người khôn xiết kể. Thần tánh, thần cơ, thần linh của Ngài xứng hiệp với Thần cách Ngài, vượt quá ngộ tánh của ta, cũng như nhân cách của mình vượt quá trí hiểu của thú vật vậy. Cho nên, nếu ngộ tánh ta chẳng nhờ lý tưởng mà hiểu thấu lẽ đạo Ba Ngôi được, thì có lạ gì đâu? Trái lại điều ấy rất tự nhiên, vì nếu chúng ta hiểu thấu mọi sự của bản tánh Đức Chúa Trời, thì chúng ta đã đồng bực với Ngài rồi; mà nếu đồng bực với Ngài thì chính chúng ta là Đức Chúa Trời rồi.Vậy, thì còn thờ phượng Ngài làm chi?3. KHOA HỌC CŨNG KHÔNG THỂ GIẢI NGHĨA:Khoa học cũng chẳng cắt nghĩa về lẽ đạo Ba Ngôi được. Tuy có kẻ dám nói rằng hễ điều nào không lấy lẽ bác học thực nghiệm mà cắt nghĩa, vẫn vô bằng chẳng đáng tin, thì tín đồ cũng chẳng cần đến khoa học để giải bày sự lý về lẽ đạo ấy, vì thật điều đó hẳn bất năng mọi bề. Song đạo ấy chẳng phải là vô bằng vô lý đâu. Nó được khải thị cho ta cách thích hiệp với sự từng trải của ta.Vả, chúng ta theo luật tiệm tấn mà học hiểu mọi sự mình có thể hiểu thấu được, hoặc là sự thuộc thể hay là sự thuộc linh cũng vậy. Tra xem Kinh Thánh thì rõ ràng lẽ đạo nào cũng từ rẽ đến mắc, từ cạn đến sâu. Cựu Ước khải thị Đức Chúa Trời duy nhứt vô phân. Từng hồi từng lúc các trước giả bộ ấy đều dường như ám chỉ về lẽ đạo Ba Ngôi, nhưng Cựu Ước chẳng minh huấn lẽ đạo đó đâu, chỉ nói đến cách lờ mờ mà thôi. Đến Tân Ước mới khải thị lẽ đạo ấy minh bạch. Trước hết có Jesus Christ tự xưng mình là Con Đức Chúa Trời, Đạo từ trời giáng sanh, nhận Đức Chúa Trời là Cha, và chính mình Ngài thì nhận quyền năng của Thánh Linh mà nói và làm. Đến khi chịu chết sống lại, mới được minh chứng rằng là Con Đức Chúa Trời có quyền năng. Trong Cựu Ước cũng nói về Linh của Đức Chúa Trời, nhưng đến Tân Ước mới rõ là Đấng có ngôi riêng, từ Cha và Con mà lưu ra. Còn từ ngày Lễ Ngũ tuần trở đi, Ngài được khải thị rõ là Ngôi thứ ba trong Ba Ngôi Đức Chúa Trời.Tín đồ chân thật cũng từng trải lẽ đạo nầy theo luật tiệm tấn dường ấy: trước hết lòng tín nhận Đức Chúa Trời độc nhất vô nhị, là Đấng dựng nên muôn vật, đáng cho mình thờ phượng. Kế sau tấn bộ đến sự tín nhận Jesus Christ, là Con Đức Chúa Trời, Cứu Chúa của mình. Sau nữa, tín đồ lại hiểu rằng muốn dự phần đến sự linh nghiệm của đạo Cứu rỗi, duy bởi nhờ Thánh Linh ứng dụng đạo ấy trong lòng của mình mới được thôi. Rồi từ đó trong lòng tín đồ chân thật lần lần có sự tấn bộ trong sự hiểu biết lẽ đạo về Cha,Con và Thánh Linh. Song dầu linh tánh thấu rõ đạo ấy, thì ngộ tánh có lẽ cũng chẳng có thể lấy lời nói mà cắt nghĩa được, vì lẽ đạo người thuộc linh khả năng tín, song bất năng minh thuyết vậy.V. CÁC TÀ THUYẾT VỀ LẼ ĐẠO BA NGÔITừ cổ chí kim có lắm giáo sư xướng lên những tà thuyết về Ba Ngôi Đức Chúa Trời. Sau đây xin luận qua những tà thuyết quan hệ hơn hết.1. TÀ THUYẾT VỀ BA CÁCH THỨC HIỆN RATrong thế kỷ III có nhà thần đạo Sabellius xướng lên tà thuyết về Ba Ngôi Đức Chúa Trời , dạy rằng ba Ngôi một thể chỉ là ba cách thức Đức Chúa Trời bày tỏ mình ra với loài người, chớ trong thần thể yếu của Đức Chúa Trời chẳng có ba Ngôi đặc biệt đâu. Theo ý kiến nầy, trong cuộc tạo hóa Đức Chúa Trời tỏ mình ra bằng Cha; trong cuộc cứu chuộc Ngài tỏ mình ra bằng Con; còn trong việc ban sự sống, gây dựng Hội Thánh, thì Ngài lại tỏ mình ra bằng Thánh Linh.Thuyết này rất sai lầm vì trái ý Kinh Thánh mọi bề. Kinh Thánh dạy rằng Christ, Ngôi thứ hai, thực hữu trước khi chưa giáng sanh (Gi 1:18; Phi 2:6; Co 1:17); kỳ thực, trước buổi sáng thế Cha Con đã giao thông với nhau, yêu thương nhau (Gi 17:5,24). Còn Thánh Linh, Ngôi thứ ba, cũng thực hữu trước khi chưa có tín đồ hay là Hội Thánh (Sa 1:2). Lại khi Cha phán cùng Con rằng: “Ngươi là Con yêu dấu của ta” (Lu 3:22), thì há phải Cha lại phán cho chính mình Cha sao? Còn khi Christ hứa sai Thánh Linh xuống, thì há lại hứa sai chính mình xuống đấy ư? Nói như vậy thật vô lý quá chừng.Gi 1:18; Phi 2:6; Co 1:17; Gi 17:5,242. TÀ THUYẾT ARIUSArius (thế kỷ IV) quê ở Alexandrie, xướng rằng chỉ một mình Cha là Đấng vô thủy. Con và Thánh Linh không bằng Cha, bèn được dựng nên trước buổi sáng thế, Christ được xưng bằng Đức Chúa Trời, vì thứ bực Ngài là thứ hai đứng sau Đức Chúa Trời, được Đức Chúa Trời ban cho thần quyền để làm việc tạo hóa, cũng do Ngài mà muôn vật được dựng nên vậy.Lý thuyết ấy rất phản đối Kinh Thánh. Vì nếu Con và Thánh Linh đều là Vị thọ tạo, thì chắc hữu thủy, có lẽ cũng hữu chung nữa chăng. Một thần thọ tạo tự nhiên hữu thủy, và được dựng nên bằng thể yếu khác với thể yếu của Cha. Mà nếu bằng thể yếu khác, thì rõ lắm Con chẳng phải là Đức Chúa Trời, bèn là một vị thọ tạo đó thôi. Nhưng Kinh Thánh dạy rõ lắm Con và Thánh Linh đều là Đấng vô thủy vô chung:Gi 1:1; He 13:8;Còn trong He 9:14 trước giả gọi Thánh Linh bằng “Thánh Linh đời đời.”Tà thuyết Arius bị Công giáo nghị hội Nicée nhóm năm 325 S.C bài xích, cầm bằng tà giáo vậy.3. DUY NHỨT THẦN GIÁOGiáo nầy do hai chú cháu Lelio Socin (1525-1562) và Faust Socin (1539-1604) đề xướng. Hai nhà ấy chối thần tánh của Jesus Christ, coi Ngài chỉ là người, nhưng được xưng là Con của Đức Chúa Trời,vì trong sự sanh hạ của Ngài, mẹ Ngài được Thánh Linh cảm hóa cách riêng; như vậy Christ chỉ là người, chớ chẳng phải là Đức Chúa Trời đâu. Còn Đức Chúa Trời,theo ý kiến nầy, chỉ có một Ngôi mà thôi.Lý thuyết nầy giống như lý thuyết Arius, vì chối thần tánh của Christ; song cũng là khác, vì thuyết kia cho Christ tuy không phải là Đức Chúa Trời, thì cũng khác với loài người, được dựng nên trước sáng thế; nhưng thuyết duy nhứt thần nầy lại coi Ngài chỉ là người, song kể Ngài là trọn vẹn đệ nhứt trong cả dòng giống loài người vậy. Hiện nay Giáo hội Duy nhứt thần chủ trương học thuyết nầy.4. TAM THẦN THUYẾT:Thuyết nầy chủ trương rằng Ba Ngôi Đức Chúa Trời tức là ba Thần đặc biệt, có sự hiệp nhứt về tổ chức, nhưng chẳng có sự hiệp nhứt trong một thể yếu đâu. Như vậy, chẳng còn là Đức Chúa Trời trọn vẹn nữa,vì không thể nào có sự trọn vẹn ở trong ba Thần. Vì nếu có ba Thần thì phải chia sự trọn vẹn của Đức Chúa Trời ra làm ba, còn sự ấy là sự bất toàn; vì theo sự lý, hễ chi gọi là trọn vẹn mà bị chia ra từng phần, thì đều mất sự trọn vẹn liền vậy.VI. CÁI DIỆU DỤNG TRONG LẼ ĐẠO BA NGÔI1. CHÌA KHÓA CẦN YẾU TRONG LẼ ĐẠO BA NGÔI:Lẽ đạo Ba Ngôi là thần đạo ở trong thần đạo,là nguồn của lẽ thật, nền của ơn cứu rỗi, neo của đức tin. Nếu ta không tín nhận lẽ đạo Ba Ngôi, thì lời nói trong cả bộ Kinh Thánh chẳng qua là hoa trong gương, trăng dưới nước, chỉ thuộc về hư ảo đó thôi. Nhưng lẽ đạo nầy là gốc của đạo Christ, là chìa khóa của cả sự khải thị của Đức Chúa Trời. Hễ công nhận lẽ đạo nầy, thì bao nhiêu ảo lý khác đều dễ hiểu cả. Nếu Christ không phải là Đức Chúa Trời, thì Ngài không thể bày tỏ Đức Chúa Trời được, Cơ đốc giáo chẳng còn đáng gọi là sự khải thị chót, trọn vẹn, có một không hai của Đạo Đức Chúa Trời;duy là một tôn giáo trong nhiều tôn giáo bất đồng, phản đối nhau, bao hàm một ít lẽ thật, mà cũng lẫn lộn với nhiều sai lầm nữa đó thôi. Về Thánh Linh cũng vậy.Như chỉ có thể nhờ Đức Chúa Trời mà bày tỏ Đức Chúa Trời, thì người ta cũng chỉ có thể nhờ Đức Chúa Trời mà áp dụng Đức Chúa Trời cho mình. Nếu Thánh Linh không phải là Đức Chúa Trời, thì Đức Chúa Trời cũng chẳng có phương pháp nào đem tình yêu thương Ngài với các hạnh phước do bản ngã Ngài mà áp dụng vào lòng chúng ta được. Nói cách khác, nếu lẽ đạo Ba Ngôi không chân thật, thì chúng ta chỉ còn có thiên nhiên thần đạo, chỉ thờ phượng một Thần rất cao xa, không ai biết, nhờ cõi thiên nhiên tỏ ra cách lờ mờ khó hiểu; còn kết quả của sự thờ phượng ấy chỉ là dẫn chúng ta vào rừng rậm mù tối của tà giáo vạn hữu thần đó thôi.2. CẦN YẾU CHO PHƯỚC LẠC VÔ CÙNG CỦA ĐỨC CHÚA TRỜI:Ta thường thấy, nếu một người bị nhốt trong một phòng riêng, thì thật là đơn cô buồn tẻ không thể chịu nổi. Ấy bởi vì người ta ai ai cũng có thiên tánh giao thông. Hễ ai không được thỏa mãn bản tánh ấy,không thể nào làm người trọn vẹn. Vả, loài người đã được dựng nên giống Đức Chúa Trời. Nếu chúng ta chối lẽ đạo Ba Ngôi, thì cũng chối Đức Chúa Trời có nguyên tánh giao thông vậy. Xét ra một Đức Chúa Trời ở chốn thái hư một mình,không ai bạn hữu, không người thân yêu, thật là tình trạng khốn khổ vô cùng, ngộ tánh ta không sao nhận được ấy quả là nguyên trạng của Đức Chúa Trời trọn vẹn vô cùng đâu. Mà nếu trong Đức Chúa Trời không có Ba Ngôi, thì cũng chẳng có sự giao thông thân mật, chẳng ai bình đẳng với Ngài, cũng chẳng ai biết lòng Ngài,chẳng ai giúp việc Ngài, cũng chẳng ai bày tỏ Ngài ra cho ta hiểu biết được.Theo lẽ tự nhiên trong đời chẳng chi quý báu hơn tình yêu thương. Nếu trong cả thế giới chẳng có ai thương mình, thì mình há chẳng là người khốn khổ hơn hết sao? Dầu mình giàu có bốn biển mà chẳng có ai thương mình, thì chắc phải ngó núi cao mà tuôn lệ, trông biển rộng mà ngậm ngùi. Người như thế là lạc linh giữa thế gian đáng thương hại biết là dường nào! Song le nhờ đó chúng ta suy nghĩ ra: Đức Chúa Trời vốn là Đấng thương yêu vô hạn vô lượng; nếu không có Đấng khác cũng vô hạn vô lượng như Ngài, để cùng gần gũi, cùng yêu đương, thì ôi thôi, Đức Chúa Trời cũng là một vị Lạc Linh đáng thương thay! Song luận như vậy thật vô lý, lại là phạm thượng nữa! Trong Đức Chúa Trời có đủ Ba Ngôi bình đẳng nhau, vẫn giao thông nhau, yêu thương nhau, hiệp tác nhau cách thỏa lòng đồng ý. Kê cứu Ch 8:22-31 và Gi 17:5,24, thì biết được trước buổi sáng thế đã có sự giao thông, yêu thương cao xa thân mật của Ba Ngôi Đức Chúa Trời, làm cho Ba Ngôi ấy thỏa lòng phỉ chí vô cùng; về sau dầu tạo ra muôn ngàn thế giới, cũng không thêm bớt gì nữa.Ch 8:22,30; Gi 17:5,243. CẦN YẾU CHO ĐẠO CỨU RỖINếu Đức Chúa Trời chỉ độc nhứt chẳng có tam vị nhứt thể, thì làm sao nên công cứu rỗi? Vì ở giữa Đức Chúa Trời và vị thọ tạo cao hơn hết có cái vực rất rộng rất sâu; nếu Christ không phải là Đức Chúa Trời,ai sẽ làm trung bảo, chuộc tội ta, bắc cầu qua vực sâu ấy mà đem ta trở lại cùng Đức Chúa Trời? Christ đứng trong thứ bực nào, thì chỉ có thể đem chúng ta đến thứ bực ấy. Thứ bực ấy gần hay xa Đức Chúa Trời bao nhiêu, thì chúng ta nhờ Christ mà được gần hay xa Đức Chúa Trời cũng bấy nhiêu. Duy Đấng có thần tánh thật mới có thể khiến ta phục hòa với Đức Chúa Trời thôi. Ta vốn yếu đuối, có lòng bất khiết; song chỉ Đức Chúa Trời có thể ban sức cho ta, tẩy uế lòng ta. Một Đức Chúa Trời độc nhứt chẳng có phức số, có lẽ có thể làm Quan án ta, song chẳng có thể làm Cứu Chúa ta, khiến ta nên thánh bao giờ. Nhưng tạ ơn Đức Chúa Trời!Trong Ngài có phức số, là có Cha yêu thương vô hạn vô lượng; có Con làm Trung bảo,tỏ ra Cha, đem ta đến gần Đức Chúa Trời; có Thánh Linh thêm sức cho ta, lấy huyết của Christ mà tẩy uế lòng ta. Ba Ngôi ấy mới đủ nên công cứu rỗi ta vậy.Gi 3:16; Gi 1:18; IICo 5:18,19; Gi 16:7-114. CẦN YẾU ĐỂ LÀM MÔ PHẠM CHO TANếu trong Đức Chúa Trời chẳng có ba Ngôi,thì phận làm Cha của Đức Chúa Trời hữu thủy, có lẽ cũng hữu chung nữa; phận làm Con của Christ cũng tạm thời, về sau đây có lẽ sẽ hết chăng. Bằng vậy, phận làm Cha làm Con của Đức Chúa Trời đều bất toàn, chẳng có ích gì cho ta cả. Nhưng nếu phận làm Cha làm Con của Đức Chúa Trời đều thuộc về bản tánh vĩnh viễn của Ngài, thì làm mô phạm cho ta, chỉ dạy cho ta bổn phận của cha là hi sinh mình,ban mình nhưng không cho con; lại dạy ta bổn phận của con là vâng phục, yêu mến Cha. Còn luật yêu thương buộc ta phải giống như Đức Chúa Trời trong các sự ấy,coi phận sự đó là mục đích tối thượng của bản ngã mình. Nói cho đúng, nếu trong Đức Chúa Trời không có Cha, Con và Thánh Linh, thì chúng ta cũng chẳng có chỗ nào làm mô phạm về tình nghĩa cha con, về sự vì kẻ khác mà hi sinh mình, về sự yêu thương vâng phục, về sự giao thông thân mật hạnh phước.TỔNG LUẬNẤy vậy, lẽ đạo Ba Ngôi dầu là cao xa khó thấu,chẳng có thể lấy khoa học mà giải quyết, hoặc dùng triết lý mà chứng minh vì thật là sự mầu nhiệm trong sự mầu nhiệm của thần đạo, thì cũng chẳng phải là hư ảo vô bằng đâu; Đức Chúa Trời đã khải thị đạo ấy ra cách rõ ràng đích xác, đáng tin lắm, nên chúng ta chẳng dám lấy trí khôn hữu hạn mà dò lượng cạn cợt, phán đoán sai lầm, song nếu lấy lòng tin mà công nhận, thì chắc nghiệm lẽ thật quý báu ấy trong sự từng trải của mình, đến nỗi được giao thông với Cha, Con và Thánh Linh cách thân mật phước lạc vô cùng, đến nỗi chẳng có tí gì hồ nghi khó tin trong lòng mình nữa. CHƯƠNG 8: LUẬN VỀ CÁC CÔNG TÁC CỦA ĐỨC CHÚA TRỜIHễ ai đem ngộ tánh mà suy xét về muôn vật đầy dẫy trong vũ trụ bao la rộng rãi nầy, quả không khỏi phải nhận có Đấng Tạo hóa mới hữu lý. Nói về trái đất tuần hoàn, trăng sao luân chuyển, các tinh tú vô ý thức kia làm sao có sự hành động hữu ý thức? Luận về sự gây nên vật chất và nguyên lý của nó, gọi là tình cờ mà nên, há có lý ư? Còn luận về thế giới hữu hình và vô hình, há chẳng buộc phải nhận rằng nó cũng cần có chỗ nương dựa sao?Quả vậy, nếu lấy mắt xem qua, hẳn không thể nào không nhận rằng chắc phải có Đấng tạo vật, gìn giữ, cai trị, sửa sang mọi sự hoặc thuộc vật giới, hoặc thuộc linh giới cũng vậy. Sự khôn ngoan, quyền năng của Đấng Chủ tể ấy đã là vô hạn vô lượng,thì công việc lạ lùng của Ngài ai hiểu cho hết, ai xét cho rõ được? Chúng ta chỉ nhận tích tượng của muôn vật mà luận qua về thần công của Đấng Tạo hóa đó thôi.Chương tám nầy chia ra làm bốn loại, là (1) Nguyên chỉ của Đức Chúa Trời, (2)Công cuộc tạo hóa, (3) Sự bảo tồn, và (4) Thần hựu.I. NGUYÊN CHỈ CỦA ĐỨC CHÚA TRỜI1. ĐỊNH NGHĨAĐức Chúa Trời là Đấng Tạo hóa, dựng nên và bảo tồn muôn vật. Song công cuộc dựng nên và bảo tồn ấy trước có ý định, rồi sau mới nên công. Ví như thợ cả kia sắp sửa xây nhà, trước phải nhắm đo rộng, hẹp, dài,ngắn, mà trù liệu bao nhiêu cây gỗ, ngói, gạch, vôi, cát, rồi sau mới khởi công xây cất. Chí như muôn vật bề bộn diệu kỳ trong vũ trụ nầy, nào là thiên sứ, nào là loài người, nào là tinh tú, nào là địa cầu, nào là sự cứu rỗi, nào là sự xét đoán, nào là mọi việc khác, thảy thảy đều từ trước vô cùng ở trong ý tưởng Đức Chúa Trời mà liệu lý, sắp đặt có kế hoạch hẳn hòi, rồi khi thời gian đến, mới nên công mỹ mãn như tỏ ra trong cuộc quá khứ, hiện tại, và sẽ còn thực hiện trong cuộc tương lai nữa. Cái kế hoạch ấy thần học gọi là nguyên chỉ của Đức Chúa Trời. Đối với ngộ tánh ta, nguyên chỉ Đức Chúa Trời dường như phiền phức lắm,có nhiều thứ, được tỏ ra theo nhiều cách; nhưng trong ý tưởng Đức Chúa Trời các công việc Ngài đều gồm lại trong một kế hoạch trọn vẹn mà Ngài đã định từ trước vô cùng vậy.2. BẰNG CHỨNG VỀ NGUYÊN CHỈ CỦA ĐỨC CHÚA TRỜICó hai bằng cớ minh chứng cho nguyên chỉ của Đức Chúa Trời như sau đây.a) Lý chứng. Lý chứng do ba gốc mà ra:(1) Do sự biết trước của Đức Chúa Trời: Hễ chúng ta nhận Đức Chúa Trời biết trước mọi sự, thì cũng nhận rằng mọi sự từ trước vô cùng có sự cố định; còn sự cố định đó ám chỉ rằng phải có nguyên chỉ Đức Chúa Trời mới có sự cố định như thế. Từ trước vô cùng Đức Chúa Trời dự kiến các biến động của vũ trụ như là đã được cố định chắc chắn rồi. Sự cố định chắc chắn ấy không thể do vận mạng vô tình hoặc ý chỉ hay thay đổi của loài người mà nên;vì trong cõi từ trước vô cùng hai điều ấy chưa có. Duy có thể do tâm trí của Đức Chúa Trời, vì trong cõi đời đời chỉ có tâm trí của Ngài thực hữu và vận động mà thôi. Vả, sự cố định ấy cần phải có nguyên nhân; bởi vì nếu có điều gì thuộc về cuộc tương lai mà được nhứt định trước chắc chắn, thì há chẳng phải có một nguyên nhân nào nhứt định đó hay sao? Sự cố định ấy duy có thể do trong cái kế hoạch của Đức Chúa Trời dự định mà được nên đó thôi. Nói một lời, nếu Đức Chúa Trời dự kiến mọi sự thuộc về cuộc tương lai là những điều đã được quyết định chắc chắn rồi, thì há chẳng vì ý chỉ của Ngài đã khiến cho mọi sự ấy được quyết định chắc chắn như vậy ư? Vả, Đức Chúa Trời theo sự biết trước của Ngài mà dự định mọi sự như thế, ấy gọi là nguyên chỉ của Đức Chúa Trời, hay là kế hoạch mà Ngài đã liệu lý từ trước vô cùng. Hết thảy cuộc tạo hóa với sự kết quả của cuộc ấy, việc cứu chuộc với sự kết quả của việc ấy, đều ở trong kế hoạch đó, và gọi là do nguyên chỉ của Đức Chúa Trời mà được liệu lý và thành công cả.(2) Do sự khôn ngoan của Đức Chúa Trời. Sự khôn ngoan dạy rằng hễ muốn làm việc gì, thì rất cần lập một kế hoạch trước, mới mong đạt đến mục đích sở nguyện. Hễ công việc mình muốn làm càng quan hệ bao nhiêu, thì kế hoạch mình dự định lại càng cần yếu bấy nhiêu. Sự khôn ngoan cũng dạy rằng trong một kế hoạch như thế phải định trước mọi sự lớn và nhỏ, và dự bị mọi điều cho các hoàn cảnh thường hay bất thường mà mình sẽ gặp trong khi thực hành kế hoạch ấy. Xem xét các kế hoạch của loài người, thì thấy bất toàn lắm, bởi vì không phòng bị đủ cho các tình thế trạng huống bất thường xảy ra trong khi thực hành nó. Ấy tại sao? Há chẳng vì sự khôn ngoan của loài người cũng bất toàn và hữu hạn sao? Đối với kế hoạch của Đức Chúa Trời thì khác hẳn. Ngài là khôn ngoan vô cùng, nên Ngài chẳng những là lập kế hoạch cho vũ trụ mà thôi, lại làm ra một kế hoạch trọn vẹn mọi bề, bao hàm mọi sự, mọi vật, mọi biến động, đến nỗi việc nhỏ mọn hơn hết cũng đều được dự định cả.Giả như kiến trúc sư kia lãnh trách nhiệm xây cất một cung điện nguy nga nọ. Ông ấy chẳng ngu dại đến nỗi nếu chưa có kế hoạch mà lại dám khởi công xây cất; trái lại ông lập kế hoạch trước, rất kỹ lưỡng vẽ kiểu từng hòn đá, từng tấm ván, mọi điều nhỏ hoặc lớn, đâu đó hoàn toàn, rồi sau mới khởi công. Nhà họa sĩ trứ danh kia cũng chẳng vừa vẽ vừa định hình tượng mình muốn vẽ đâu; bèn là ý trước về hình tượng ấy, rồi mới mong làm việc may mắn tùy ý định ấy. Sự khôn ngoan của loài người còn dạy mình phải làm như thế thay,huống chi là sự khôn ngoan của Đức Chúa Trời! Ngài đã lập kế hoạch trọn vẹn cho cả vũ trụ; Ngài vốn dự kiến mọi sự, nên cũng phòng bị mọi sự can thiệp đến công cuộc thực hành nó, đến đỗi chẳng việc gì nhỏ hay lớn xảy ra trong cõi thời gian mà không được thuộc trong kế hoạch Ngài đã dự định đó vậy.(3) Do lòng từ ái của Đức Chúa Trời. Nếu các biến động của vũ trụ không do nguyên chỉ của Đức Chúa Trời dự định, thì chắc do cơ vận hay là ý chỉ của vật thọ tạo mà được nên. Nhưng xét qua lòng từ ái của Đức Chúa Trời, thì khó tin Ngài chịu cho năng lực gì vô ý thức, hay là ý chỉ rất bất toàn bất khiết của các vị thọ tạo được phép chủ trị các biến động của vũ trụ.Lòng từ ái của Đức Chúa Trời buộc Ngài không những là trù liệu mà tạo ra vạn vật thôi đâu, lại buộc Ngài khiến cho chúng nó phải kết quả trọn vẹn như ý Ngài đã định vậy. Nếu gọi vũ trụ nầy không do nguyên chỉ của Đức Chúa Trời mà được chủ trị, thì thật gớm ghê chẳng khác gì một đoàn xe lửa đầy hành khách kia chạy trong đêm tối mù mịt, không đèn lại không người cầm máy, chỉ cứ chạy mãi cho đến khi phải sa vào hầm sâu thẳm khốn nạn và tai hại vô cùng. Lòng từ ái của Đức Chúa Trời chẳng cho Ngài dựng nên vũ trụ, rồi sau đó bỏ mặc kệ cho nó chạy theo các cơ vận vô tình vô ý thức đó đâu, bèn buộc Ngài đem cả sự khôn ngoan, yêu thương, quyền năng của mình mà coi sóc, phù hộ, dẫn hướng, để nó theo thánh ý Ngài mà kết quả hạnh phước cho mọi loài thọ tạo vậy.b) Kinh Thánh làm chứng. Kinh Thánh theo ba phương diện mà minh chứng cho lẽ đạo nguyên chỉ của Đức Chúa Trời.(1) Đức Chúa Trời dự định mọi sự.Kinh Thánh chứng rằng mọi sự của vũ trụ đều được bao hàm trong nguyên chỉ của Đức Chúa Trời cả, ngoài liệu lý ấy ra, thì chẳng có việc gì lớn hay nhỏ xảy ra bao giờ; nhưng thảy đều xảy đến trong nguyên chỉ của Đức Chúa Trời đã dự định phải có như vậy. Những câu Kinh Thánh trưng dẫn sau nầy làm chứng cho:Es 14:26,27; Es 46:10,11; Da 4:35; Eph 1:11(2) Đức Chúa Trời dự định việc đặc biệt.Kinh Thánh lại minh chứng rằng các việc riêng và biến động đặc biệt cũng do nguyên chỉ của Đức Chúa Trời mà được quyết định liệu lý. Các sự kể ra sau đây đều ở trong nguyên chỉ của Đức Chúa Trời mà được định liệu cả:(a). Muôn vật và công lệ của muôn vậtSa 1:1-31; Sa 8:21-22(b). Sự vững lập của muôn vật:Thi 119:89-91(c). Sự phân định trạng huống của các dân tộc:Phu 32:8; Cong 17:26;(d). Người đời sống lâu chết yểu:Giop 14:5; Thi 139:16;(e). Cách qua đời của người ta:Gi 21:19. “Ngài nói điều đó để chỉ về Phierơ phải chết cách nào đặng làm vinh hiển Đức Chúa Trời.”(f). Công việc thiện và ác mà loài người tự do thi thố.Việc thiện:Es 44:26,28; Eph 2:10;Việc ác:Sa 50:20; IVua 12:15; Lu 22:22; Cong 2:23; Cong 4:27-28; Ro 9:17; IPhi 2:8; Kh 17:17(3) Đức Chúa Trời đã dự định sự cứu chuộc.Kinh Thánh cũng chứng rõ lắm Đức Chúa Trời đã dự định sự cứu chuộc và mọi sự thuộc về sự ấy là:(a) Sự cứu rỗi tín đồ:ICo 2:7; Eph 1:4; Eph 3:10,11;Kỳ thực, cả thơ Êphêsô là một bài khen ngợi nguyên chỉ của Đức Chúa Trời.(b) Sự quyết định ban thế gian cho Christ, vốn nguyên chỉ quan trọng hơn hết:Thi 2:7,8; Thi 2:6; ICo 15:25(c) Nguyên chỉ về sự cứu rỗi ta, nhân chúng ta công nhận mà được biến đổi ra ý chỉ của ta, mới cứu rỗi ta được; vì điều gì ý chỉ Đức Chúa Trời đã dự định cho ta cũng nhờ ý chỉ ta công nhận mà được nên ở trong ta vậy: Phil 2:12,13(d) Chỉ Christ thực hành trọn vẹn nguyên chỉ của Đức Chúa Trời: Kh 5:1,7,9Chỉ Christ vô sở bất tri, vô sở bất năng, thông biết và thực hành trọn vẹn các nguyên chỉ của Đức Chúa Trời ghi chép trong quyển ấy, Khi Giăng khóc dầm dề vì chẳng có ai trên trời dưới đất đáng tháo các ấn ra và xem sách của các nguyên chỉ ấy, thì có Sư tử thuộc chi phái Giuđa đã thắng hơn, mở các ấn ra và xem sách đó được. Duy Christ cầm chủ quyền tuyệt đối trên cõi lịch sử, khiến cho nó kết quả trọn vẹn theo ý chỉ của Đức Chúa Trời đã định vậy.3. CÁC NGHI ĐỀ VỀ LẼ ĐẠO NGUYÊN CHỈa) Mâu thuẫn với sự tự chủ của loài người. Có kẻ bài bác lẽ đạo về nguyên chỉ của Đức Chúa Trời, nói rằng đạo ấy mâu thuẫn với sự tự chủ của loài người.Lời bài bác nầy lẫn lộn nguyên chỉ của Đức Chúa Trời với sự thực hành nguyên chỉ ấy trong cuộc tạo hóa và sự tể trị vũ trụ. Như sự biết trước vốn thuộc về thần tánh vĩnh viễn của Đức Chúa Trời, mà chẳng mâu thuẫn với sự tự chủ của loài người thể nào, thì các nguyên chỉ (sự dự định mọi việc), vốn do thần tánh Ngài mà định liệu cũng chẳng mâu thuẫn với sự tự chủ của loài người thể ấy. Vả, ta đã thấy sự biết trước của Đức Chúa Trời ám chỉ rằng mọi sự mọi vật đã có sự cố định từ trước vô cùng rồi, nên mới dự kiến được. Mà ai dám nói rằng sự biết trước sự cố định ấy mâu thuẫn với sự tự chủ của loài người ư? Bằng chẳng có ai dám nói như vậy thay, huống hồ ai lại dám quyết rằng cái nguyên nhân kín giấu của sự cố định ấy – tức là nguyên chỉ của Đức Chúa Trời – vốn là mâu thuẫn với sự tự chủ đó! Đức Chúa Trời vốn toàn tại toàn tri, không thể nào làm việc gì bất định, hoặc trong lúc Ngài dự định, hoặc khi Ngài thực hành sự dự định ấy cũng không. Nếu Ngài dự định mọi sự trong vũ trụ,rồi sau thấy sự dự định ấy phá hủy sự tự chủ của loài người, thì sự ấy há chẳng làm chứng rằng Ngài là bất toàn sao? Mà một Thần bất toàn không còn đáng gọi là Chân Thần nữa!b) Cướp lấy cớ tích của sự tự cường. Có kẻ khác bài bác rằng các nguyên chỉ của Đức Chúa Trời cướp lấy cớ tích của sự gắng công ra sức của loài người để đạt đến bực tối cao trong mọi việc mình muốn làm. Họ nói rằng nếu mọi sự đều do nguyên chỉ của Đức Chúa Trời dự định, thì cần chi gắng công ra sức để làm lành lánh dữ?Ví bằng Đức Chúa Trời đã dự định mình sẽ làm ác, thì dầu tự cường để làm thiện,cũng chỉ kết quả sự ác thôi. Ta xin đáp lẽ cho lời bài bác nầy rằng:(1) Các nguyên chỉ của Đức Chúa Trời chẳng có thể ảnh hưởng đến loài người như thế, bởi vì họ không thể biết được nguyên chỉ ấy cho đến khi mọi việc đã xong, các biến động đã xảy đến rồi. Lời bài bác ấy bất quá là bào chữa tánh biếng nhác, che đậy lòng bất phục đó thôi. Khi kẻ nào rất muốn làm việc gì, thì chẳng nghe họ nói rằng họ không thể làm được, bởi vì Đức Chúa Trời dự định việc ấy không được may mắn đâu. Trái lại, ta thường thấy họ hết sức làm hầu cho việc ấy thành công may mắn. Chỉ khi can thiệp đến sự tin theo đạo Christ, thì người ta hay mượn những lời bài bác vu vơ vô lý đó đặng bào chữa lòng biếng nhác bất phục của mình đó thôi. Lại trong Kinh Thánh Đức Chúa Trời hứa cho kẻ gắng công ra sức làm việc lành ắt sẽ được may mắn dồi dào vậy.(2) Lời bài bác ấy lẫn lộn nguyên chỉ của Đức Chúa Trời với vận mạng luận. Song le vận mạng là vô ý thức, còn nguyên chỉ của Đức Chúa Trời do sự khôn ngoan tuyệt đối của Ngài mà ra. Vận mạng, như vật chất vô tình, phá hủy sự tự chủ loài người. Còn nguyên chỉ của Đức Chúa Trời bao hàm sự tự chủ và sự tự cường của họ. Thực, Đức Chúa Trời đã dự định dùng quyền tự chủ và sự tự cường của loài người đặng làm nên nguyên chỉ của Ngài vậy.Thật thế, hễ Đức Chúa Trời đã dự định cứu rỗi ai, thì người ấy bởi lúc nghe Tin Lành, bèn nhận cảm lực của đạo ấy mà liền vận dụng quyền tự chủ, quyết định tin theo Jesus Christ, công nhận Ngài làm Cứu Chúa của mình. Vả, lương tâm và Kinh Thánh đều chứng minh rằng loài người thật có quyền tự chủ. Vậy, nếu quyền ấy thật có, há chẳng do nguyên chỉ của Đức Chúa Trời dự định mà có sao? Bằng vậy, sao lại gọi đạo về nguyên chỉ Đức Chúa Trời cướp lấy cớ tích của sự tự cường của loài người được? Hơn nữa, dầu chúng ta không rõ cách thức thực hành nguyên chỉ của Đức Chúa Trời, thì cũng không vì cớ đó mà ta được phép nghi ngờ nguyên chỉ ấy, hoặc chối bỏ sự tự chủ của loài người đâu.c) Khiến cho Đức Chúa Trời trở nên nguyên nhân của tội lỗi. Kẻ khác lại biện bác rằng nguyên chỉ của Đức Chúa Trời khiến cho Ngài trở nên nguyên nhân của tội lỗi. Chúng ta đáp rằng:(1) Nguyên chỉ của Đức Chúa Trời chẳng khiến Ngài nên nguyên nhân của tội lỗi đâu, bèn là khiến Ngài nên nguyên nhân của các vị tự chủ có thể gây nên tội lỗi; mà các vị ấy thật là nguyên nhân của tội lỗi đó. Đức Chúa Trời chẳng theo cách hiệu nghiệm mà dự định tội, bèn theo cách chuẩn hứa mà dự định nó vậy. Ngài dựng nên các vị tự do, ban cho họ được các lương năng có thể lựa chọn và làm theo hoặc thiện hoặc ác. Luận theo cách ấy,ta có thể nói rằng nguyên chỉ của Đức Chúa Trời cũng bao hàm sự phạm tội; song Ngài chỉ dự định cho tội lỗi được phép do các vị tự chủ mà xen vào vũ trụ, chớ nguyên chỉ của Ngài chẳng phải là hiệu nhân (cause dfficiente) của tội đâu. Ý chỉ loài người là hiệu nhân của tội lỗi; còn Đức Chúa Trời bao giờ cũng hằng ghen ghét, trách móc, cự địch và hình phạt tội không thôi.Tuy Đức Chúa Trời dùng cơ hội phạm tội của anh em Giôsép mà ban phước cho thế gian, thì Ngài cũng vẫn cầm họ là kẻ có tội. Miễn tội khoán của giáo hoàng Léon X là hiệu nhân trực tiếp của sự Cải chánh; dầu vậy, miễn tội khoán ấy cũng vẫn là tội luôn. Có lắm công tác của người ta chẳng do ý chỉ hiệu nghiệm của Đức Chúa Trời mà ra, duy có ý chỉ loài người làm hiệu nhân, còn Đức Chúa Trời chỉ cho phép nó xảy ra như thế đó thôi. Trong Ma 26:24 có chép rằng: “Con người hẳn đi, như đã chép về Ngài; song khốn thay cho người nầy là kẻ phản Con Người! Thà nó chẳng sanh ra thì hơn.” Đã dự định rằng Christ phải chịu khổ; song điều ấy chẳng khiến cho tên Do Thái Íchcariốt mất quyền tự chủ, thậm chí bị ép buộc phải phản Ngài đâu; cũng chẳng giảm bớt tội trọng và gớm ghê ấy nữa. Nhà vô thần Ingersol có hỏi rằng: “Cớ sao Đức Chúa Trời dựng nên ma quỉ?” Ta đáp rằng: Đức Chúa Trời không dựng nên ma quỉ đâu; bèn chính ma quỉ dựng nên ma quỉ đó thôi. Đức Chúa Trời vốn dựng nên một vị linh thánh sạch, có quyền tự chủ; vị linh ấy bèn lạm dụng quyền tự chủ mình, phản loạn cùng Đức Chúa Trời mà gây nên tội lỗi, và vì thế mới trở nên ma quỉ vậy.(2) Vả, Đức Chúa Trời thật đã cho phép tội lỗi vào vũ trụ rồi; nhưng chúng ta chẳng biết tại cớ sao Ngài cho phép như vậy. Ngài là Đấng rất thánh khiết, rất công nghĩa, rất thù nghịch với tội ác. Dầu vậy, ta thấy Ngài đã chuẩn hứa cho tội lỗi xảy đến, không ngăn trở Sa tan trở nên ma quỉ, cũng chẳng khiến cho loài người trở nên kẻ không thể phạm tội.Nhưng mà tuy chúng ta không thể hiểu tại cớ sao đã có như vậy, thì cũng vẫn có thể biết sự chuẩn hứa ấy là phải lắm, công bình lắm, xứng hiệp với tánh trọn vẹn của Đức Chúa Trời vậy.Có bốn vấn đề mà Kinh Thánh và lý tánh chẳng giúp đỡ ta giải quyết được; dám chắc chỉ trí thức siêu việt của cõi lai sanh mới hiểu thấu được mà thôi. Bốn vấn đề ấy là: (1) Tại cớ sao Đức Chúa Trời thánh khiết chuẩn hứa cho tội ác xen vào cõi thọ tạo? (2) Vị nào được dựng nên thánh khiết, làm sa ngã trở nên vị bất khiết được? (3) Làm sao chúng ta phải chịu trách nhiệm về bản tánh hủ bại bởi tổ tiên lưu lại? (4) Christ chịu khổ và chết,làm sao gọi là công bình?Chúng ta đương luận đến vấn đề thứ nhứt.Nếu chúng ta có thể dò xét lòng kín giấu của Đức Chúa Trời, thấu hiểu đức tánh công nghĩa của Ngài, suy xét tường tận được kế hoạch đời đời của Ngài, thì có lẽ giải quyết vấn đề ấy được. Song điều đó chúng ta không thể làm được. Dầu vậy,có bốn điều khác có thể giúp đỡ ta hiểu sơ sơ về vấn đề ấy:(a) Ý dục tự do rất cần yếu cho lòng đạo đức. Bằng chẳng có lương năng ấy, cũng chẳng có thể tập rèn lòng đạo đức để trở nên giống như Đức Chúa Trời. Mà hễ có ý dục tự do, cũng có luôn cái khả năng phạm tội nữa.(b) Đức Chúa Trời vì tội lỗi mà phải chịu khổ nạn muôn phần hơn tội nhân. Cho nên khi Ngài chuẩn hứa tội lỗi vào cõi thọ tạo, cũng dự định luôn cho chính Ngài phải chịu khổ vô cùng để giải cứu muôn vật khỏi sự khốn nạn của tội lỗi đó. Thực sự ấy cũng chứng rằng Đức Chúa Trời chẳng theo cớ tích ích kỷ gì mà chuẩn hứa cho tội lỗi vào vũ trụ đâu, chắc phải có cớ tích cao siêu, chí công chí thánh, là cớ tích vượt quá trí hiểu phàm trần của chúng ta, mới hữu lý vậy.(c) Khi chuẩn hứa cho tội lỗi vào vũ trụ,thì cũng dự bị luôn phương pháp cứu rỗi bằng giá rất cao mà chính Ngài phải trả.(d) Sau rốt Đức Chúa Trời sẽ toàn thắng tội ác, khiến nó nên dịp tác thiện cao thượng vô cùng cho các vị thọ tạo của Ngài, và làm vinh hiển cho Ngài đến đời đời vô cùng. Thế thì, ta có thể đoán rằng:Tội lỗi cần yếu để làm cơ hội cho Đức Chúa Trời bày tỏ lòng yêu thương vô hạn vô lượng của Ngài, để làm nên phương pháp cứu rỗi mà ban ơn phước lớn lao lạ lùng cho loài người vậy.4. ÍCH LỢI VỀ LẼ ĐẠO NGUYÊN CHỈ CỦA ĐỨC CHÚA TRỜI:Lẽ đạo nầy hữu dụng cho loài người lắm,như kể lược sau đây:a) Sự suy gẫm về các mưu luận cao xa,các ý định không dò xét được, và quyền vô lượng vô biên của Đức Chúa Trời khiến cho lòng ta thêm khiêm nhường đối với Ngài.b) Dạy cho tín đồ càng đem lòng tín nhiệm Đức Chúa Trời, là Đấng đã theo sự khôn ngoan tối thượng mà dự định sự sống sự chết, trạng huống của đời ta, lo sắm sẵn mọi sự nhỏ và lớn cho ta, khiến cho mọi sự hiệp lại làm cho nước Ngài đắc thắng và kẻ yêu mến Ngài được phước.c) Chỉ dạy cho thù nghịch của Đức Chúa Trời rằng Ngài đã biết họ từ trước vô cùng, cũng đã dự bị cho họ có thể thoát khỏi vòng tội phản nghịch của họ. Hễ họ cứ phản nghịch mãi, không chịu lìa bỏ tội đó, ắt không thể thoát khỏi hình phạt mà Ngài dự định cho kẻ ác không chịu ăn năn.d) Khuyên tội nhân phải mau mau nhờ phương pháp cứu rỗi của Christ cho được thoát khỏi sự hình phạt đã định rồi, mới mong được thuộc trong số người mà nguyên chỉ Đức Chúa Trời đã định sẵn cho được ơn cứu rỗi vậy.Lẽ đạo về nguyên chỉ Đức Chúa Trời thường làm đã vấp váp cho tín đồ mới tin Chúa; vì ngộ tánh non nớt của họ rất khó hiểu.Cần phải có sự thông minh thuộc linh và sự từng trải sâu nhiệm, mới mong hiểu chút đỉnh. Song cho kẻ đã tin Chúa lâu, lẽ đạo nầy dường như chỗ đức tin nương dựa. Trải suốt những lúc Hội Thánh bị hoạn nạn, nhục mạ, bắt bớ, thì dân Đức Chúa Trời luôn luôn tìm được sự an ủi rất lớn trong lẽ đạo về nguyên chỉ của Đức Chúa Trời. Cũng chỉ khi chúng ta tín nhận lẽ đạo nầy mà chúng ta được biết chắc rằng mọi sự hiệp lại làm ích cho mình (Ro 8:28), và được lòng dạn dĩ cầu nguyện rằng: “Xin ý Cha được nên” (Ma 6:10) đó thôi.II. CÔNG CUỘC SÁNG TẠO1. ĐỊNH NGHĨASự sáng tạo là công việc tự do của Ba Ngôi Đức Chúa Trời hiệp nhau mà thi hành nhằm buổi ban đầu của khoảng thời gian. Đức Chúa Trời không dùng vật liệu gì tiền tại mà làm xong việc ấy: bèn lấy lời quyền năng của Ngài mà tạo ra cả vũ trụ hữu hình và vô hình, để làm sáng danh Ngài. Trong công cuộc nầy cả ba Ngôi đều dự phần đến. Ta có thể nói rằng,Cha là Động cơ khỉ nguyên, Con là Động cơ thực hành, và Thánh Linh là Động cơ thành toàn. Ví như kiến trúc sư vẽ họa đồ của nhà kia, rồi thợ nề theo họa đồ ấy mà xây cất; đoạn thợ sơn lo sơn phết trang hoàng cho chủ nhà vào ở. Sự tương đối cũa Ba Ngôi trong cuộc tạo hóa đại khái cũng như thế. Có kẻ nóISa 1:1-3 ám chỉ về Ba Ngôi Đức Chúa Trời cộng tác trong công cuộc sáng tạo: trong câu 1 nói về việc của Cha “Đức Chúa Trời dựng nên trời đất”, câu 2 nói về việc của Thánh Linh “Thần Đức Chúa Trời vận hành trên mặt nước”, còn câu 3 nói về việc của Con (lời “Đức Chúa Trời phán” chắc chỉ về Con).2. BẰNG CHỨNG VỀ CUỘC SÁNG TẠO:Cuộc sáng tạo vốn một lẽ thật diệu kỳ cao xa, thuộc về cõi siêu việt. Nên hễ muốn nhờ kiến thức mình mà luận về công tác lớn lao lạ lùng ấy, thì chẳng có thể hiểu thấu đầu đuôi được. Hoặc là muốn lấy nguyên lý khoa học để dò lường trình tự của sự tạo hóa, cũng khó thoát khỏi nhận lầm đoán sai, người cho cách nầy, kẻ tưởng cách khác. Sự kiến thức tự nhiên cũng chẳng có thể luận chứng hoặc cuộc tạo hóa là hữu thủy hay là vô thủy.Nhờ bác vật học ta có thể trắc lượng hiện tượng và diện tích của cõi muôn vật,nhưng chẳng có thể tìm ra nguồn gốc của muôn vật được đâu.Các cổ tôn giáo ngoại và thống hệ triết lý đời xưa đều chủ trương nhiều ý kiến về cuộc tạo hóa, nhưng phần nhiều là lời ức đạt quanh quẩn, nói bông lông, pha lẫn với thần thoại và chuyện dị đoan mà ngộ tánh ta không thể nhận được. Truyện của nước Babylôn chạm vào bia đá luận về cuộc tạo hóa rõ hơn hết, đến đỗi có chỗ hơi giống chuyện chép trong Sáng Thế Ký; nhưng chuyện ấy rất lẫn lộn với thần thoại và sự dị đoan vô lý, không thể nào ai tin là lý sự đúng đắn về cuộc tạo hóa. Sự học thức Ai Cập xưa dậy rằng mặt trời như cái chậu úp, hình đất vuông tượng. Bên Tàu người ta thường nói: “Thiên viên địa phương”. Còn nước Hi Lạp quyết rằng dưới đất có thần tên là Atlas vác quả đất trên vai.Nhưng các lời ấy đều vu khoát cả; nếu lấy khoa học đời nầy mà cân nhắc, thì không có giá trị gì hết. Dầu vậy, khoa học kim thời tuy phát minh đến đâu, cũng chưa chắc là một định luận không thay đổi đâu. Ta thường thấy người nầy với người kia phát minh điều gì, vẫn có chỗ phản đối nhau. Lại sự phát minh của đời nầy với đời xưa cũng đều là xa nhau lắm. Ta vẫn thường thấy có nhà khoa học đã tự tín một điều cho là định lý của muôn vật,đã hết sức chủ trương điều ấy kể là nguyên lý không hề thay đổi được. Rồi sau đó chẳng được bao lâu, thì lại đổi hẳn định luận của mình mà cho là lời không căn cứ, chẳng nên tín nhận nữa. Thế thì, vì tôn giáo, triết lý và khoa học xưa nay bất định như thế, nên chúng ta đáng phải xây khỏi hết sức các lý thuyết khả nghi ấy, chỉ nương dựa nơi Kinh Thánh là nguồn gốc chánh thức của các bằng chứng về cuộc tạo hóa mà thôi.a) Kinh Thánh làm chứng trực tiếp.Kinh Thánh có nhiều câu trực tiếp minh chứng cho cuộc tạo hóa. Đây, chỉ xin dẫn ít câu mà thôi:(1) Sa 1:1 chép rằng: “Ban đầu Đức Chúa Trời dựng nên trời đất”. Câu ấy minh chứng rằng công cuộc tạo hóa là việc của chỉ một Đức Chúa Trời; Ngài không dùng vật liệu gì đã có, cũng không nhờ ai giúp đỡ mà tạo thành muôn vật hữu hình và vô hình. Trong hai đoạn đầu của Sáng thế ký, hoặc luận về sự dựng nên vũ trụ (Sa 1:1), hoặc luận về sự dựng nên các loài cá lớn (Sa 1:21), hoặc luận về sự dựng nên loài người (Sa 1:27), thì dùng động từ bara (dựng nên) mà nói cả. Các chỗ khác trước thuật dùng động từ asah (làm nên) đặng thuật lại về sự làm nên khoảng không (Sa 1:7), mặt trời, mặt trăng, các ngôi sao (Sa 1:16), loài thú vật (Sa 1:25; Sa 2:19), và người nữ (Sa 2:22). Thế thì, ta thấy Thánh Linh hạn chế chữ bara mà chỉ dùng cho sự tạo thành ba cõi thực hữu lớn lao kia, là vật giới, sanh giới và linh giới (tức loài người). Khi Ngài nhận về các vật khác do vật liệu tiền tại mà làm nên, thì thường dùng động từ asah vậy.(2) He 11:3 chép: “Bởi đức tin chúng ta hiểu rằng các thế giới được dựng nên bởi lời của Đức Chúa Trời, đến đỗi vật thấy được chẳng phải từ vật hiển nhiên mà ra.” Câu ấy minh chứng rằng Đức Chúa Trời dựng nên vũ trụ, thì chẳng dùng vật liệu tiền tại mà làm nên công tác cả thể ấy, bèn chỉ nhờ lời của Ngài phán, thì muôn vật liền có. Những câu kể ra sau đây cũng đồng chứng cho lẽ thật ấy.Ro 4:17; ICo 1:20; IICo 4:6 Nghĩa là Đức Chúa Trời chẳng dùng vật gì tiền tại mà dựng nên sự sáng, vì sự tối tăm chẳng phải bằng vật chất.Co 1:16,17; Thi 33:9; Thi 148:5b) Kinh Thánh làm chứng gián tiếp.Kinh Thánh cũng có bằng cớ gián tiếp chứng cho công cuộc tạo hóa.(1) Sự tồn tại của vũ trụ trong khoảng quá khứ có giới hạn:Mac 13:19; Gi 17:5; Eph 1:4(2) Trước khi sáng tạo thế giới, thì cả Ba Ngôi Đức Chúa Trời đều đã thực hữu rồi:Thi 90:2; Ch 8:23; Gi 1:1; Co 1:17; He 9:14(3) Căn nguyên của vũ trụ là Đức Chúa Trời,mỗi Ngôi trong ba Ngôi đều dự phần đến cả. Kê cứu Kinh Thánh cho kỹ, thì thấy mỗi trước giả đều hiệp ý mà dạy rằng vũ trụ được Đức Chúa Trời dựng nên không dùng vật liệu tiền tại; kỳ thực, nếu không nhận rằng họ dạy như thế, thì cũng chẳng có thể hiểu nỗi họ dạy cái gì về vấn đề ấy.Eph 3:9; Ro 11:36; ICo 8:6; Gi 1:3; Co 1:16;He 1:2; Sa 1:2Nhờ những câu viện dẫn như trên ta có thể đoán rằng: (1) Muôn vật đều nương dựa nơi Đức Chúa Trời cả; (2) Đức Chúa Trời thống trị mọi sự; (3) chỉ Đức Chúa Trời là Đấng vô lượng vô biên; (4) chỉ Đức Chúa Trời là Đấng thực hữu đời đời; (5) trong buổi thái sơ chẳng có vật chất gì mà Đức Chúa Trời có thể lợi dụng để dựng nên muôn vật; (6) muôn vật chẳng phải là theo luật tất nhiên mà từ Đức Chúa Trời lưu xuất đâu; bèn là do ý chỉ tự do của Ngài quyết định mà được nên vậy.3. ĐẶC TÁNH CỦA TRUYỆN TẠO HÓALoài người trên mặt đất nầy ai ai cũng có tánh tò mò tọc mạch, rất muốn khảo cứu về cội rễ của muôn vật. Như đã thấy rằng chỉ Kinh Thánh làm nguồn gốc chánh đáng có một không hai để dạy về vấn đề ấy,thì ta muốn hỏi: Đức Chúa Trời há có khải thị công cuộc ấy một cách rõ ràng dễ hiểu không? Đáp: Có. Trong Sáng thế ký đoạn 1, và 2, Đức Chúa Trời mở mang tôn chỉ luận về công cuộc ấy bằng theo sức hiểu của người tầm thường, lấy lời đơn giản thông thường mà luận, đến đỗi ai ai cũng có thể hiểu được, chớ chẳng phải như lời luận của khoa học huyên thâm khó rõ kia; cũng chẳng như lời cổ truyền vô bằng hoặc thần thoại hoang đàng, đều phản đối với lý tánh đâu; bèn là rõ rệt đơn sơ và dễ hiểu mọi bề. Sau đây xin kê cứu cặn kẽ về đặc tánh của sự khải thị cuộc tạo hóa đã ký thuật trong cả Kinh Thánh.a) Rất rõ rệt:Trong Sáng thế ký đoạn 1 và 2, cùng trong rất nhiều đoạn sách khác, Đức Chúa Trời khải thị rất rõ rệt cuộc sáng tạo muôn vật, như ta đã thấy ở trên trong phần 2 rồi. Hễ ai có lòng tin đều biết chắc chắn rằng Đức Chúa Trời là Căn nguyên của muôn vật. Ngoài những câu đã viện dẫn như trên kia, đây cũng xin thêm Xu 20:11;Ne 9:6; Giop 38:9,10; Thi 19:1,2; Es 40:12-18; Mac 10:6; Mac 13:19; Cong 4:24; Ro 1:20; IICo 4:6; He 2:10; Kh 4:11.b) Nghĩa lý xác định:Kinh Thánh luận rõ ràng về nghĩa lý của cuộc sáng tạo muôn vật, tỏ ra có đặc tánh xác định lắm.(1) Tất cả sự sống và vật chất đều gốc bởi lời Đức Chúa Trời mà có, không do vật liệu tiền tại mà được nên: He 11:3(2) Công việc sáng tạo là bởi Đức Chúa Trời tự do theo ý chỉ thánh của Ngài mà làm nên: Thi 135:6; Kh 4:11(3) Đức Chúa Trời dựng nên cả vật có thể thấy được, lẫn vật không thể thấy được: Co 1:16(4) Công việc dựng nên là việc của Ba Ngôi hiệp một Đức Chúa Trời mà làm xong: ICo 8:6; Giop 26:13c) Chép rất giản dị:Kinh Thánh chép lại cuộc tạo hóa rất giản dị. Hễ đọc qua đoạn đầu cũa Sáng Thế ký, thì thấy cách thuật lịch sử là lùng ấy thật đơn sơ dễ dàng, ai ai cũng hiểu được cả. Nếu Đức Chúa Trời lấy tiếng của khoa học mà dạy người ta về cuộc ấy,thì người tầm thường đời nầy đã khó hiểu rồi, huống chi là người đời xưa thế nào hiểu nổi được? Có lẽ những người học vấn ít nhiều còn hiểu được một ít;song kẻ bất học thì làm sao biết gì đến?Huống hựu sự lý về cuộc dựng nên rất dài và phiền phức; cho nên dầu Đức Chúa Trời tường thuật cả truyện ấy, kể lại cho từng phần từng một cả nhỏ và lớn, thì người đời cũng không thể hiểu được muôn một về ý mầu nhiệm của việc ấy, và pho sách chép lại truyện ấy quá ư to tác, ai chép và đọc cho nổi? Chúng ta thử xem về một môn địa chất học, người ta phải chép biết bao nhiêu sách vở đến nỗi xe chở còn không hết thay, huống chi là mượn tiếng khoa học mà chép lại cả công trình vĩ đại dựng nên trời đất muôn vật! Nhưng may thay! Đức Chúa Trời không dùng từ liệu khoa học phiền phức khó hiểu kia mà dạy ta về công cuộc ấy, bèn dùng lời nói rẻ, dễ và chắc chắn, đến đỗi hoặc người đời xưa lúc khoa học chưa phát minh, hoặc kẻ bất học đời nầy cũng đều hiểu qua được cả.Mà cả sự khải thị về cuộc sáng tạo giản dị dường ấy cũng rất có lý, vì thích hiệp với bản năng thọ giáo của loài người. Giả như nhà điện học muốn dạy cho trẻ con biết sơ qua về điện lý, thì người chẳng bao giờ đem nguyên lý cao xa mầu nhiệm của điện khí học mà dạy chúng trước hết đâu, duy lấy những hiện tượng đơn sơ mà chúng thường thấy như đèn điện, máy điện,vô tuyến điện, v.v… cắt nghĩa đơn sơ thế nào làm nên, thế nào phát ra, nói rẻ mà rõ, hầu cho chúng hiểu mau. Dám chắc rằng chẳng ai dám chê cách dạy ấy mà gọi là nói thiển cận đâu. Mà nếu loài người cần dạy con cái mình cách giản dị về món điện học dường ấy, huống chi Đức Chúa Trời lại cần lắm phải dạy loài người cách đơn sơ về công việc dựng nên lớn lao lạ lùng đó, mới mong họ hiểu một vài điều.d) Biên chép cách chắc thật:Truyện tích chép trong Sáng thế ký về sự khai thiên lập địa cũng thích hiệp với sự từng trải của chúng ta, nên cũng giục giã lòng tin là rất chắc thật vậy.(1) Muôn vật khác loài:Muôn vật lúc nhúc lao nhao có nhiều loài nhiều giống: phi, tiềm, động, thực, đều tùy theo loại mà sanh hóa cả. Kinh Thánh dạy đi dạy lại lẽ thật rõ ràng lắm,cũng rất thích hiệp với sự từng trải của chúng ta thường thấy trong cõi thiên nhiên vậy.(2) Muôn vật tốt đẹp:Kinh Thánh tả ra Đức Chúa Trời đã dựng nên núi cao vòi vọi, lại tạo thành biển rộng thinh thinh, trời cao bát ngát, đất rộng mênh mông, hoa thơm, quả ngọt, rừng rậm cây xanh; nào là chim bay liệng trên khoảng không, nào là thú chạy nhảy trên mặt đất, nào là cá lội dưới nước, nào là sâu bò trên bờ, muôn hình nghìn trạng kể ra khôn xiết. Kế đó Ngài lại tạo thành loài người phong tư cốt cách thật là hay là lạ thay! Chúng ta lại thấy nhựt, nguyệt, tinh tú, ánh sáng, không khí, điện khí, đều là tương hiệp tương đương khéo léo không xiết kể. Rồi sau khi đã dựng nên mọi sự ấy Đức Chúa Trời thấy hết thảy mọi sự đều là tốt lành cả (Sa 1:25). Mà quả vậy, vũ trụ thật huy hoàng đẹp đẽ vô cùng, đáng cho mọi người hằng ngợi khen Đấng Tạo hóa không thôi.(3) Sự phối hiệp của muôn vật:Kinh Thánh cũng ám chỉ về sự phối hiệp của muôn vật. Con mắt người ta đối với chừng sáng của mặt trời đều tương đương nhau, quả đất đi xung quanh mặt trời gần xa vẫn thích nghi, thứ tự của vật nầy với vật kia đều hòa hiệp nhau cách lạ kỳ,nhà khoa học thực nghiệm xét đến thì phải lấy làm kinh lạ về diệu lý tương phối tương hiệp của muôn vật, dầu giấy non mực biển cũng không thể tả xiết được.(4) Không tỏ bày ra sự mầu nhiệm của muôn vật:Xem đoạn đầu của Sáng thế ký, thì thấy lời lẽ rất đơn sơ giản dị, không hề cắt nghĩa sự mầu nhiệm của muôn vật, cũng chẳng đáp lẽ những câu hỏi trong Giop 38:4-11 được. Người ta càng kê cứu sự mầu nhiệm của muôn vật chừng nào, lại càng rõ sự gây dựng lạ lùng của Đức Chúa Trời quá trí hiểu hữu hạn của mình chừng nấy. Thực như Chúa đã phán rằng: Es 55:8,9Thường có những nhà thiên văn chuyên tâm khảo nghiệm về bầu trời cao xa, khoảng không rộng lớn kia, thì luôn luôn trằm trồ khen ngợi sự sắp đặt trong vũ trụ thật hay ho lạ lùng vô song, chắc chắn là công việc của Đấng Toàn năng, Toàn tri, trí ngộ phàm không thể dò lường được. Kẻ nào muốn nhờ trí lực riêng mà khảo cứu qua điều Đức Chúa Trời không khải thị,thì chỉ gây nên các tà thuyết về cuộc tạo hóa, như nhị nguyên thuyết, lưu xuất thuyết (muôn vật từ thể yếu Đức Chúa Trời mà lưu xuất), vĩnh cải tạo thuyết, tự sinh thuyết, tấn hóa thuyết, v.v… Điều Đức Chúa Trời đã bày ra đủ cho ai nấy hiểu được cuộc sáng tạo là công việc của Ngài; còn sự mầu nhiệm của việc ấy phần lớn Đức Chúa Trời chưa xủ lòng tỏ ra, duy đáng khiến lòng tin tôn vinh ca tụng Đấng Tạo hóa đó thôi.(5) Giống linh hơn muôn vật:Kinh Thánh cũng bày ra rõ ràng loài người được dựng nên là linh hơn muôn vật.Tuy thân thể tạo ra bởi đất, thì linh tánh do Đức Chúa Trời ban cho; khi qua đời xác thịt bèn trở lại đất, mà linh hồn thì vẫn còn hoặc ở cùng Đức Chúa Trời,hay đồng số phận với Sa-tan. Khi được tạo thành thì bản tánh loài người giống như hình tượng Đức Chúa Trời, các bản quan, năng lực và tư cách đều theo kiểu mẫu của Ngài mà được nên. Dầu loài người đi dứng ăn ở dưới đất nầy, mà tâm tư cao xa vượt đến các từng trời, có tài giao thông với thần linh giới. Ấy là lời Kinh Thánh dạy chắc thật, cũng trọn theo kinh nghiệm ta, đáng cho ta tín nhận mọi bề.4. SO SÁNH TRUYỆN SÁNG TẠO VỚI KHOA HỌCTrong khoa học giới có bọn vô tín chuyên tâm lấy lý luận khoa học mà giải nghĩa căn nguyên muôn vật, bài xích đạo Christ cực điểm. Họ thường nhờ tầm con mắt của khoa học mà chủ trương rằng Kinh Thánh phản đối với khoa học, dạy những điều về cuộc tạo hóa không đáng tin. Nhưng mà ta có thể giải quyết rằng Kinh Thánh không những là không phản đối với khoa học thực nghiệm thôi đâu, mà khoa học lại làm tá chứng cho Kinh Thánh nữa thì có. Nếu ta viện lấy các thực sự của khoa học thực nghiệm mà sánh với Kinh Thánh, ắt sẽ rõ Kinh Thánh và khoa học chẳng có chỗ nào phản đối cả. Người ở nghìn xưa, khoa học tri thức còn chưa thông, nên sao cho khỏi mê tín lắm điều, dạy bậy bạ về các hiện tượng lạ lùng trong cõi thiên nhiên. Nhưng ở đời nầy vật lý phát minh, quan niệm trong vũ trụ càng thêm thống nhứt, khoa học càng thực nghiệm hơn, đến đỗi khoa học chân thật với tôn giáo chánh thống đều chẳng có sự trái nhau, bèn là giúp nhau thì có. Khoa học chân thật chẳng phải là một trở lực cho tôn giáo chánh thống đâu, duy là một trở lực để chứng minh cho sự xác thực của tôn giáo khải thị đó thôi. Sau đây xin lược đôi điều của khoa học thực nghiệm với bửu huấn của Kinh Thánh khải thị.a) Muôn vật có thứ tự:Nhà khoa học khảo cứu muôn vật, thì thấy đều có thứ tự, chẳng có sự rối loạn vật nầy với vật kia bao giờ. Tuy tánh chất của muôn vật chẳng đồng, song rốt lại cũng chẳng phản đối nhau. Vậy, khoa học đoán định rằng thứ tự tức là công lệ đầu nhứt của muôn vật. Sự đoán định ấy rất thích hiệp với lời chép trong Sáng thế ký đoạn 1. Khoa học cũng xướng rằng có sự sáng trước khi có mặt trời; còn sự sáng ấy họ đoán là do tinh vân rải khắp khoảng không mà ra. Mà Kinh Thánh cũng dạy như thế; vì Đức Chúa Trời khiến cho có sự sáng ngày thứ nhứt (Sa 1:3), rồi đến ngày thứ tư mặt trời mới hiện ra (Sa 1:14–19). Khoa học cũng dạy rằng loài vật vô cơ có trước rồi sau mới có vật hữu cơ. Kinh Thánh cũng tỏ ra thứ tự như thế. Vì trong ngày thứ ba Đức Chúa Trời khiến cho đất khô ra khỏi nước, rồi sau làm cho thực vật mọc ra (Sa 1:6 -15). Khoa học lại chủ trương rằng động vật không có xương sống hiện ra trước, kế sau mới có động vật có xương sống. Kinh Thánh cũng dạy rõ như vậy. Khoa học lại xướng rằng động vật hiện ra trước ở trong nước, rồi từ nước lần lần lên đến đất khô. Kinh Thánh cũng ám chỉ ý ấy.Vì Sáng thế ký dạy rằng Đức Chúa Trời dựng nên động vật trong nước trước, kế sau mới đến động vật trên mặt đất (Sa 1:20-23)b) Về niên tuế của cõi tạo vật: Có nhiều nhà khoa học quyết rằng không đáng tin Kinh Thánh, bởi Kinh Thánh dạy rằng vũ trụ nầy được dựng nên mới sáu ngàn năm trước đây; còn khoa học thực nghiệm cố quyết rằng vũ trụ rất cũ, bắt đầu có từ ức ức triệu triệu năm trước đây. Cứ như khoa học luận thì muôn vật hiện thời là do nguyên chất biến hóa mà nên. Từ xưa lúc hỗn mang sơ khai, có một khí nóng rất mạnh bao bọc cả nguyên chất thế giới hiện tại, khiến nó cứ xoay tịt mù, chẳng biết là trải qua mấy muôn năm. Đoạn các hành tinh, định tinh, mặt trời, địa cầu đều bởi nguyên chất hỗn độn ấy mà rơi ra. Rồi tự xây lấy tự đóng lại thành chất đặc. Địa cầu từ sau khi nóng chảy đóng lại thành chất cứng, chỗ cao gọi là đất liền, chỗ thấp gọi là biển. Lại chẳng mấy muôn năm sau đó nữa, thì trong biển có nguyên sanh vật, rồi từ đó về sau lại có động vật to tác, rừng cây xanh rậm, có hoa quả, có cầm thú, và sau rốt có loài người. Tóm lại, trước có thời đại nhiệt quang, kế đến thời đại có đá đất,thời đại thực vật, rồi sau rốt thời đại loài người. Các thời đại hỗn độn đó trải qua bao nhiêu năm chẳng ai nói chắc được, người thì ức đạt 10.000 năm, kẻ thì quyết là 10.000.000 năm và lâu hơn nữa.Vả, kê cứu Kinh Thánh thì thấy không nói rõ về tuổi của vũ trụ, chỉ nói rằng: “Ban đầu Đức Chúa Trời dựng nên trời đất.” (Sa 1:1). Cái lúc “ban đầu” đó dài ngắn thể nào khó đoán cho chắc, vì ấy thuộc về cách thức Đức Chúa Trời dùng mà sáng tạo muôn vật, là điều Đức Chúa Trời cũng chẳng từng tỏ bày ra cho ai biết rõ. Trong Sáng thế ký, đoạn đầu, có nói Đức Chúa Trời dựng nên muôn vật trong sáu ngày. Nhưng khó biết hoặc chữ ngày ấy có nghĩa là một ngày 24 giờ đồng hồ hay là khoảng thời gian dài hơn. Vì Kinh Thánh thường dùng chữ ngày theo hai cách, một là khoảng dài 24 giờ đồng hồ, hai là một thì giờ không nhứt định, như ngày phán xét (Ma 10:15), ngày cứu rỗi (IICô.6:2), ngày của Giê-hô-va (Xa 14:9), v…v… Phierơ cũng dạy rằng ở trước mặt Chúa một ngày như một năm, và một ngàn năm như một ngày vậy (IIPhi. 3:8).Vả, chữ ngày dài 24 giờ đồng hồ định nghĩa theo địa cầu xây chung quanh mặt trời một vòng. Nhưng ta thấy ngày đầu tiên truyện sáng tạo không có mặt trời; đến ngày thứ tư mới có vì sáng ấy. Vậy, chữ ngày của truyện ấy có lẽ không chỉ về một khoảng 24 giờ đồng hồ, bèn chỉ về những khoảng thời đại khá dài, mỗi khoảng hoặc một ngàn năm, hoặc vạn năm, hoặc dài hơn nữa thì khó biết được. Song ta có thể đoán định chắc chắn rằng trong truyện tích thuật lại cuộc sáng tạo ấy chẳng có điều gì phản đối với ý kiến của khoa học về thì giờ dựng nên vũ trụ. Câu “Ban đầu Đức Chúa Trời dựng nên trời đất” có thể gồm lại sáu ngày, một ngày dài 24 giờ đồng hồ, mà cũng có thể gồm lại mấy ức triệu năm nữa. Đức Chúa Trời là Đấng toàn năng, theo ý chỉ mình làm mọi sự, nên cũng có thể dựng nên muôn vật nội trong sáu ngày; cũng có thể dùng phương cách khác trải qua thời gian dài hơn mà làm xong việc lạ lùng ấy. Kinh Thánh chẳng nói thời gian ấy dài ngắn bao nhiêu, cũng chẳng có lời gì phản đối với khoa học.Duy Kinh Thánh có dạy rõ ràng điều nầy, Đức Chúa Trời dựng nên muôn vật theo loại:trước hết Ngài dựng nên vật chất, rồi đến loài thực vật, sau thì có loài động vật,rồi mới đến loài người. Các loài ấy chẳng theo luật tấn hóa mà có, đến đỗi loài nầy do loài kia mà ra; duy mỗi loài đều được Đức Chúa Trời dựng nên cách trực tiếp như ta đã thấy vậy.c) Lý học có lẽ sai lầm, Kinh Thánh thì không: Khoa học chân thật và tôn giáo chánh thống đều là lẽ thật của Đức Chúa Trời, cho nên học vấn và đạo giáo chẳng có chỗ nào phản đối nhau được. Sự công kích của khoa học giới do thiên kiến của kẻ vô tín, chớ chẳng tại sự học vấn và đạo giáo không thích hiệp nhau đâu. Lắm nhà khoa học càng kê cứu tánh chất muôn vật, càng thấy đại quyền đại năng của Đấng Tạo hóa, công nhận Kinh Thánh bao giờ cũng mới mẽ, đúng đắn mọi bề; họ phát kiến vật lý của muôn vật bao nhiêu, cũng thấy chẳng phản đối với lẽ thật của Đức Chúa Trời bấy nhiêu.Nhưng mà nghị luận và lý tưởng của khoa học hay ức đạt nhiều, đoán án lắm khi bông lông huyền ảo không chắc chắn gì. Ta thường nghe ông nầy phát minh một điều phản đối hẳn với nhà kia. Đời nay tin điều kia là lệ định của muôn vật, rồi đến đời sau họ lại phủ quyết lời ấy, rồi lập lên những lời khác. Như lý thuyết dạy rằng loài người do loài khỉ tiến hóa, nhưng giữa con khỉ và loài người có vực sâu rất rộng lớn, nên họ lại xướng rằng ở giữa hai loài ấy chắc có vật gì chuyển qua. Nhưng trải qua bốn năm chục năm nay họ đã tìm khắp sông biển rừng núi trên mặt đất nầy mà chưa gặp một cái gì làm xác chứng cho ý kiến ấy.Chúng ta xây bỏ các tư tưởng lẩn thẩn ức đạt vô lý đó mà xét qua Kinh Thánh, thì thấy lời khải thị của Đức Chúa Trời rất rõ rệt rất chắc chắn, không hề theo thời gian mà thay đổi bao giờ. Dầu trải năm nầy qua năm khác, đời nọ sang đời kia, thế sự có vần xây, người vật có biến đổi,thì đạo Kinh Thánh từ ngàn xưa cũng không hề thay đổi, đời đời hằng mới mẽ, làm thỏa mãn kẻ có lòng tin mọi bề. Vậy, ta đoán rằng Kinh Thánh chẳng phản đối khoa học thực nghiệm có bằng chứng xác thực đâu; duy phản đối với tư tưởng bông lông ức đạt do lòng dữ và chẳng tin mà ra đó thôi.5. MỤC ĐÍCH VỀ CUỘC TẠO HÓAĐức Chúa Trời vốn Đấng khôn ngoan vô cùng;nên Ngài dự định dựng nên vũ trụ thì phải có mục đích cũng cao thượng tuyệt đối,mới xứng hiệp với bản tánh của Ngài. Mục đích ấy phải bằng các sự ích lợi tốt nhứt, kết quả những điều thiện hảo vô song, hầu cho loài người nhờ đó mà hiểu biết Đức Chúa Trời càng thêm. Duy nhờ mục đích dường ấy ta có thể định giá cho công việc của Đức Chúa Trời, và phán đoán về bản tánh của Ngài được khải thị ở trong việc ấy là thể nào. Vậy, mục đích về cuộc tạo hóa là gì? Xem Kinh Thánh thì thấy có bốn mặt, tức là:a) Chính mình Đức Chúa Trời:Các câu dẫn ra dưới đây chứng rằng Đức Chúa Trời vì chính mình Ngài mà dựng nên muôn vật:Ro 11:36; Co 1:16; Es 48:11; ICo 15:28; Ch 16:4b) Để làm nên thánh ý của Đức Chúa Trời: Đức Chúa Trời từ trước vô cùng định ý dựng nên vũ trụ. Ngài bèn trù liệu mọi sự, rồi dựng nên muôn vật đặng làm nên thánh ý ấy. Những câu dẫn dưới đây làm chứng:Eph 1:5,6,9; Kh 4:11c) Vì vinh hiển Đức Chúa Trời: Đại mục đích về cuộc tạo hóa là vì vinh hiển của Đức Chúa Trời. Kinh Thánh chứng rằng:Es 43:7; Es 60:21; Es 61:3; Lu 2:14;d) Để tỏ ra quyền năng, sự khôn ngoan và danh thánh của Đức Chúa Trời: Nhờ cuộc tạo hóa Đức Chúa Trời cũng muốn bày tỏ cho loài người quyền năng lớn lao, sự khôn ngoan tối thượng và danh chí thánh của Ngài. Kinh Thánh có lời chứng rằng:Thi 143:11; Es 36:22,23; Ro 9:17; Ro 9:22,23; Eph 3:9,10Ấy vậy, nhờ các câu viện dẫn trên kia ta biết đại mục đích của Đức Chúa Trời trong cuộc sáng tạo muôn vật là chính mình Ngài và vinh hiển của Ngài. Nhưng có kẻ bẻ rằng: Nếu Đức Chúa Trời chỉ lấy chính Ngài và vinh hiển Ngài mà làm mục đích của cuộc tạo hóa, thì há chẳng là Ngài cũng vì tư kỷ rồi ư? Loài người đã bị nghiêm cấm về lòng tư kỷ rồi, huống chi Đức Chúa Trời! Xin đáp: Dầu Đức Chúa Trời lấy chính Ngài và vinh hiển Ngài mà làm mục đích của cuộc tạo hóa, thì cũng chẳng bởi đó mà Ngài làm theo tư kỷ chút nào!Trái lại, nếu Đức Chúa Trời đạt đến mục đích của cuộc tạo hóa, thì cả vũ trụ và các vị thọ tạo cũng đều hưởng được phước trọn vẹn. Vì nơi nào chính Đức Chúa Trời là đối tượng của mọi sự, thánh ý Ngài được nên, danh Ngài được tôn vinh, quyền năng và sự khôn ngoan Ngài được bày ra, thì nơi ấy cũng có bình an, vui vẻ,công nghĩa, thánh khiết, và mọi sự thiện hảo khác nữa. Vậy mục đích của cuộc tạo hóa thật tối cao, rất xứng hiệp với bản tánh Đức Chúa Trời, làm ích lợi tốt nhứt cho loài người, và kết quả vinh cho Đức Chúa Trời đến đời đời vô cùng vậy.III. SỰ BẢO TỒN1. ĐỊNH NGHĨAĐức Chúa Trời đã dùng quyền năng Ngài mà dựng nên muôn vật, hoặc vật thấy được hay là vật không thấy được. Nhưng Ngài chẳng dựng nên muôn vật rồi liền để mặc kệ cho nó hành động. Ngài bèn cứ lấy quyền năng và sự khôn ngoan mà gìn giữ muôn vật, hầu cho nó cứ tồn tại, không bị tuyệt diệt hoặc phải mất một nguyên chất nào hay một năng lực nào mà Ngài đã phú cho nó trong buổi sáng tạo. Đạo về công việc tạo hóa dạy thế nào Đức Chúa Trời dựng nên muôn vật; đạo về sự bảo tồn dạy thế nào Đức Chúa Trời gìn giữ muôn vật cho được tồn tại luôn.2. BẰNG CHỨNGa) Kinh Thánh làm chứng:Kinh Thánh phân biệt rõ ràng việc dựng nên với việc bảo tồn, dạy rằng Đức Chúa Trời dùng quyền năng và lời phán mà bảo tồn muôn vật, hầu cho nó khỏi bị băng kiệt hư hoại. Sau đây xin dẫn ra ít câu làm chứng:Ne 9:6; Giop 7:20; Thi 36:6; Thi 100:29,30; Cong 17:28; Co 1:17; He 1:3; Gi 5:17 Việc ấy chắc chỉ về việc bảo tồn, vì việc dựng nên đã xong rồi. Xin sánh với:Sa 2:2; Thi 66:9 Câu ấy dạy rằng Đức Chúa Trời bảo tồn mạng sống thuộc thể của loài người.Ma 4:4 Câu ấy dạy rằng Đức Chúa Trời cũng bảo tồn sự sống thuộc linh nữa.Cả Thi Thiên 104 là một bài ca tụng quyền năng bảo tồn của Đức Chúa Trời, vì Ngài gìn giữ các sanh vật trong biển trên đất được tồn tại mãi mãi không thôi.b) Lý tánh làm chứng:Chúng ta cũng nhờ lý tánh mà đoán rằng Đức Chúa Trời bảo tồn muôn vật.(1) Vật chất và tâm tánh chẳng hề tự nhiên mà có. Vì lý do của sự thực hữu nó chẳng ở nơi nó, nên sự tồn tại của nó luôn với căn nguyên nó đều phải ở nơi một Năng lực cao hơn nó mà ra mới hữu lý. Bởi vì nếu vũ trụ tự hữu, thì vũ trụ là Đức Chúa Trời, ở ngoài nó không thể có Thần nào nữa.Mà nếu nó không tự hữu, nhưng do quyền năng của Đức Chúa Trời mà ra, thì lý tánh dạy rằng nó cũng phải nhờ quyền năng ấy mà được tồn tại nữa.(2) Trong vũ trụ có năng lực lạ lùng hành động,nâng đỡ, gìn giữ muôn vật. Vả, chúng ta biết rằng năng lực ấy không tự nó vận động được, bèn phải có một ý chỉ làm lý do của nó, mới kết quả sự bảo tồn lạ lùng như chúng ta thường thấy trong vũ trụ nầy.(3) Chủ quyền tuyệt đối của Đức Chúa Trời cũng dạy rằng năng lực bảo tồn muôn vật quả là của Đức Chúa Trời. Ví bằng năng lực ấy không do chủ quyền của Ngài mà ra, nhưng do nguồn gốc khác, thì chủ quyền của Ngài không được tuyệt đối, vì có vị khác chia quyền với Ngài. Song điều ấy phản đối hẳn lẻ thật về bản tánh Đức Chúa Trời, vì Ngài là Đấng vô sở bất năng,căn nguyên duy nhứt của mọi thứ năng lực vận động ở trong vũ trụ nầy vậy.3. CÁCH THỨC BẢO TỒN MUÔN VẬTVả Đức Chúa Trời dùng cách thức gì mà bảo tồn muôn vật? Trong vòng các học thuyết có nhiều ý kiến về vấn đề ấy. Đây xin chỉ ra ý kiến sai lầm trước, rồi sau sẽ luận đến ý kiến chánh đáng.a) Ý kiến sai lầm:Trong học giới và giáo giới có nhiều tà thuyết về sự bảo tồn muôn vật. Nhưng sau đây chỉ kể lại đại ý của hai ý kiến quan hệ hơn hết mà thôi.(1) Tự nhiên thần giáo: Ý kiến nầy chủ trương rằng vũ trụ vốn một cơ thể tự động tự bảo, mà Đức Chúa Trời đã tạo thành rồi bỏ đi, để nó cứ theo lẽ tự nhiên mà khai phát, xây đi vần lại cho đến vô cùng. Từ buổi sáng thế cho đến bây giờ Đức Chúa Trời chẳng hề để ý hoặc đoái hoài gì đến vũ trụ nữa. Theo ý kiến nầy thì vũ trụ giống như cái đồng hồ kia, khi thợ đã chế tạo xong, bèn lên giây rồi để mặc nó cứ chạy theo máy móc đã có, không còn để ý đến nó nữa. Thuyết nầy dấy lên bên nước Anh vào thế kỷ XVII, do chúa Herbert de Cherbury khởi xướng. Sau đây xin luận qua cái lý do phải liệt nó vào hàng tà thuyết.(a) Phản đối Kinh Thánh:Trong phần II của chương nầy chúng ta đã thấy Kinh Thánh minh chứng rằng Đức Chúa Trời lấy quyền năng của Ngài mà bảo tồn muôn vật cách trực tiếp, đến đỗi muôn vật không bị băng kiệt hư hoại, mà lại đạt đến mục đích Đức Chúa Trời đã dự định cho nó.(b) Do lẽ tương tợ sai mà ra:Thuyết nầy sánh công việc của Đức Chúa Trời với công việc loài người, quyết rằng hai công việc ấy có tương tợ mật thiết. Nhưng ý kiến ấy lầm to. Ví như đồng hồ kia, loài người có tài chế tạo nó bằng máy móc tự động, là vì chỉ tại loài người lợi dụng những năng lực đã có sẵn, như hấp lực, đàn lực, kết lực, v…v., mới chế tạo nó được. Chỉ như cuộc sáng tạo vũ trụ thì khác, vì các năng lực ấy vốn không có; khi dựng nên muôn vật xong xuôi rồi thì mới có, và vẫn còn đến ngày nay. Vậy, các năng lực ấy từ đâu mà có? Ai bảo thủ cho nó tồn tại mãi? Lý tánh dạy rằng năng lực vô tri vô giác chẳng tự động, phải có tâm trí dùng nó, mới vận động được. Mà nếu các năng lực ấy đương vận động trong vũ trụ mãi, há chẳng phải tại vì có Đại Tâm trí gọi là Đức Chúa Trời lợi dụng nó, chỉ dẫn và bảo tồn nó luôn sao? Vả lại, xét công việc loài người thì thấy chẳng việc gì thoát ly luật hao mòn hư mất, dầu có sự săn sóc sữa chữa đến đâu đi nữa, kết cuộc phải bị hư hoại đó thôi.Về công việc của Đức Chúa Trời chẳng như vậy đâu, từ khi vũ trụ có đến bây giờ nó chẳng hao mòn, chẳng hư mất, cũng chẳng thấy có ai sửa lại gì, nhưng mọi sự dường như mới mẻ hoài. Ấy há chẳng vì có tay quyền năng của Đức Chúa Trời bảo tồn luôn, mới có như vậy ư? Thế thì, so sánh việc Đức Chúa Trời với việc loài người như thế, rồi chối Đức Chúa Trời bảo tồn muôn vật,thật lầm to, vì sự tương tợ ấy không hợp nghi.(c) Chối sự vô sở bất tại của Đức Chúa Trời: Thuyết nầy cũng từ chối sự vô sở bất tại của Đức Chúa Trời, vì chủ trương rằng sự bảo tồn muôn vật bao hàm vô số việc mọn mạy, rất nhiều sự lo lắng nhỏ nhen, chẳng xứng hiệp với bản tánh tôn nghiêm của Đức Chúa Trời. Loài người vốn nhỏ nhen hèn mọn,nên chịu các sự lo lắng vụn vặt ấy vương vít cũng đáng, nhưng Đức Chúa Trời thì không. Theo thuyết nầy Đức Chúa Trời dường như một khách quan đứng ở ngoài vũ trụ, dòm xem nó xây đi vần lại thể nào, nhưng chẳng hề mó tay đến để phù trì bảo thủ nó chút nào cả. Nhưng Đức Chúa Trời vốn quyền năng vô hạn vô lượng, nên việc gì loài người coi là cực nhọc, thì Đức Chúa Trời vẫn cho là dễ như trở tay. Sự sống Ngài cũng chẳng hay hư hay hết, mạnh mẽ vô cùng, nên việc nâng đỡ vũ trụ mà loài người kể là nặng quá sức người phàm, một nguồn lo sợ buồn rầu, thì Đức Chúa Trời coi là nhẹ như lông hồng, làm cho biến ra nguồn vui sướng cực lạc. Vậy,ta có thể đoán chắc rằng Đức Chúa Trời không hề dựng nên vũ trụ rồi bỏ mặc kệ,song Ngài vẫn ở trong vũ trụ, lấy lời quyền năng của Ngài mà bảo thủ muôn vật cho được tồn tại luôn.(d) Chối cả đạo Đức Chúa Trời: Nếu xét thuyết nầy cho cạn lẽ, thì rõ lắm nó không những chối về sự Đức Chúa Trời bảo tồn muôn vật mà thôi, lại chối đến đạo Đức Chúa Trời nữa. Vì nếu Đức Chúa Trời từ buổi sáng tạo xong, không hề can thiệp đến lịch sử của vũ trụnầy nữa, thì chắc cũng chẳng hề đem sự sống vào vũ trụ, hoặc dựng nên loài người, hoặc khiến Christ trở nên xác thịt, hoặc tái sanh người nào, hoặc cho ai giao thông với Ngài, hoặc cai trị trên muôn dân muôn nước, thảy đều không cả. Vả, chối các điều ấy, chẳng qua là chối nào đạo Đức Chúa Trời, nào thực tế của lịch sử toàn cầu,cho thay thảy đều là những ý tưởng ảo huyền đó thôi. Song các điều ấy không thể chối được, vì là những thực sự nhơn loại xưa nay, chép để đủ lý và rõ ràng,minh chứng rằng muôn vật được tồn tại sờ sờ đó đến ngày nay, quả hẳn là bởi có thần lực trực tiếp phù trì bảo tồn chẳng sai. Kẻ nào mãi say mê theo thuyết tự nhiên thần giáo, không sớm thì muộn chắc phải sa vào hầm vô thần thuyết mà chối hẳn chính Đức Chúa Trời nữa.(2) Vĩnh viễn cải tạo thuyết:Thuyết nầy chủ trương rằng vũ trụ chẳng nhờ Đức Chúa Trời bảo thủ mà được tồn tại,nhưng nó vẫn được tái tạo và tự tân luôn.Thuyết nầy cũng sai lầm nữa, vì cũng bỏ Đức Chúa Trời ra ngoài cõi thọ tạo, chỉ khi nào vũ trụ cần sự thay đổi hoặc sửa sang gì, thì mới mời Ngài trở vào để thi hành sự tu bổ ấy. Thuyết nầy cũng chối bỏ các phép tắc thiên nhiên để bảo thủ cho nó được tồn tại luôn. Giả như lúa gạo,Đức Chúa Trời chẳng hề dựng nên lúa mới mỗi năm đâu, nhưng Ngài lợi dụng nào là sức sanh hóa trong hạt giống, khí chất của đất, nào là hơi mưa, ánh nắng cùng khí hậu thay đổi của bốn mùa tám tiết, nào là sự gieo trồng, gặt hái mà ban cho nhơn loại ta quanh năm trải đời đều có lúa gạo ăn tiếp tục vậy.b) Ý kiến chánh đáng: Vũ trụ nầy chẳng phải một cơ chế tự động tự bảo mà Đức Chúa Trời dựng nên, rồi liền lìa bỏ, chẳng còn đoái đến nữa; cũng chẳng nhờ năng lực vĩnh viễn cải tạo mà thực tại luôn đâu; bèn nhờ thần lực cùng công lệ trong muôn vật mà bảo thủ nó được tồn tại. Ý kiến ấy tương phù với Kinh Thánh, cũng thích hiệp với sự từng trải của loài người nữa. Khi Đức Chúa Trời tạo thành muôn vật, thì cũng phú cho những công lệ. Nhờ các công lệ ấy vận động trong muôn vật mà Đức Chúa Trời bảo tồn nó mãi mãi. Nhưng các công lệ ấy cũng chẳng tự nhiên vận động đâu, bèn phải nương dựa ở nơi lời quyền năng của Đấng Tạo hóa, mới gìn giữ nguyên lực nó được. Cho nên trước giả Hê-bơ-rơ chứng rằng: He 1:3Nhờ lời ấy các công lệ cứ vận động, chính muôn vật được tồn tại để đạt đến mục đích y theo nguyên chỉ Đức Chúa Trời đã dự định vậy. Nếu Đức Chúa Trời rút “lời quyền năng” ấy đi, thì trong nháy mắt cả muôn vật đều phải băng hoại và tuyệt diệt chẳng còn phương cách cứu chữa được nữa.IV. THẦN HỰU1. ĐỊNH NGHĨADanh từ Thần hựu có hai nghĩa, hẹp và rộng.a) Nghĩa hẹp: Thần hựu, nghĩa hẹp là Đức Chúa Trời giúp đỡ. Thần là Đức Chúa Trời; hựu là giúp đỡ.b) Nghĩa rộng: Về nghĩa rộng thì danh từ Thần hựu chỉ về Đức Chúa Trời phù trì, điều độ và cai trị muôn vật. Tiếng Pháp và Anh gọi là Providence. Đạo về cuộc tạo hóa tỏ ra lý do về sự thực hữu của vũ trụ. Sự bảo tồn tỏ ra thế nào vũ trụ tồn tại luôn; còn Thần hựu dạy làm sao vũ trụ được mở mang, tấn bộ, và đạt đến mục đích chánh thức của nó. Trong vũ trụ nầy quyền năng của Đức Chúa Trời vẫn phù trì mọi sự, điều độ mọi vật, cai trị mọi biến động, hoặc thuộc thể hay thuộc linh, khiến cho mọi sự ấy hiệp lại làm cho muôn vật đạt đến mục đích y theo nguyên chỉ Ngài đã dự định từ trước vô cùng. Vả, như nguyên chỉ ấy bao hàm các vật thọ tạo, nhỏ và lớn, hữu hình và vô hình thể nào, thì Thần hựu bao hàm các vật đó cũng thể ấy. Nói cách khác, Đức Chúa Trời phù trì, điều độ và cai trị nào địa chất, nào thực vật, nào thú vật, nào cá nhân, nào đến cả mọi dân mọi nước nữa, chủ quyền tuyệt đối Ngài thống nhứt việc thiện, việc ác, khiến cho mọi sự thuộc thể thuộc linh phải hiệp lại làm trọn ý chỉ Ngài đã định.2. BẰNG CHỨNG VỀ THẦN HỰUa) Kinh Thánh làm chứng:1) Đức Chúa Trời chăm nom muôn vật: Kinh Thánh dạy rõ rằng Đức Chúa Trời chăm nom cách phổ thông trên những điều kể sau đây:(a) Cả vũ trụ:Thi 103:19; Da 4:35; Eph 1:11;(b) Cõi thiên nhiên:Giop 37:5,10; Thi 104:14; Thi 135:6,7; Ma.5:45; Thi 104:16. Ấy chắc vì Đức Chúa Trời vun trồng sửa tỉa cẩn thận muôn phần hơn loài người. Ma. 6:30. Ấy dạy rằng nhờ lẽ thần hựu mà Đức Chúa Trời trang sức đẹp đẽ cho các loài thực vật ngoài đồng vậy.(c) Cõi động vật:Thi 104:21,28; Ma 6:26; Ma 10:29;(d) Muôn dân muôn nước:Giop 12:23; Thi 22:28; Thi 66:7; Cong 17:26(e) Sự sanh trưởng và phận mạng của cá nhân:ISa 16:1; Thi 139:16; Es 45:5; Gie 1:5;Ga 1:15,16(f) Sự hưng vong của loài người:Thi 75:6,7; Lu 1:51,52;(g) Việc lặt vặt nhỏ nhoi:Ch 16:33; Ma 10:30(h) Người công nghĩa:Thi 4:8; Thi 5:12; Thi 63:8; Thi 121:3; Ro 8:28(i) Dự bị sự cần dùng cho dân sự Ngài:Sa 22:8,14 (nghĩa là Giê-hô-va sẽ dự bị cho); Phu 8:3; Phi 4:19(j) Sắm sửa trả lời cầu nguyện:Thi 68:10; Es 64:4; Ma 6:8; Ma 6:32,33(k) Việc hình phạt kẻ ác:Thi 7:12,13; Thi 11:62) Đức Chúa Trời chủ trị trong công việc và tội lỗi của loài người: Kinh Thánh cũng làm chứng rằng Đức Chúa Trời chủ trị việc làm tự do và tội ác của loài người.(a) Việc làm tự do của loài ngườiXu 12:36; ISa 24:19; Thi 33:14,15; Ch 16:1; Ch 19:21; Ch 21:1-Nghĩa là Đức Chúa Trời khiến cho lòng của vua làm việc thì dễ như làm cho nước ở ngoài đồng chảy bên nầy hay bên kia vậy. Gie 10:23; Phil 2:13; Eph 2:10; Gia 4:13,15Các câu ấy, và nhiều câu khác, đều minh chứng rằng các việc tự do của loài người đều do Đức Chúa Trời mà ra cả. Ngài chủ trị trên ý dục, cảm tình và ngộ tánh của người ta, đến nỗi họ làm thành ý chỉ của Ngài, mặc dầu chính họ vẫn không ngờ. Song ta khá hiểu rằng Ngài chẳng hề phá hủy ý dục tự do của người ta đâu, duy cảm hóa ý dục ấy để nó tình nguyện làm các việc theo ý chỉ của Ngài đó thôi.(b) Các việc tội ác của loài người:IISa 16:10; IISa 24:1; Ro 11:32; IITe 2:11,123) Cách Đức Chúa Trời chủ trị trong việc tội ác của loài người: Kinh Thánh chứng rằng Đức Chúa Trời thường theo bốn cách mà chủ trị trong việc tội ác của loài người.(a) Ngăn ngừa tội ác: Nhờ sức Thần hựu của Đức Chúa Trời ngăn ngừa việc tội ác, mà người ta cố ý làm. Ngài ngăn ngừa tội ác,chẳng phải vì lý tất nhiên buộc phải làm, bèn vì ân điển rộng rãi của Ngài vậy.Kinh Thánh chứng rằng:Sa 20:6; Sa 31:24; Thi 19:13; Os 2:6“Gai gốc” và “bức tường” trong Os 2:6 đó ám chỉ về các sự đau đớn Ngài thường dùng đặng ngăn ngừa người ta đuổi theo tội ác. Cha mẹ, chánh phủ, Hội Thánh, phong tục, luật pháp, tuổi tác, chức nhiệm, tật bịnh, chết chóc, thảy đều có ảnh hưởng tốt, cảm lực mạnh để ngăn ngừa tội ác. Lắm khi có người bị cám dỗ quá chừng, phạm tội trọng, không còn thấy mình có sức gì để chống cự nó nổi, nghĩ rằng một hai chắc phải phạm tội đó thôi. Đương khi đứng trong địa vị nguy hiểm như thế, thình lình nghe trong mình đã mất sự muốn phạm tội rồi, chẳng còn thèm làm đến sự ghê gớm ấy nữa, mà lại ghét ý tưởng về tội đó cũng có. Tại sao người ấy được cứu khỏi phạm tội như thế? Há chẳng tại vì Đức Chúa Trời dùng lương tâm và Thánh Linh mà ngăn cản mình làm theo chước cám dỗ mà phạm tội đó hay sao? Đức Chúa Trời thường dùng hai cơ quan ấy mà thi hành lẽ Thần hựu để ngăn ngừa tội ác, đến đỗi vô số người đã nhờ đó mà thoát khỏi phạm tội trọng.(b) Để mặc cho người ta phạm tội: Đức Chúa Trời để mặc cho kẻ ác có lòng cứng cứ yêu chuộng và làm tội ác. Ngài thật không ưng chịu tội ác của họ, cũng chẳng dung thứ mà bỏ qua đâu, duy không trực tiếp ngăn cản tôi nhơn cố ý theo đường lối gian ác của nó đó thôi. Dầu Ngài để mặc cho tội nhơn làm ác, thì vẫn ghen ghét tội, không sớm thì muộn chắc sẽ đoán phạt không sai. Kinh Thánh chứng rằng:IISu 32:31 Xin sánh câu ấy với câu tiếp theo: Phu 8:2; Thi 81:12,13; Es 53:4,10.Ấy là Ngài vừa ý cho dân Do Thái mặc kệ theo ác mưu trong lòng họ mà giết Chúa vậy.Os 4:17; Cong 14:16; Ro 1:24,28; Ro 3:25.(Cũng xem ISa 18:10)(c) Chỉ huy tội ác: Đức Chúa Trời vốn biết rõ mưu ác của người ta. Có khi Ngài trực tiếp làm cho ác mưu ấy bất thành, chỉ huy việc ác họ mưu làm đó trở lại làm trọn ý muốn của Ngài. Hễ lòng người nào cố ý chứa gian ác, ắt phải tràn ra, Đức Chúa Trời không ngăn ngừa được; nhưng Ngài lấy chủ quyền tuyệt đối mình mà chỉ huy, khiến cho sự ác đó phải chạy theo lối Ngài chỉ định, cốt để hạn chế nó làm thiệt hại ít hơn hết. Tội ác ở trong lòng chẳng khác gì phún thạch ở trong hỏa diệm sơn kia, khi nó nổ ra thì không thể ngăn cản nó phun lên và tràn chảy ra ngoài; nhưng nó chạy qua hướng đông hay hướng tây, ấy bởi ý chỉ Đức Chúa Trời chỉ huy hạn chế nó làm thiệt hại ít hơn hết.Cũng vậy, có khi Đức Chúa Trời không ngăn cản tội ác tràn ra, nhưng Ngài định hướng cho đường lối nó, để nó chỉ kết quả sự thiệt hại nhỏ hơn hết đó thôi. Những câu viện dẫn dưới đây làm chứng:Sa 50:20; Thi 76:10; Es 10:5; Cong 4:27,28(d) Hạn chế tội ác: Đức Chúa Trời hạn chế ác tính của các vị thọ tạo, hầu cho tội lỗi nó lan ra có chừng mực. Tội ác giống như hột giống kia, khi gieo rồi, có thể mọc lên, kết quả từ việc ác nầy ra việc ác khác cho đến mãi mãi. Nên Đức Chúa Trời đặt giới hạn cho nó, định sự kết quả nó không được tràn qua cái giới hạn ấy. Nhưng dầu Đức Chúa Trời làm vậy, thì chẳng phải thay đổi bản tánh của tội ác, hay là dự phần đến việc ác đâu; duy khiến cho nó không được ngăn trở ý chỉ Ngài thành tựu đó thôi. Kinh Thánh làm chứng như dẫn sau đây:Giop 1:12; Giop 2:6; Thi 124:3; ICo 10:13; IITe 2:7,8; Kh 20:2,34) Trong lễ Thần hựu ý chí tự do của loài người và chủ quyền tuyệt đối của Đức Chúa Trời có sự tương đối nhau thể nào? Vả,lẽ Thần hựu có quan hệ với cả ý dục loài người và ý chỉ của Đức Chúa Trời. Xem xét công việc người ta thì thấy có hai mặt: mặt nầy hướng về Đức Chúa Trời, mặt kia hướng về loài người. Coi mặt hướng về Đức Chúa Trời thì dường như mọi việc làm của người ta duy do ý chỉ Đức Chúa Trời mà thành công. Song nếu xem mặt hướng về loài người, thì lại dường như cả thảy đều do ý dục họ mà được nên.Song có kẻ hỏi: “Ý dục của loài người thế nào hiệp tác với ý chỉ của Đức Chúa Trời mà làm nên ý muốn của Ngài?” Ấy là một nan đề thật khó giải quyết, chắc chỉ Đức Chúa Trời hiểu rõ, cùng giải rõ đó thôi. Dầu vậy, ta có thể dùng sự tương đối của linh hồn với thân thể làm ví dụ:cánh tay vẫn cứ giữ vẹn công lệ của nó luôn, thế mà cũng thường vâng phục ý dục của linh hồn mà lạm dụng. Cũng vậy, loài người thật tự do, được tự ý mình làm việc; dầu vậy, Đức Chúa Trời vẫn chủ trị các động tác của họ hoặc thiện hoặc ác cũng vậy. Các vị tự do thật phải phục chủ quyền tuyệt đối của Đấng cao cả,nhưng Đấng ấy chủ trị họ ở trong sự tự do của họ. Cả hai ý dục tự do của loài người và chủ quyền tuyệt đối của Đức Chúa Trời đều tồn tại luôn, cái nầy chẳng giảm bớt hay là phá hủy cái kia; trong việc của loài người cả hai đều đi song song nhau như hai đường bình hành, hiệp tác làm nên ý tốt của Đức Chúa Trời. Đạo nào phủ nhận lẽ thật ấy là tà giáo, chỉ hủy hoại chánh đạo nó thôi.b) Lịch sử làm chứng:Kê cứu lịch sử của các nước thế gian, bất luận giáo hóa nước nào cạn hay sâu, đều dễ thấy có một cánh tay siêu nhiên chủ trị mọi sự của các nước ấy để thưởng thiện phạt ác, khiến ai gieo giống gì gặt giống ấy,chẳng sai một sợi tóc nào cả. Từ xưa đến nay sự hưng suy của các nước, bề ngoài dường như chỉ bởi người ta gây nên; song xét cho sâu hơn, thì rõ lắm phải có mạng lịnh của Đức Chúa Trời cai trị trên việc làm của người ta mới được nên thể ấy.Ví như lúc Chúa Jesus giáng sanh thì Lamã đế quốc cầm quyền thống trị trên cả thiên hạ. Kinh Thánh đã dự ngôn rằng Christ phải chịu chết trên cây gỗ. Mà lúc đó chỉ Lamã dùng tử hình ấy. Cho nên nếu lúc Chúa Jesus tại thế, mà quyền thống trị thiên hạ ở trong tay một cường quốc khác ngoài nước Lamã, thì Ngài chịu tử hình ấy sao được? Vậy, rõ lắm Đức Chúa Trời hạ nước Hilạp xuống mà dấy nước Lamã lên đặng làm ứng nghiệm Kinh Thánh.Vả lại, nhờ Alexandre đại đế chinh phục cả thế gian, mà văn tự Hilạp được thông lưu khắp nơi, dự bị sẵn sàng để làm lợi khí cho sự truyền bá Tin lành khắp chốn. Cũng nhờ nước Lamã chinh phục Hilạp mà các dân dã man được khai hóa, các xứ xa được giao thông nhau bởi đường sá mở thông suốt cả đế quốc, làm cho sự vãn lai tiện lợi mọi bề. Nên khi Tin lành hiện đến thì các nhà truyền giáo đầu tiên bèn nhờ văn tự Hilạp phổ thông, và đường sá Lamã thông suốt cả thiên hạ mà đi khắp nơi truyền rao ơn cứu rỗi của Jesus Christ. Các thực sự ấy há tình cờ mà có sao? Chắc không! Bèn là nhờ Thần hựu,Thần hựu của Đức Chúa Trời chủ trị và chỉ huy toàn cục các dân các nước, nên mới có như thế vậy.c) Hội Thánh làm chứngNếu kê cứu về sự sáng lập và bành trướng của Hội Thánh, thì thấy đời nào cũng có tay của Đức Chúa Trời phù hộ, giúp đỡ. Dầu các thời đại các địa phương Hội Thánh trải qua nhiều nỗi bắt bớ ngăn trở, nhưng hễ bị bắt bớ ngăn trở chừng nào, thì Hội Thánh càng tấn bộ thêm chừng nấy. Có khi đời thuộc linh của Hội Thánh sa sút nguội lạnh, nhưng Đức Chúa Trời không cho hội chết hẳn, bèn dấy lên những sứ giả trung tín giảng lẽ thật, phấn hưng tín đồ, và lôi kéo Hội Thánh trở lại cùng Chúa. Đức Chúa Trời lắm khi vì Hội Thánh mà hạ vua nầy xuống, dấy vua kia lên, khiến nước nầy suy, nước kia thạnh.Julien I’Apostat (kẻ chối đạo) quyết ý diệt đạo Christ mà tái lập bái vật giáo trong Lamã đế quốc; nhưng Đức Chúa Trời không cho, bèn khiến cho vua ấy phải tử trận. Chính Julien cũng nhận rằng sự thất bại đó là tại nơi Chúa, vì lúc hấp hối vua kêu lên rằng: “Hỡi Ông Galilê, Ông đã thắng hơn tôi rồi!” Cừu địch Hội Thánh thường dấy lên đông như cát biển, hung bạo như thú dữ, hà hiếp hội hữu bốn bề, cốt quyết tuyệt diệt đi. Nhưng lạ thay! Hội Thánh vẫn còn, vẫn đứng vững rất có ích lợi quan hệ với đạo đỡi, lòng người, nước nhà và xã hội, đến đỗi cả toàn cầu phải nhận rằng Hội Thánh thật một cơ quan phi thường, được thực hữu và tồn tại duy bởi Thần hựu đó thôi.3. LÝ THUYẾT PHẢN ĐỐI ĐẠO THẦN HỰUCó những thuyết phản đối đạo Thần hựu lược kể như sau đây:a) Túc mạng thuyết:Thuyết nầy chủ trương rằng mọi sự đều thuộc về vận mạng, không những là “tử sanh hữu mạng, phú quí tại thiên”, nhưng mọi sự mọi vật cũng đều bởi định mạng cả. Họ nhận rằng loài người có ý dục, song không thể dùng ý dục ấy cách tự do để quyết định làm việc gì được hết. Thuyết nầy có chỗ sai như sau đây:(1) Phản đối sự tự tri tự giác:Túc mạng thuyết phản đối sự tự tri tự giác của loài người, vì lương năng ấy chứng rõ ràng rằng chúng ta quả được tự chủ, có quyền chọn làm theo bên nầy, chối làm theo bên kia vậy.(2) Trở ngại thần cách Đức Chúa Trời:Túc mạng thuyết cũng trở ngại thần cách của Đức Chúa Trời, vì trọng về quyền năng Ngài mà khinh sự chân thật, sự khôn ngoan, sự thánh khiết, và sự yêu thương của Ngài. Họ nhận Đức Chúa Trời đã nhờ cuộc tạo thành muôn vật mà bày ra quyền năng lớn lao của Ngài. Song họ chối thần hựu, quả quyết rằng Đức Chúa Trời chẳng từng đoái hoài vũ trụ bao giờ. Thế mà hễ chối thần hựu, bất quá là chối Đức Chúa Trời lấy lẽ chân thật, sự khôn ngoan, sự thánh khiết và tình yêu thương mà tự bày tỏ mình cho loài người. Bởi vì trong việc thi hành Thần hựu, Đức Chúa Trời dùng các thần cách ấy để chăm nom săn sóc muôn vật. Hồi giáo và nhiều bái vật giáo đều chủ trương theo thuyết nầy.b) Ngẫu nhiên chủ nghĩa:Thuyết nầy luận rằng hành tinh vận chuyển, nước nhà hưng suy, và mọi việc lớn lao cả thể khác ở trong vũ trụ đều nhờ Đức Chúa Trời chủ trị cả. Nhưng các việc nhỏ mọn xảy ra hằng ngày, Đức Chúa Trời chẳng từng biết đến, thảy đều xuất ư ngẫu nhiên đó thôi. Vậy, thuyết nầy bỏ Thần hựu đặc biệt mà đặt sự ngẫu nhiên thế cho. Xin tỏ chỗ sai lầm của thuyết nầy.(1) Bỏ việc nhỏ khôn nên công lớn: Nếu Đức Chúa Trời không có quan tâm đến việc nhỏ mọn, thì chắc không thể nên việc to tát được. Giả như người thợ cả trù liệu làm đường xe lửa kia, chẳng những tính từ cái chốt sắt dài mà thôi, bèn đến một cái đinh rất nhỏ cũng tính toán tiêm tất. Cớ sao vậy? Ấy vì dầu là một đinh rất nhỏ, song nếu thiếu mất hay sắp đặt sai chỗ, thì ắt phải bị hại to, nên rất cần phải cẩn thận, không những về việc lớn, mà việc nhỏ cũng vậy; bằng không, ắt không có đường xe lửa hữu dụng được đâu. Mà nếu trong cõi loài người sự chăm nom săn sóc việc nhỏ mọn còn là quan hệ như thế thay, há dám nói trong vũ trụ Đức Chúa Trời chỉ chủ trị việc lớn mà không ngó ngàng đến việc nhỏ ư? Chúa Jesus phán rằng: Ma 10:29,30Chim sẻ và sợi tóc loài người nhỏ mọn lắm,mà Chúa quả đoái đến, chăm nom săn sóc trọn vẹn.(2) Không coi sóc đến việc nhỏ, không thể gọi Đức Chúa Trời là Đấng yêu thương trọn vẹn: Nếu Đức Chúa Trời chỉ đoái đến việc lớn mà không kể đến việc nhỏ, thì tình yêu thương Ngài vẫn bất toàn. Nhưng nếu xem xét bản tánh của tình yêu thương, thì biết rằng hễ ai yêu mến ai, không những là để ý đến việc lớn của họ, mà lại đoái hoài mọi việc nhỏ có quan hệ với sự yên ổn vui vẻ của kẻ ấy nữa, hằng chăm nom săn sóc, dự bị mọi sự cần dùng, dầu nhỏ đến đâu cũng chẳng hề bỏ qua. Mà nếu bản tánh tình yêu thương phàm tục còn như vậy thay, huống chi tình yêu thương trọn vẹn của Đức Chúa Trời,chắc khiến cho Ngài phải coi sóc muôn vật, sắm sửa mọi sự cần dùng, đến đỗi săn sóc cả việc nhỏ xíu cũng chẳng bỏ qua đâu! Kỳ thực, nếu không nhận có Thần hựu đặc biệt, thì cũng rất khó nhận có Thần hựu chung; mà lại nếu chẳng có Thần hựu đặc biệt, thì cũng chẳng có tôn giáo thực tế, vì loài người không thể thờ phượng Thần nào không trực tiếp coi sóc việc riêng của mình, đến đỗi dầu cùng cực thiếu thốn, nếu không có Thần hựu, thì kêu trời cũng vô ích vậy. Cho nên phủ nhận Thần hựu tức là phủ nhận Đức Chúa Trời có tình yêu thương trọn vẹn vậy.(3) Chối Thần hựu đặc biệt cũng chối sự từng trải của tín đồ: Sự từng trải của tín đồ Christ chứng thực cho sự dạy dỗ của Kinh Thánh về sự Thần hựu đặc biệt. Bởi vì Kinh Thánh minh huấn rằng lắm biến động xảy ra, cốt ý để cứu trợ tín đồ. Có khi họ bị hoàn cảnh nguy hiểm, thiếu thốn, đau ốm, bắt bớ, v…v., mà cầu khẩn Chúa cứu trợ, thì thường thấy Chúa thương xót mà giải cứu liền. Tín đồ nào đã từng trải sự tái sanh, sự nên thánh, sự giao thông với Đức Chúa Trời, sự nhậm lời cầu nguyện, không thể nào hoài nghi “mọi sự hiệp lại làm ích cho kẻ yêu mến Đức Chúa Trời” (Rô.8:28). Vậy, hễ chối Thần hựu đặc biệt, chắc cũng phải chối luôn sự từng trải của muôn trùng tín đồ nữa; vì họ đều đồng thinh chứng minh rằng: “Chúa là Đấng giúp đỡ tôi, tôi sẽ chẳng sợ chi; người ta làm chi tôi được?” (He 13:6).4. THẦN HỰU QUAN HỆCông việc tể trị coi sóc của Đức Chúa Trời rất quan hệ, kể không xiết không cùng. Xin chỉ nói lược đôi điều cần yếu như sau nầy:a) Quan hệ với thứ tự muôn vật: Một bầu trời đất bao la, đôi vừng nhựt nguyệt chiếu diệu, bốn mùa luân chuyển, muôn vật hóa sanh, năm tháng đúng, ngày giờ y, thảy đều có thứ tự, chẳng hề sai chạy chút nào. Nếu không có Đấng Tạo hóa chủ trị điều độ, vận dụng sự khôn ngoan quyền năng vô hạn của Ngài ở trong đó, mà muôn vật muôn tượng tự hiện tự thành, thì sự diệu hiệp của muôn vật, sự tấn hóa của các cơ thể, thế nào có được thứ tự nhịp nhàng như vậy ư? Tuy trí lực của chúng ta có chừng, không thể dò hết được định lệ trong vũ trụ chu toàn lạ lùng là thể nào; nhưng có một điều chúng ta biết được là nếu không có Đức Chúa Trời vận dụng ý chỉ khôn ngoan và tình yêu thương của Ngài mà đoái đến vũ trụ, làm hết công việc chăm nom săn sóc từ việc nhỏ đến việc lớn, thì trời đất muôn vật không thể có được hiện tượng như vậy.b) Quan hệ với sự cầu nguyện: Lấy làm rõ ràng lắm cho ta nhận thấy Thần hựu có quan hệ với sự cầu nguyện. Nhưng suy nghĩ về vấn đề ấy lại nảy ra vấn đề khác nữa trong tâm trí ta rằng: Nếu các công lệ trong cõi thiên nhiên đã cố định rồi, thì Đức Chúa Trời thể nào trả lời sự cầu nguyện được ư?(1) Có kẻ luận về vấn đề nầy rằng, ở ngoài sự cảm động linh tánh, thì sự cầu nguyện chẳng có linh nghiệm gì cả, nó bất quá là một thứ “thể tháo” thuộc linh đó thôi. Nhưng kinh nghiệm về sự từng trải tín đồ và sự dạy dỗ của Kinh Thánh thì rõ sự cầu nguyện chẳng những cảm động linh tánh người ta, mà lại có đủ sức cãm động đến chính Đức Chúa Trời nữa, đến đỗi Ngài phải giơ tay ra thi hành việc lớn ở trong cõi thiên nhiên để nhậm lời cầu nguyện đó. Giả như Ápraham cầu thay cho Sôđôm thì cảm động lòng Đức Chúa Trời,đến đỗi Ngài hứa làm theo lời ông cầu xin đó. Thành Sôđôm sở dĩ không được cứu khỏi hỏa hình, có lẽ tại vì Ápraham không cứ cầu nguyện đến tột bực (Sa 18:23-33). Duy lời cầu thay của Gióp khiến cho Đức Chúa Trời tha tội và ban phước cho ba bạn của ông (Giop 42:8). Trong Thi 91:15, Chúa phán: “Người sẽ kêu cầu ta, ta sẽ đáp lời người; trong sự gian truân, ta sẽ ở cùng người, giải cứu người và tôn vinh người.” Tay toàn năng của Đức Chúa Trời đủ sức xây trở bầu trời trái đất; mà sự cầu nguyện của tín đồ lại đủ sức xây trở tay toàn năng ấy. Bằng vậy, sự nhậm lời cầu nguyện ấy há chẳng phải là một phần rất quan hệ của Thần hựu ư?(2) Có kẻ lại nói rằng, Đức Chúa Trời chỉ dùng cách thuộc linh mà trả lời sự cầu nguyện, như là ban cho Thánh Linh cảm động người ta, khiến cho bề trong được cảm xúc sự vui vẻ; chớ Ngài không hề nhậm sự cầu nguyện mà cho gì bằng vật chất bao giờ. Ngài cũng chẳng hề đụng đến công lệ thiên nhiên làm chi đâu. Song lời ấy do sở kiến quá ư thiển cận;vì cõi thuộc linh cũng phục các định lệ như cõi vật chất vậy. Vả lại, cả từng trải lẫn Kinh Thánh đều đồng chứng rằng lắm biến động thường xảy ra ở trong thế giới hữu hình chỉ tại vì cớ kẻ cầu nguyện; bằng chẳng có, chắc cũng chẳng từng xảy đến bao giờ. Giả như tiên tri Êli cầu Chúa trọn bảy năm có cơn hạn hán khắp xứ (Gia 5:17). Kế sau Êli cầu nguyện lại, thì Chúa ban cơn mưa tràn trề, cứu xứ khỏi tai hạn hán (IVua17:8-24). Các sự từng trải ấy chẳng thuộc về cõi thuộc linh, bèn thuộc về cõi thuộc thể; nào hạn hán, nào mưa dào, nào tiên tri ăn uống ở nhà bà góa kia, thảy đều xảy ra ở trong cõi thiên nhiên, can thiệp đến hiện tượng vậy.(3) Có người khác lại hỏi rằng, nếu Đức Chúa Trời nhậm lời cầu nguyện của người ta, ấy há chẳng là trừ bỏ định lệ của muôn vật sao?Xin đáp: Có khi Đức Chúa Trời nhờ công lệ trong muôn vật mà nhậm lời cầu nguyện;có khi Ngài thi hành việc cả thể dường như là ở ngoài công lệ chúng ta thường biết, như khi Ngài kêu kẻ chết sống lại, hóa nước thành rượu, v…v. Nhưng trong cả hai cõi thuộc thể thuộc linh chắc có nhiều công lệ mà chúng ta chưa từng biết. Khi tín đồ cầu nguyện, Đức Chúa Trời chắc nhờ những công lệ cao thượng hơn mà nhậm lời cầu nguyện đó, không cần phải trừ bỏ lệ nào cả. Vì Đức Chúa Trời cai trị có nhiều cách thức, có khi theo lệ thường, có khi vượt qua lệ thường,tri thức ta có hạn, nên chẳng có thể thấy đến tột mực được hoặc cũng không dò xét thấu lý nổi bao giờ. Song dầu cách nhậm lời cầu nguyện vốn theo lẽ thường hay là vượt quá lẽ thường, chúng ta biết chắc rằng thảy đều do Thần hựu mà ra cả.c) Quan hệ với công việc của tín đồ: Thần hựu cũng có quan hệ đến công việc của tín đồ, nhờ sự ấy Đức Chúa Trời dẫn dắt chỉ đường cho họ, giúp đỡ họ không xây bỏ ý muốn của Ngài mà làm theo ý riêng mình. Trong đời có hai phái thất trung dạy về vấn đề nầy. Phái thứ nhứt gọi là tịch tĩnh luận, chuyên trọng về sự mặc nhiệm, không dám nhờ nào là ý dục, nào là trí ngộ mà tìm cầu biết ý muốn của Đức Chúa Trời về việc làm của mình, duy chờ đợi sự cảm hóa siêu việt bề trong, kể sự cố ý giơ tay ra mà làm việc gì để biết ý ấy là phạm tội; nên chỉ nhờ Thần hựu theo lối siêu việt để làm mọi sự đó thôi.Thuyết nầy có chỗ lầm, vì dầu Đức Chúa Trời có dùng Thần hựu cách siêu việt mà giúp đỡ tín đồ biết ý chỉ của Ngài, thì cũng có dùng đến nhiều cách thiên nhiên nữa, như là sự dạy dỗ của Kinh Thánh, lời khuyên lơn của người ta, sự luận đoán khôn ngoan của tâm trí, dịp tiện tốt, cảnh ngộ, tình thế, để giúp đỡ ta biểu quyết về ý chỉ Chúa và giục giã mình theo đó cho được may mắn trong mọi việc. Chúng ta thường khấn rằng: “Xin cho chúng tôi hôm nay đồ ăn đủ dùng” (Ma 6:11). Rồi Đức Chúa Trời nhậm lời cầu nguyện ấy mà ban cho chúng ta sức mạnh và sự khôn ngoan làm việc để kiếm ăn đủ ngày. Hễ ai cẩu nguyện rồi khoanh tay ngồi đợi, chắc không được Thần hựu ban cho mình điều gì cả.Ai đau, muốn nhờ Thần hựu chữa lành, chắc cũng không được lành nếu cứ trái luật vệ sanh mãi, hoặc không dùng đồ ăn bổ sức. Ông George Muller có dạy rằng hễ muốn biết ý Chúa về việc gì thì phải nghiệm theo bốn điều nầy: 1) Quyết định làm theo ý ấy; 2) Cầu nguyện Thánh Linh chỉ cho mình biết ý ấy; 3) Kê cừu Kinh Thánh để rõ lời Chúa dạy thể nào về việc mình toan làm đó; 4) Để ý đến trường hợp và trạng huống để thử xem nếu tiện làm việc ấy hay không. Nhờ nghiệm theo bốn điều ấy, chắc sẽ biết ý Chúa; mà đã biết rồi thì lòng ắt được bình an dạn dĩ để theo ý ấy trọn vẹn.Phái thứ hai gọi là tự nhiên luận (Naturalisme), chủ trương rằng không có Thần hựu gì cả, mọi việc mình làm thì tự mình mà làm; nếu được may mắn, thì do tài trí khôn ngoan của mình mà nên; không được may mắn, cũng tại mình bất tài ngu dại mà ra vậy. Duy vật luận, thiên diễn tấn hóa luận, tự nhiên tôn giáo luận đều đề xướng ý kiến ấy cả. Nhưng ý kiến nầy chẳng phải là đạo trung chánh đâu. Vì trong đời ta vẫn ở dưới quyền chủ trị của Đức Chúa Trời cả, muốn được may mắn thì phải vâng theo ý chỉ của Ngài. Song ta cũng chẳng bỏ ý dục của mình đâu, bèn đem nó hiệp tác với ý chỉ của Đức Chúa Trời,rồi nhờ Thánh Linh cảm hóa các bản năng mình, ban thần lực, thần trí cho, cũng giục giã mình chuyên tâm về việc muốn làm đó. Duy làm theo cách ấy mới mong theo ý chỉ Chúa mà được may mắn trong mọi việc làm của mình vậy. Kinh Thánh cũng dạy rõ tín đồ có thể nhờ Chúa chỉ dạy đưa dẫn luôn, chẳng như kẻ vô tín kia “không chờ đợi lời chỉ giáo Ngài” (Thi 106:13), bèn được Chúa ban sự khôn ngoan từ trên.Thi 32:8; Ch 3:6; Phi 1:9,10; Gia 1:5; Gi 15:15; Co 1:9,10

QUYỂN IV - LUẬN VỀ LOÀI NGƯỜI

(Nhơn loại học)Kìa, muôn vàn chúng sinh đang chen chúc nhau trên mặt địa cầu, đầu đội trời chơn đạp đất, thân thể toàn vẹn, tri thức cao xa, quyền phép nhiệm mầu, tài năng lỗi lạc, văn minh ngày một tấn bộ, trình độ ngày một tăng cao, có linh tánh để giao thông với Đức Chúa Trời, có thân thể để tiếp xúc với tạo vật; ấy gọi là loài người. Nếu loài người nhận biết mình có cái địa vị cao trọng như thế ở trong vũ trụ diệu kỳ nầy, được đứng đầu muôn vật,mà không rõ cái căn nguyên mình, không hiểu đến cuối cùng của đạo loài người, chẳng rõ mục đích và đời sống mình là làm sao, thì thật khốn nạn thay! Cho nên nếu loài người muốn hiểu biết về các vấn đề ấy, thì thật là phải lẽ lắm. Nhưng tội nghiệp thay! Loài người tự mình không thể tìm kiếm ra lẽ thật về vấn đề ấy được.Nên ta thường thấy hễ loài người càng cậy sự khôn ngoan mình mà càng kê cứu bao nhiêu, thì càng đi sâu vào con đường lầm lạc bấy nhiêu mà thôi. Ấy đó, nếu ai muốn biết rõ về mình, thì duy chỉ có một nguồn lẽ thật đã bày ra các vấn đề ấy một cách tường tận, tức là Kinh Thánh. Vậy, ta nên cứ chú ý tra cứu Kinh Thánh mới có hy vọng hiểu thấu đến cái yếu lãnh của nhơn loại học, vì tại trong bộ Kinh Thánh đó, Đức Chúa Trời đã cắt nghĩa rõ ràng về vấn đề quan hệ ấy. Chương 1: LUẬN VỀ SỰ TẠO THÀNH LOÀI NGƯỜII. CĂN NGUYÊN CỦA LOÀI NGƯỜI1. LOÀI NGƯỜI DO ĐỨC CHÚA TRỜI TRỰC TIẾP DỰNG NÊNKINH THÁNH dạy minh bạch và chắc chắn rằng loài người được Đức Chúa Trời trực tiếp dựng nên. Sáng thế ký có chép:* Sa 1:27* Sa 2:7Hai câu ấy và nhiều câu khác, nói quả quyết rằng loài người chẳng nhờ luật thiên diễn cạnh tranh mà có; cũng chẳng bởi một nguyên chất vô tri nào đó mà lần lần tiến hóa đến bậc thành toàn như hình thể ta hiện có bây giờ; bèn là nhờ công phu của Đức Chúa Trời trực tiếp tạo thành vậy (Cũng xem Giop 32:8; Tr 12:7; Xa 12:1).2. Ý KIẾN SAI LẦM VỀ CUỘC TẠO THÀNH LOÀI NGƯỜITrong vòng các nhà cách trí học có nhiều ý kiến về căn nguyên của loài người, phản đối với sự khải thị của Kinh Thánh,nhưng mà xét ra cho kỹ, thì thấy có hai ý quan hệ, là tự sanh luận và tấn hóa luận.a) Tự sanh luận (génération spontanée): Thuyết nầy chủ trương rằng loài người và muôn vật đều do vật chất của cõi thiên nhiên mà sanh ra. Họ cho rằng hễ vật chất đứng trong một hoàn cảnh thích hợp, tự nhiên có quyền sanh hóa mọi thứ sanh vật, không cần phải nhờ giống gì có sự sanh hoạt trước. Nói cách khác,theo thuyết nầy, sự sống không phải là do sự sống tiền tại mà ra, bèn là tự nhiên mà có.Thuyết nầy phản đối với Kinh Thánh mọi bề; vì Kinh Thánh có câu rằng: (Xem Sa 2:7).Thuyết nầy cũng phản đối với thực nghiệm khoa học. Trải qua hai ba đời các nhà khoa học đã kê cứu và thực nghiệm về thuyết nầy thật rõ ràng lắm, nhưng đến bây giờ chưa ai kiếm thế làm cho vật sống do nơi vật chết mà ra, đến đỗi phần nhiều nhà khoa học hiện thời đã công nhận rằng sự sống chỉ do sự sống tiền tại mà ra đó thôi. Ông Huxley, một nhà sanh vật học trứ danh của thế kỷ XVIII, quyết rằng thuyết về thiên nhiên tự sanh phản đối mọi bề với các thực sự của thực nghiệm khoa học. Còn ông Tyndall, nhà thiên nhiên triết học, đồng thanh với ông Huxley mà chứng rằng: “Tôi quyết rằng chẳng có một bằng cớ đích xác nào chứng thực rằng sự sống trong đời nầy có căn nguyên ngoài sự sống tiền tại”.b) Tấn hóa luận:Thuyết Tấn hóa chủ trương rằng cái cội rễ nguyên sơ của muôn vật là do một cái tế bào đơn mà ra. Cái tế bào ấy vốn ở trong cõi hư vô của khoảng không gian, đã sanh ra trước nhứt những vật vô cơ thể. Đoạn từ sanh vật vô cơ thể đó mà lần lần tiến hóa nên những vật hữu cơ thể. Trước hết có những động vật vô tích chùy (invertébrés); kế sau cứ tiến hóa lần mãi đến bực động vật hữu tích chùy (vertébrés). Các động vật hữu tích chùy thấp hèn hơn tiến hóa đầu hết, như loài cá, rắn, v…v.; rồi các vật ấy cứ tiến hóa mãi cho đến khi nên điểu, thú, loài nầy sanh loài nọ, loài nọ biến hóa loài khác, đến chừng thành loài người, là cái điểm cùng tuyệt của muôn vật vậy.Theo thuyết nầy, tổ tiên của loài người là loài khỉ, vì trong loài thú vật chỉ có khỉ đạt đến bực trọn vẹn hơn hết.Thuyết nầy cũng chủ trương rằng, lúc ban đầu loài người khờ dại, không có sự khôn ngoan, khác loài động vật không mấy. Đoạn, từ bực khờ dại đó mà họ tấn hóa đến bực khôn sáng, từ bực dã man đến địa vị văn minh. Sau đây xin kể ra mấy lý do minh chứng rằng tấn hóa luận là sai lầm.(1) Phản đối Kinh Thánh:Kinh Thánh dạy rằng muôn vật nhờ công phu trực tiếp của Đức Chúa Trời mà được dựng nên, loài nào theo loài nấy, vô luận là loài có xương sống hay không, chẳng hề có loài nào lần lần biến hóa ra loài khác bao giờ. Còn đến loài người, thì Đức Chúa Trời lấy bụi đất tạo ra hình tượng người, rồi hà sanh khí vào lỗ mũi người,thì người bèn trở nên một loài có linh hồn sống (Sa 1:27; 2:7).(2) Phản đối khoa học thực nghiệm:Nếu kê cứu hoặc địa chất học, sanh vật học, hay là sanh lý học, thì dễ thấy các sự thực nghiệm của khoa học ấy phản đối với thuyết tấn hóa. Vì theo ý kiến thuyết nầy, mọi sanh vật, hoặc hữu cơ thể, hoặc vô cơ thể đều do nơi vật chất chết mà sanh hóa. Nhưng lạ thay! Trong cõi thiên nhiên chẳng thấy còn một dấu tích nhỏ xíu nào lưu truyền lại làm chứng cho sự biến hóa phi thường ấy; và rõ ràng cõi vật chất từ cổ chí kim vẫn cứ chết luôn, chẳng tỏ một mảy may dấu hiệu gì về tấn hóa bao giờ.(3) Giữa các loài vẫn có vực sâu không bắc cầu qua được: Lai giữa thực vật và động vật vẫn có một cái vực sâu chưa hề có ai bac cầu qua được. Nếu các động vật do nơi thực vật mà lần lần biến hóa đến đỗi trở nên loài nầy giống kia, thì cái cách thức biến hóa diệu kỳ ấy đã biệt tích đâu cả rồi! Vì từ thượng cổ đến cận kim chẳng ai thấy thực vật hóa nên động vật nầy kia bao giờ. Mà ở trong loài thực vật cũng chẳng thấy có cơ thể nào có thể làm căn cứ cho sự sanh hoạt hữu cơ nữa.Ngoại giả, có một vực sâu thăm thẳm ở giữa động vật hữu tích chùy và động vật vô tích chùy, và ở giữa bô nhũ loại và các động vật hữu tích chùy khác. Nhưng mà vực sâu rộng lớn hơn hết vẫn còn có ở giữa loài thú vật và loài người. Tuy tấn hóa thuyết chủ trương về căn nguyên muôn vật, quyết rằng muôn vật đều do một tế bào đơn đầu tiên mà ra, thì cũng chẳng có thể nào giải minh tại sao giữa loài nầy và loài kia có vực sâu như thế, đến đỗi chẳng có vật nào ở trong loài nầy có thể sang qua làm vật thuộc về loài kia.Thật thế, thực nghiệm khoa học minh chứng rằng không có thể nào bắc cầu qua các vực sâu ấy, vì chưa hề có ai thấy sanh vật nào thoát khỏi khuôn lốt nó, để tấn hóa mà thành ra sanh vật khác. Đến dầu một sanh vật rất hèn mọn mà cũng không hề tấn hóa như vậy thay, huống hựu há dám gọi loài người là một loài bởi thú vật tấn hóa mà đến ư? Như con khỉ là loài thú có hình thể gần loài người hơn hết, mà cũng chưa từng có nhà khoa học nào thấy nó vượt bực mà tấn hóa, một lần nhảy lên mà làm loài người có linh tánh, có tri thức,có ý chí, có đạo đức bao giờ. Nếu xưa có sự tấn hóa như thế, thì sao nay không còn có nữa? Cớ sao sanh vật nào sanh ra trong loài nào cứ ở trong loài đó mãi,không bao giờ thoát lốt mà lần lần hóa nên loài khác? Ví bằng tấn hóa thuyết giãi bày lẽ thật về căn nguyên của muôn vật, xin hỏi tại sao sự biến hóa lạ lùng dường ấy chẳng còn lưu lại chút dấu tích nào cả? Dám quả quyết rằng tại vì căn nguyên của muôn vật và loài người chẳng phải như thế. Cái thuyết tấn hóa chỉ là một sự ức đạt của lòng dữ và chẳng tin, một sự ảo tưởng của kẻ bị hư mất đó thôi.Lẽ thật về căn nguyên của loài người được bày ra ở trong Kinh Thánh đã có thực nghiệm khoa học xác chứng cho: ấy là thể chất loài người được Đức Chúa Trời trực tiếp tạo ra; còn linh tánh loài người do sanh khí Ngài hà vào lỗ mũi mà có, và nhờ linh tánh ấy loài người linh hơn muôn vật vậy. Thế thì, nếu Đức Chúa Trời là Đấng Tạo hóa của loài người, là căn nguyên của cả thân thể và linh tánh, thì sao lại nỡ hạ mình xuống đành bỏ bực cao trọng của mình mà hiệp nhứt với súc vật, đến đỗi nhận loài khỉ làm nguyên tổ của mình?!!!(4) Nguyên trạng của loài người vốn cao quí: Vả lại, Kinh Thánh dạy rằng A-đam lúc mới được dựng nên đã có quyền cai trị muôn vật, cũng có khôn ngoan cao xa mà đặt tên cho các vật ấy. Lại ông cũng được giao thông với Đức Chúa Trời cách thân mật,được đứng trong cảnh trạng thật là cao quý vô song. Nhờ thực sự ấy, ta biết loài người ngay từ lúc mới tạo thành chẳng phải là khờ dại, vô tri thức đâu. Họ chẳng phải từ địa vị thấp hèn mà lần lần tiến hóa đến chỗ khôn sáng đâu, không hề từ bực dã man mà lần tiến hóa đến địa vị văn minh. Trái lại, loài người từ địa vị cao trọng mà sa ngã, phải lần lần thối hóa, trụy lạc vào địa vị ngu dại tối tăm, đến đỗi quên lửng Đức Chúa Trời là Đấng Tạo hóa mình, là căn nguyên vinh hiển của mình đi thì có (Xem Ro 1:18-28 thì rõ hơn).3. PHƯƠNG PHÁP TẠO THÀNH LOÀI NGƯỜIVề phương pháp Đức Chúa Trời dùng để dựng nên thân thể loài người, thì Kinh Thánh chẳng dạy rõ. Theo Sa 2:7, ta thấy Đức Chúa Trời lấy đất tạo ra hình thể của loài người; Sa 2:19 lại nói Ngài lấy đất mà tạo ra các loài động vật. Ấy dạy rằng thể chất của loài người và của loài động vật đều do đất mà ra cả. Cách thức Ngài làm việc ấy ta không thể nào biết được;hoặc Ngài lấy chính tay Ngài mà nắn nên thân thể họ cách trực tiếp, hoặc dùng phương pháp khác mà làm nên cách gián tiếp, thì không ai nói chắc được. Điều rõ ràng lắm là thể chất của loài người vẫn bởi lòng lành và ý tốt của Đức Chúa Trời mà được dựng nên bằng bụi đất. Còn linh tánh là bởi Trời phú cho, một phần do ở nơi chính sanh khí của Đức Chúa Trời mà được nên.4. LOÀI VẬT KHÁC VỚI LOÀI NGƯỜILịch sử về cuộc tạo thành muôn vật minh chứng rằng loài người và loài vật khác nhau.Về vật sanh trên đất khô Đức Chúa Trời phán:Sa 1:11,24. “Đất phải sanh các vật sống tùy theo loại.”Nói về loài cá trong biển thì Ngài phán:Sa 1:20,21. “Hãy sanh sản thêm nhiều,làm cho đầy dẫy dưới biển.”Khi phán về các loài ấy, Đức Chúa Trời không nói đến loài người. Bởi vì đến ngày thứ sáu, sau khi đã dựng nên mọi vật ấy rồi, Đức Chúa Trời mới phán:Sa 1:26. “Chúng ta hãy làm nên loài người như hình Ta và theo tượng Ta.”Còn về cuộc dựng nên ấy, Sáng thế Ký có câu rằng:Sa 2:7. “Giê-hô-va Đức Chúa Trời bèn lấy bụi đất nắn nên hình người, hà sanh khí vào lỗ mũi, thì người trở nên một loài sanh linh.”Nhờ mấy câu ấy ta thấy sự dựng nên loài vật với công cuộc tạo thành loài người khác nhau đặc biệt lắm, vì thì giờ trước sau khác nhau, và kiểu mà Ngài đã dùng để dựng nên loài người chẳng giống với cái kiểu mà Ngài đã dùng để dựng nên loài vật. Bởi chính Ngài đã phán rằng loài người được dựng nên theo hình tượng của Ngài. Muốn rõ vấn đề nầy hơn, xin trưng chứng mấy bằng cớ như sau đây:a) Loài vật không có ngộ tánh: Loài vật có trực giác (intuition), nhưng chẳng có ngộ tánh (intelligence). Vì vậy cho nên nó không tự biết mình, cũng không biết suy nghĩ điều gì; gặp cảnh khổ thì chịu khổ, cảnh vui thì hay vui, chẳng biết sửa sang dời đổi, cũng chẳng biết tấn triển đến bực tri thức được. Trong cả thế giới chỉ có loài người là có tấn hóa trong sự giáo dục; còn loài vật thì chẳng biết đến đâu hết. Vẫn biết rằng con ong hay gây tổ nhả mật, con nhện hay mửa tơ giăng lưới; nhưng nó làm như vậy chẳng qua là cái bản năng của Trời đã phú cho,ngàn muôn năm chẳng hề thay đổi, chẳng tấn hóa, cũng chẳng cải cách chi cả, vì nó vốn không có ngộ tánh vậy.b) Loài vật không có lương tâm: Ngoài nhơn loại ra, vạn vật sanh động chẳng có một giống nào có lương tâm. Xem qua việc làm của chúng nó thì dường như nó biết ơn báo ơn, oán báo oán, như quạ đút mồi nuôi mẹ, chó giữ nhà cho chủ, voi báo thù cho đồng loại nó; nhưng xét kỹ, chẳng qua là do trực giác tự nhiên của nó mà thôi, chớ nó không cử động như thế bởi lương tâm bảo nó phải làm như vậy bao giờ. Cũng có khi nó làm trái hẳn với trực giác thiên nhiên ấy đi, nhưng nó chẳng biết làm sao để ăn năn đổi lỗi lại. Thực sự ấy tỏ ra nó không có lương tâm.c) Loài vật không có lòng đạo đức: Loài vật không có lòng đạo đức, chẳng có lễ nghĩa, luật pháp, hay là qui tắc nào để dẫn dắt mình biết đường phải quấy, ngăn ngừa mình khỏi bước sai lầm. Nó sở dĩ là khờ dại, vô tri, vô năng là vì nó không có linh tánh. Xét ra thì nó không có lòng đạo đức để phân biệt lành dữ,phải quấy, tùy nơi ý chỉ mình đã định đoạt hoặc theo lẽ nầy hay trái lẽ nọ.d) Loài vật không có tư tưởng về tôn giáo: Hình thể loài vật đều cái đầu xuống cả,không được ngước lên cao như loài người. Dấu ấy tỏ ra nó thuộc về hạ giới,không được giao thông với thần linh thượng giới; vì cái tư tưởng tôn giáo là một cái đặc điểm của loài người, chẳng có loài nào khác được cái đặc điểm ấy. Các nhà khoa học phân loại vạn vật ra, thường cho loài người là một linh vật, biết kính thờ Đức Chúa Trời; còn thực sự ấy là tại loài người có tư tưởng tôn giáo vậy.TỔNG ĐOÁNẤy vậy, loài người với loài vật khác nhau xa như trời với đất, như tối với sáng, bởi vì loài nầy có linh tánh, còn loài kia không có. Loài người vì có linh tánh nên được cao trọng, đứng đầu muôn vật, giao thông cùng Thần Linh mà làm con cái của Đức Chúa Trời, có đủ tri thức,lý tánh, đạo đức, tinh thần và linh tuệ, có hi vọng bước đến cõi vô lượng vô biên, đến đỗi trở nên giống như Con Đức Chúa Trời vậy.II. LOÀI NGƯỜI ĐỒNG MỘT GỐCKhoa học lại buộc cho thần học phải giải nghĩa vấn đề nầy: Cả loài người khắp thiên hạ suốt xưa nay há có phải bởi cùng một căn nguyên mà ra, và có đồng một bản tánh không? Có phải họ chỉ bởi một đôi lứa mà ra, và được hiệp nhứt làm một chủng loại chăng? Câu nho “Tứ hải giai huynh đệ”, há có đúng đắn ư? Xin đáp:1. KINH THÁNH LÀM CHỨNG:Trong Kinh Thánh ta thấy chừng ba bằng cớ chứng thực rằng mọi dân tộc ở trên mặt đất đều do một đôi lứa mà sanh ra.a) Cuộc tạo thành làm chứng:Môi se ký thuật cuộc tạo thành, thì nói rằng loài người chỉ do một đôi lứa làm nguyên tổ như những câu kể sau đây chứng cho: xem Sa 1:27-28; Sa 2:7, Sa 2:22; Sa 3:20 Sa 9:19b) Nguyên tội và sự cứu rỗi làm chứng: Kinh Thánh cũng dạy rằng loài người bởi một gốc mà ra làm nền tảng của lẽ đạo về loài người đồng thể với A-đam mà phạm tội lần đầu nhứt. Nguyên tổ loài người không vâng mạng Đức Chúa Trời, sa ngã và phạm tội kết quả tánh hủ bại. Tội thứ nhứt với tánh hủ bại do nguyên tổ di truyền cho hậu tự, vì cả hậu tự đều đồng thể với nguyên tổ đó mà phạm tội vậy.Mà lẽ đạo loài người bởi một gốc mà ra cũng làm nền tảng về sự cứu rỗi của Christ. Trước kia loài người đều đồng thể với một người mà mắc tội; nay họ cũng nhờ một người mà được cứu rỗi. Ví bằng loài người bởi nhiều gốc khác nhau mà ra, thì tội lỗi có lẽ không phổ thông, và sự cứu rỗi có lẽ cũng không nữa. Nhưng vì cả loài người bởi một gốc mà ra, nên nguyên tội cũng lưu đến hết cả mọi người. Cũng tại chính cớ ấy loài người chỉ cần một sự cứu rỗi mà thôi. Những câu nầy chứng cho: xem Ro 5:12,19; ICo 15:21,22; He 2:16c) Tình anh em làm chứng:Khảo cứu cả bộ Kinh Thánh, thì thấy lẽ đạo về loài người bởi một gốc mà ra cũng là căn cứ của bổn phận loài người phải coi nhau như là anh em vậy. Vì nếu lẽ đạo ấy là đúng thì theo thể huyết thống, họ quả là anh em, cũng như câu nho chứng rằng:“Tứ hải giai huynh đệ”. Cũng tại chính cớ ấy mà tín đồ Christ có trách nhiệm truyền bá Tin lành về sự cứu rỗi cho muôn dân muôn nước vậy. Những câu kể sau nầy chứng cho: xem Cong 17:26; He 2:11,12; Lu 10:27; Ma 28:18-20; Mac 16:152. LỊCH SỬ LÀM CHỨNGKhảo cứu lịch sử của muôn dân trên địa cầu nầy,thì thấy thảy đều đồng thanh với Kinh Thánh mà chứng rằng loài người vốn bởi chỉ một nguồn gốc, một dòng giống do ở trung bộ Á châu mà ra. Sáng thế ký đoạn 10 ký thuật bởi cách nào loài người bị tan tác ra trên mặt đất. Theo ý kiến của các nhà sử học, thì mọi dân tộc bên Âu châu đều từ Á châu mà lần lần sang qua.Còn các nhà nhơn chủng học đều hiệp ý dạy rằng các dân tộc đã có bên Mỹ châu đều có lẽ là từ phía đông Á tế á mà sang qua Bắc Mỹ hoặc bởi đường quần đảo Aleoutiennes, hoặc bởi đường Hải dương châu. Lịch sử chép rằng trước đời Kha luân bố dân tộc Hải dương châu thường dùng chiếc canoe nhỏ của họ mà đi biển từ đảo Tahiti đến đảo Hawaii, xa ước chừng 3680 cây số. Dân Esquimaux ở bán đảo Alaska, rất thường từ đó sang qua xứ Sibérie (Nga) mà buôn bán, chẳng coi là khó gì cho lắm. Cho nên theo ý kiến ấy thì chẳng có gì khó giải quyết về phương diện cách dân tộc ở phía đông Á tế á sang qua Mỹ châu đâu.Dầu vậy, có mấy nhà bình phẩm lẽ đạo về loài người bởi một gốc mà ra, thường viện lấy chỗ màu da khác nhau, vóc giạc chẳng giống nhau, dung mạo, tánh tình cũng bất đồng, mà bài bác lẽ đạo ấy, quyết rằng các sự khác nhau ấy xác chứng rằng loài người chẳng đồng một gốc mà ra. Nhưng những chỗ dị đồng ấy là bởi khí hậu mà lần lần sanh ra. Giả như hiện nay có người Do Thái ngụ tại Ấn độ, mặt mày tóc râu đen cả. Còn người Do Thái ngụ tại nước Nga, thì mặt mày trắng trẻo và tóc râu hoe hoe cả. Ấy cũng tại lâu năm chầy tháng mà lần lần trở nên như thế, chớ chẳng phản đối gì với lẽ thật về loài người cùng chung một gốc mà ra đâu.3. KHOA HỌC LÀM CHỨNG:Khoa học cũng tán đồng sự dạy dỗ của Kinh Thánh và chủ trương rằng loài người bởi một gốc mà ra. Có bốn cớ làm chứng cho.a) Ngôn ngữ học làm chứng: Nếu so sánh các thứ tiếng trong thế gian, dễ thấy những tiếng quan hệ đều bởi một gốc chung mà ra, và các thứ tiếng không quan hệ cũng chẳng có bằng cớ chứng rằng được tự lập hoặc bởi gốc riêng mà ra. Kinh Thánh dạy rằng tiếng nói của các dân tộc nguyên sơ không khác nhau. Song từ khi dựng tháp Babên về sau, thì tiếng nói mới bị phân tách ra nhiều thứ khác nhau (xem Sa 11). Vả lại, ngôn ngữ học chứng rằng chữ Tàu, chữ Babylôn và chữ Ai Cập đều do một gốc, vì cả ba đều là tượng hình tự hết. Chữ số mục tiếng Tàu cũng giống như số mục của tiếng Phinisi, là một thứ tiếng cũ hơn hết. Tiếng nói của Nam Á châu và Hải dương châu cũng gần gần như nhau, vì hai chỗ ẫy chỉ cách nhau có một cái biển mà thôi. Nghiên cứu tất cả cổ tự và so sánh với những tiếng nói kim thời, thì thấy có nhiều chỗ mường tượng như nhau; bởi đó ta phải đoán rằng cả nhơn loại đều bởi một gốc mà ra.b) Tâm lý học làm chứng:Kê cứu về tâm lý của bất luận là dân tộc nào, đều thấy có những chỗ đặc sắc rất là giống nhau, đến đỗi phải cho là những đặc sắc chung. Dân tộc nào cũng có lòng đạo đức để phân biệt phải quấy; cũng có tư tưởng tôn giáo, biết kính thờ thần. Pháp luật và luân lý của dân tộc nầy chẳng lấy gì làm khác lắm với pháp luật và luân lý của dân tộc kia. Còn về triết lý và đạo giáo của dân tộc nầy cũng thuận hiệp với tinh thần và tâm giới của dân tộc khác. Cái khuynh hướng,tài năng sở hành của dân nầy không khác gì với dân nọ. Thực sự ấy vốn là một chứng cớ chắc chắn rằng cả nhơn loại đều bởi một gốc mà ra vậy.c) Những di truyền làm chứng: Tục ngữ và cổ tích của mỗi dân tộc phần nhiều đều giống như nhau. Trong những cổ tích ấy có chuyện nói về sự dựng nên trời đất và loài người, thuật về một lạc viên mà loài người đã ở lúc ban đầu, kể lại sự tích về một thời gian loài người có tánh vô tội, về một con rắn hay dụ dỗ, về một cây tri thức, về loài người bị cám dỗ và sa ngã, về cơn đại hồng thủy, về của lễ sinh tế để chuộc tội v…v. Bất luận là phương nào, cũng hay gặp người thuật lại các cổ tích ấy. Thực sự đó cũng đồng thanh với các cớ kia mà chứng rằng loài người chỉ bởi một gốc mà ra vậy.d) Sanh lý học làm chứng:Sanh lý học dạy rằng trong loài người, chủng nầy giao cấu với chủng kia, thì sanh sản được như thường. Hình thể và tánh cách mỗi người đều giống như nhau. Bất luận ở phương nào, nhiệt độ trung bình trong thân thể loài người vẫn chẳng khác gì nhau. Còn số mạch nhảy trong thân thể không sai chạy, trừ ra khi có bịnh thì không kể. Bất hạn là văn minh hay là dã man, hễ trai hay gái giao cấu nhau thì được thai dựng và sanh sản, và kỳ sanh đẻ của đờn bà ở đâu cũng như vậy. Lại dân tộc nầy cũng hay bị mọi thứ tật bịnh như dân tộc kia. Còn nếu tra xét về loài thú vật, thì thấy vật nầy có những đặc tánh khác với những vật kia. Lại nếu dùng kính hiển vi mà xem, thì cũng thấy máu của loài người giống nhau, nhưng khác hẳn với máu của thú vật. Các thực sự ấy chứng rằng loài người chỉ bởi một gốc mà ra.III. NGUYÊN TỐ CỦA LOÀI NGƯỜI1. BẢN THỂ CỦA LOÀI NGƯỜI CÓ HAI MẶTKinh Thánh dạy rõ bản thể của loài người có hai mặt, mặt nầy thì hữu hình, mặt kia thì vô hình. Phần hưũ hình bằng vật chất gọi là thân thể; còn phần vô hình bằng thần linh, gọi là tâm hồn, tâm linh. Những câu viện dẫn sau đây làm chứng: xem Sa 2:7; Dan 16:22; He 12:9; Gia 2:26; Ma 10:28Vậy, nhờ những câu ấy chúng ta có thể đoán đại khái rằng loài người có hai nguyên tố, một bằng thần linh, một bằng vật chất (cũng xem Sa 35:18; Tr 12:7).2. HAI Ý KIẾN VỀ NGUYÊN TỐ LOÀI NGƯỜIVề nhơn loại học có vấn đề nầy hơi khó giải quyết: Kinh Thánh há dạy rằng phần hồn và phần linh của loài người là hai nguyên tố khác nhau, hay là hai danh từ ấy há phải là hai tên cùng đặt cho một nguyên tố ư? Trong vòng các nhà thần đạo có hai ý kiến, gọi là nhị nguyên tố luận.Sau đây xin lược kể lại đại ý của hai ý kiến ấy.a) Nhị nguyên tố luận(1) Phát huy lý thuyết: Nhị nguyên tố luận đại yếu chủ trương rằng hồn và linh chẳng phải là hai nguyên tố khác nhau, bèn là hai tên đặt cho một nguyên tố thuộc linh, có hai phương diện đó thôi. Tra xét phương diện nầy, thì thấy trong đó có bản ngã của người, có sanh lý thiên nhiên, có ngộ tánh, và có sự tự tri tự giác; ấy gọi là tâm hồn,tiếng Hilạp gọi là psuche. Tra xét về phương diện kia, thì thấy trong đó có lòng đạo đức, phân biệt phải trái, có tài cảm xúc Đức Chúa Trời và giao thông với Ngài; cũng là chỗ Ngài ngự ở trong mình người; ấy gọi là tâm linh, tiếng Hilạp gọi là pneuma. Nói cách khác, tâm hồn và tâm linh hiệp nhứt thành linh tánh của loài người: tâm hồn là linh tánh hưởng cùng vật giới, nhờ ngũ quan mà thọ giáo cùng tiếp xúc với ngoại vật; tâm linh là linh tánh hưởng cùng linh giới giao thông với Đức Chúa Trời, có thể nhận lãnh và bày tỏ Thánh Linh. Trong hai phương diện ấy tâm linh là quan hệ hơn, vì có tài cảm biết và thấu hiểu sự thuộc linh, cũng có thể giao thông với Đức Chúa Trời. Thế thì, nguyên tố loài người chẳng phải là ba, bèn là hai mà thôi, tức là nguyên tố thuộc linh và nguyên tố vật chất. Nguyên tố thuộc linh tuy có hai phương diện đặc biệt, thì duy chỉ có một thể yếu mà thôi.(2) Bằng chứng của ý kiến nầy: Ý kiến nầy thường viện lấy những bằng cớ để chứng thực như sau đây:(a) Cuộc tạo hóa làm chứng: Sa 2:7 dạy rõ Đức Chúa Trời dùng đất mà nắn nên hình thể của loài người; rồi hà sanh khí vào lỗ mũi người; khiến cho người trở nên một loài có linh hồn sống.Câu ấy không nói rằng loài người đã có tâm hồn, rồi Đức Chúa Trời phú cho người luôn một tâm linh; bèn nói rằng Ngài dựng nên thân thể rồi, thì dùng nguyên lý của sự sống Ngài mà khiến cho người có linh hồn sống (sanh linh, nguyên văn là linh hồn sống). Ấy vậy, câu ấy chỉ nói về hai nguyên tố, là hình thể bởi đất mà ra, và linh tánh bởi Đức Chúa Trời hà sanh khí vào lỗ mũi người mà được nên.(b) Kinh Thánh dùng tên “hồn” và “linh” cách không phân biệt: Kê cứu các chỗ Kinh Thánh dùng chữ “hồn” và “linh” (hoặc “thân”) thì thấy thường dùng cách lẫn lộn lắm, đến đỗi dễ tin rằng hai danh từ ấy chỉ có một nghĩa mà thôi. Những câu viện dẫn sau đây làm chứng:xem Sa 41:8; Thi 42:6; Gi 12:27; Gi 13:21; Ma 20:28; Ma 27:50; He 12:23; Kh 6:9Trong những câu ấy thay đổi nhau và dùng chữ “hồn” và “linh” để chỉ về cùng một linh tánh của loài người đó thôi.(c) Cách xưng thân thể và tâm hồn (hoặc tâm linh) làm chứng: Trong Kinh Thánh các trước giả thường xưng thân thể và tâm hồn (hoặc tâm linh) dường như hai phần ấy hiệp nên cả mình loài người, như những câu kể sau đây cũng chứng cho: xem Ma 10:28; ICo 5:3; IIIGi 1:2Các câu ấy ám chỉ rằng thân thể và linh hồn (hoặc tâm linh) đều hiệp nhau thành cả mình người vậy.(d) Công việc quan hệ nhứt của linh tánh được nên bởi tâm hồn: Kinh Thánh thường dạy rằng công việc quan hệ nhứt của linh tánh loài người được làm nên bởi tâm hồn, ám chỉ rằng dường như tâm hồn là cả linh tánh của loài người, cũng như các câu nầy chứng cho: xem Lu 10:27; Lu 1:46Trước giả thơ Hê-bơ-rơ dạy rằng linh hồn trông cậy nơi lời hứa của Đức Chúa Trời: xem He 6:18,19Còn sứ đồ Gia-cơ dạy rằng linh hồn có thể nhận lãnh đạo Đức Chúa Trời để được cứu rỗi: xem Gia 1:21Trong những câu ấy, danh từ “linh hồn” dường như chỉ về cả nguyên tố thuộc linh của loài người vậy.(e) Sự mất linh hồn làm chứng:Christ nghiêm huấn rằng hễ ai mất linh hồn, tức là mất cả chính mình. Xem Mac 8:36,37; Lu 9:25Chữ linh hồn đây cũng chỉ về cả bản ngã người;nên mất linh hồn, ấy là mất cả mình vậy. Kinh Thánh chẳng hề nói về sự mất tâm linh bao giờ.(f) Sự tự giác làm chứng: Bản năng tự giác chứng thực cho nhị nguyên tố luận, bởi vì nếu ta tự xét bề trong,thì dễ phân biệt phần vật chất với phần thần linh. Nhưng nào có ai có thể phân biệt tâm hồn với tâm linh được đâu bao giờ?g) Tam nguyên tố luận:(1)Phát huy lý thuyết:Tam nguyên tố luận chủ trương rằng loài người có ba nguyên tố, tức là thân thể,tâm hồn và tâm linh. Thân thể là phần vật chất; tâm hồn là nguyên lý của sự sống thuộc thể; còn tâm linh là nguyên lý của sự sống thuộc linh, có lý tánh và chẳng hề hư mất. Khi chết thì thân thể tiêu tan ra tro bụi; tâm hồn cũng tiêu mất không còn nữa; duy tâm linh vẫn tồn tại luôn, và đến khi ngày sống lại, thì tâm linh được hiệp lại với thân thể vinh hiển. Duy loài người mới có tâm linh; tâm linh ấy có ngộ tánh, ý chí và lương tâm. Loài người và thú vật cả hai đều có phần hồn. Song phần hồn của loài người có sự hiểu biết, cảm tình và tri giác. Còn thân thể của cả hai, loài người và thú vật, đều chỉ bằng vật chất đó thôi.(2)Bằng chứng của ý kiến nầy:Tam nguyên tố luận thường viện lấy những bằng cớ kể sau đây mà chứng thực cho ý kiến mình.(a) Cuộc tạo thành làm chứng: Họ chủ trương rằng Sa 2:7 dường như tỏ ra trong cuộc tạo thành loài người hưởng được ba nguyên tố, là hình thể bằng bụi đất, sanh khí của Đức Chúa Trời hà vào lỗ mũi, và linh hồn sống bởi đó mà ra.(b) Bài ca của Ma-ri làm chứng: Lu 1:46,47 ký thuật bài ca của Mari rằng: “Tâm hồn tôi tôn đại Chúa, Tâm linh tôi mừng rỡ trong Đức Chúa Trời là Cứu Chúa tôi.” Trong bài ấy Ma-ri phân biệt phần hồn với phần linh vậy.(c) Lời cầu nguyện của Phao-lô làm chứng:Trong thơ Tê-sa-lô-ni-ca Phaolô cầu nguyện cho tín đồ Tê-sa-lô-ni-ca rằng: xem ITe 5:23Câu ấy có lẽ là bằng chứng mạnh hơn hết của tam nguyên tố thuyết, vì phân biệt rõ ràng tâm linh, tâm hồn và thân thể của loài người.(d) Quyền năng của đạo Đức Chúa Trời làm chứng:Trước giả thơ Hê-bơ-rơ tả vẽ quyền năng lạ lùng của đạo Đức Chúa Trời mà rằng:xem He 4:12Câu ấy cũng phân biệt tâm hồn với tâm linh rõ rệt lắm.TỔNG ĐOÁNGẫm xét về điều Kinh Thánh chép về vấn đề nguyên tố của loài người, thì thấy không rõ lắm hoặc loài người có hai nguyên tố hay là ba nguyên tố. Mà vấn đề nầy cũng chẳng quan hệ quá đỗi với các lẽ đạo trọng nhứt của Tin Lành. Ta tín nhận bên nào cũng được cả, miễn là mình có lòng tín nhận Jesus Christ là Cứu Chúa mình để được cứu rỗi là đủ. Vả lại, điều gì Thánh Linh không minh giải mười phần rõ rệt, chúng ta cũng chẳng nên quả quyết quá, e mình theo sự ức đạt cượng giải mà sa vào đường lầm lạc chăng.Thế nhưng, nếu nghiên cứu Kinh Thánh cho kỹ,cân nhắc các câu luận đến vấn đề nầy, thì thiết tưởng có thể đoán như sau đây:Loài người chỉ có hai nguyên tố đặc biệt, là phần thể chất và phần thần linh.Nói rộng ra, thì phần thần linh bất quá là bản ngã của mỗi người, được Kinh Thánh gọi bằng hoặc tâm hồn hay là tâm linh (Mac 8:36,37; sánh với Lu 9:25).Cái nguyên tố thuộc linh ấy lại bao hàm cả hai phương diện; khi nói hẹp thì phương diện nầy gọi là tâm hồn, còn phương diện kia thì gọi là tâm linh. Trong tâm hồn có ngộ tánh, cảm tình, ý dục, lương tâm và tự nhiệm. Nhờ các quan năng ấy loài người có thể giao thông với thế giới hữu hình. Còn trong tâm linh có các lương năng thuộc linh, có thể giao thông với Đức Chúa Trời và thế giới vô hình.Nói một lời, tâm hồn là phần của loài người hướng với đồng bào và vật giới; còn tâm linh là phần hướng cùng Đức Chúa Trời và linh giới.Nhà trại (đền tạm) trong đồng vắng có lẽ làm tượng trưng (symbole) về nguyên tố của loài người. Nhà trại có hành lang, chỉ bóng về nguyên tố vật chất là thân thể của người ta. Giữa hành lang đó có hội mạc,chia ra làm hai phòng, là nơi thánh và nơi chí thánh. Hai phòng ấy ám chỉ về nguyên tố thuộc linh có hai phương diện, là tâm hồn và tâm linh. Ba nơi ấy lại có sự sáng khác nhau, chỉ bóng rằng hai nguyên tố của loài người cần có sự sáng cũng khác nhau. Thứ nhứt, có sự sáng nơi hành lang là sự sáng thiên nhiên. Thân thể loài người cũng cần phải nhờ sự sáng của cõi thiên nhiên mà được soi sáng.Thứ nữa, có sự sáng ở nơi thánh, là sự sáng nhơn tạo, bởi dầu và đèn thắp mới sáng được. Tâm hồn của loài người cũng phải nhờ sự sáng nhơn tạo, nghĩa là phải nhờ sự học vấn mà khiến cho sự tối tăm ngu dốt tan chảy mất đi, đến đỗi hễ muốn được cứu rỗi, cũng cần nhờ người ta dạy đạo cho, mới mong cho tâm chí thoát vòng tối tăm, để được đường cứu rỗi. Còn về nơi chí thánh lại dùng sự sáng khác, là sự sáng siêu nhiên, do chính Đức Chúa Trời ngự tại nơi ấy. Cũng một lẽ ấy, tâm linh của loài người không thể nhờ sự sáng thiên nhiên hoặc nhơn tạo,bèn phải nhờ sự sáng siêu nhiên của Đức Chúa Trời soi vào, mới mong thoát khỏi sự tối tăm thuộc linh được.Đức Chúa Trời dựng nên loài người cốt ý để Ngài ngự trong tâm linh của họ, dùng nơi ấy làm đền thờ của Ngài. Hễ có Ngài ngự tại đó, mới có sự sáng của sự sống thật; bằng không có, chỉ có sự tối tăm của sự chết thuộc linh ở đó thôi. Kìa, dân Ysơraên phạm tội, vinh hiển của Đức Chúa Trời bèn lìa bỏ nơi chí thánh trong đền thờ, thì nơi ấy liền trở nên tối tăm (xem Êx 9:3,4; Êx 10:4,18). Cũng vậy, khi loài người phạm tội cùng Đức Chúa Trời, thì Ngài liền lìa khỏi tâm linh họ, và nơi ấy bèn trở nên tối tăm. Vả, tâm linh bị phân rẽ với Đức Chúa Trời dường ấy, Kinh Thánh gọi là sự chết thuộc linh (Eph 2:1, Eph 2:5). Hễ khi nào tội nhân trở lại cùng Đức Chúa Trời, công nhận Jesus Christ làm Cứu Chúa của mình, thì được tái sanh (Gi 3:3, Gi 3:6), tức là được Đức Chúa Trời bởi Thánh Linh ngự trong tâm linh, đuổi sự tối tăm ra mà ban cho sự sáng của sự sống đời đời vậy.IV. CĂN NGUYÊN CỦA LINH HỒNVấn đề về căn nguyên của linh hồn thực rất quan hệ. Cứ theo như luận thuyết của các nhà thần đạo, thì có ba ý kiến như sau đây.1. TIỀN TẠI THUYẾTa) Phát huy lý thuyết: Mấy nhà triết học Platon, Philon, và giáo phụ Origène đều chủ trương lý thuyết nầy.Họ dạy rằng trong khi linh hồn chưa được nhập vào thân thể, thì đã có từ trước rồi. Platon viện lấy thuyết nầy để giải nghĩa rằng người ta vẫn có những quan niệm không do lý trí mà ra, bèn là do từ kiếp trước của người ta mà lưu truyền lại.Ông Philon dạy rằng linh hồn vốn đều từ Đức Chúa Trời mà lưu xuất. Song có những linh hồn bị cám dỗ, và sa ngã, ham mến vật chất, nhân cớ đó họ bị Đức Chúa Trời hình phạt mà lưu đày trong xác thịt, chịu khốn khó bại hoại.Giáo phụ Origène chủ trương rằng linh hồn vốn ở trên trời. Nhưng vì cớ phạm tội, phải hiện ra trong thân thể ở dưới đất, đặng đền bồi tội lỗi mình. Cho nên linh hồn nào tội ít, thì ở dưới trần gian nầy có địa vị kha khá; còn linh hồn nào tội nhiều, thì cảnh ngộ nó dưới đời nầy lại bị khốn nạn nhiều. Ông cho đời nầy là nơi mà Đức Chúa Trời ban dịp tiện cho linh hồn bỏ điều ác mà làm điều thiện. Hội đồng nhóm tại Constantinople năm 538 S.C. bài xích ý kiến của Orgène, cho là tà giáo.Thuyết nầy gần như ý kiến của Phật giáo về căn nguyên của linh hồn. Giáo ấy dạy rằng linh hồn nhờ sự luân hồi mà được đầu thai lại trong thế gian đến muôn đời ngàn kiếp. Mục đích về sự luân hồi cũng là để đền tội đã phạm trong kiếp trước. Khi hết tội mới vào cõi Nát bàn (Nirvana)vậy.Hiện nay cũng có nhiều nhà tán đồng thuyết nầy,nhứt là trong vòng các nhà triết học, thi nhơn và văn sĩ.b) Các bằng cớ phản đối:Tiện đây xin kể lại mấy bằng cớ phản đối tiền tại thuyết.(1) Phản đối Kinh Thánh:Thuyết nầy chẳng những là không có một câu Kinh Thánh chứng cho, lại còn phản đối hẳn với truyện tích về cuộc tạo thành chép trong đó nữa. Lại nữa, thuyết nầy cũng phản đối với lời Phaolô dạy về căn nguyên của tội ác và sự chết của loài người, là đều do sự vi phạm thứ nhứt của A-đam mà ra cả (Rô. 5:12). Xem Sa 1:27,31; Rô. 5:12;Nếu tiền tại thuyết là đúng, thì khó biết hoặc mọi người đều thật có tội, cũng chẳng rõ hoặc Đức Chúa Trời chỉ nhóm họp tội nhân ở trên mặt đất nầy mà thôi, hay là cũng có kẻ có tội ở chỗ khác nữa chăng.(2) Không ai nhớ lại kiếp trước: Nếu trong địa vị tiền tại loài người cũng có tự giác và nhân cách, thì tại sao chẳng ai nhớ lại kiếp trước mình chưa sanh ra loài người, và sự vi phạm trong lúc ấy?Còn nếu linh hồn lúc ấy chưa có tự giác, cũng chưa thành vị, thì thế nào phạm tội mà kết quả sự xấu xa như thế được? Bởi vì hễ ai chưa có tự giác và nhân cách,thì cũng chẳng có thể phạm tội mà phải chịu trách nhiệm về tội ấy như ta thấy A-đam và hậu tự người đã phải chịu vậy.(3) Không giải nghĩa do lai của nguyên tội:Thuyết tiền tại chẳng giải nghĩa rõ về cái do lai của nguyên tội, vì chủ trương rằng sự vi phạm lần thứ nhứt thuộc về địa vị trước kia khi chưa có xác thịt cám dỗ, cũng chẳng chắc có ma quỉ cám dỗ nữa. Thuyết nầy cũng đổ tội cho Đức Chúa Trời, vì dạy rằng sau sự vi phạm thứ nhứt đó, Ngài nhốt loài người ở trong địa vị rất khó ăn năn trở lại với Ngài được.(4) Chối A-đam là nguyên tố của linh hồn:Thuyết nầy cũng phản đối với Kinh Thánh mà phủ nhận A-đam là nguyên tổ của linh hồn loài người, chỉ nhận ông là nguyên tổ của thân thể mà thôi. Song nếu A-đam chỉ là nguyên tổ của thân thể, thì các tội lỗi thuộc linh, như kiêu ngạo, giận hờn, ghét Đức Chúa Trời v.v…, làm sao mà ông di truyền lại cho hậu tự được. Hay là có phải chỉ những tội thuộc xác thịt là tội, còn các tội thuộc linh thì không? Nói như vậy là vô lý khôn xiết, minh chứng rằng thuyết tiền tại là sai lầm đó thôi.2. TRỰC TẠO THUYẾTa) Phát huy lý thuyết:Thuyết nầy chủ trương rằng linh hồn của mỗi người bởi Đức Chúa Trời trực tiếp dựng nên, phú cho từng cá nhân trong lúc mới đầu thai trong lòng mẹ, hay trong lúc mới sanh ra. Xưa có nhà triết học Aristote, Giáo phụ Jérome, và nhà tà giáo Pélage tán đồng ý kiến nầy. Hiện nay cũng có nhiều nhà thần học của Giáo hội Lamã, và mấy nhà thần đạo của Giáo hội Cải chánh đều tín nhận thuyết nầy. Các nhà chủ trương thuyết nầy thường viện dẫn những câu Kinh Thánh dạy về Đức Chúa Trời là Đấng tạo thành linh hồn như Tr 12:7; Es 57:16; He 12:9, mà chứng thực cho ý kiến mình. Họ cũng nói rằng nếu Đức Chúa Trời không trực tiếp dựng nên mỗi linh hồn,cớ sao mọi trẻ con sanh ra đều có tánh tình đặc biệt, không thể nào do cha mẹ di truyền cho con được?b) Phần sai lầm của thuyết trực tạo:Thuyết nầy có phần sai lầm như sau đây:(1) Giải nghĩa sai Kinh Thánh: Kẻ chủ trương ý kiến của thuyết nầy đều giải nghĩa sai lầm về Kinh Thánh. Vì các câu viện dẫn ấy thật dạy rằng Đức Chúa Trời dưng nên linh hồn loài người; song cách dựng nên ấy không phải là trực tiếp, bèn là gián tiếp. Linh hồn của cả giống loài người được dựng nên ở trong A-đam trước hết, rồi sau bởi công lệ sanh hóa mà từ ông ấy di truyền cho cả hậu tự từng người một. Vả lại, Kinh Thánh dạy rõ lắm thân thể được dựng nên bởi Đức Chúa Trời cũng như linh hồn vậy (xem Thi 139:13,14; Gie 1:5). Thế mà, ai ai cũng chịu rằng, trừ ra thân thể của nguyên tổ ta, thì Đức Chúa Trời dựng nên thân thể của mọi người khác cách gián tiếp bởi công lệ sanh hóa mà A-đam di truyền cho đó, chớ Ngài chẳng hề nắn nên hình thể từng người, như Ngài đã nắn nên hình thể của A-đam đâu. Thế thì, nếu hiểu ý nghĩa những câu luận về sự dựng nên thân thể là như vậy, cớ sao lại phải hiểu những câu luận về sự dựng nên linh hồn cách khác ư?(2) Phản đối với công lệ sinh thực:Theo ý kiến nầy, cha ở thế gian chỉ là cha của thân thể mà thôi; chớ không phải cũng là cha của linh hồn, là phần tối cao kia nữa đâu. Thế thì loài thú trổi hơn loài người; vì nó có quyền tự sinh thực (se procréer) trọn vẹn hơn; còn loài người thì chỉ có quyền tự sinh thực về một mặt là thân thể đó thôi.(3) Khó minh giải tại sao cha con giống nhau: Nếu tán đồng ý kiến nầy, thì thực lấy làm khó mà minh giải tại sao cha con giống nhau, ta thường thấy chẳng những là hình hài cha con giống nhau mà thôi, lại tánh tình và tư cách cũng giống nhau nữa. Nên chi nếu luận rằng cha mẹ sanh con chỉ sanh phần xác, còn linh hồn lại do nguồn khác mà ra, thì thật lấy làm khó cắt nghĩa vì lẽ gì mà cha con giống nhau vậy.(4) Đổ cho Đức Chúa Trời là nguồn của tội lỗi: ý kiến nầy đổ cho Đức Chúa Trời là nguồn của tội lỗi. Bởi vì hễ cho linh hồn nguyên chẳng phải là trọn lành, tức là đổ cho Đức Chúa Trời là nguồn của tội lỗi cách trực tiếp vậy. Còn nếu gọi linh hồn là trọn tốt trọn lành, mà Đức Chúa Trời lại đành lấy linh hồn ấy phú cho thân thể bất khiết đến đỗi linh hồn cũng phải ra ô uế nữa, ấy quả là cho Đức Chúa Trời là nguồn của tội lỗi cách gián tiếp đó thôi.(5) Khinh dễ công việc Đức Chúa Trời: Ý kiến ấy thực khinh dễ công việc của Đức Chúa Trời. Nếu luận rằng linh hồn hiệp với thân thể lúc mới sanh ra, thì phản đối với nguyên lý đã tỏ ra trong Lu 1:44 và Giop 3:11, Giop 3:13. Vì trong đó minh chứng rằng đứa con đương ở trong lòng mẹ đã thành vị và có sinh lý rồi. Còn như định rằng linh hồn được Đức Chúa Trời trực tiếp phú vào thân thể trong khi mới thọ thai, thực là khinh dể công việc Đức Chúa Trời quá. Giả như có trai gái giao cấu với nhau hiệp lẽ chánh, mà sanh con, thì nỡ nào nói rằng Đức Chúa Trời phú linh hồn cho con ấy trong lúc thọ thai! Nói vậy há chẳng phạm thượng sao? Đức Chúa Trời là Đấng Thánh khiết tuyệt đích, nào có can dự gì đến việc ấy đâu bao giờ?!!3. DI TRUYỀN THUYẾTa) Phát huy lý thuyết: Ý kiến thứ ba gọi là di truyền thuyết, chủ trương rằng cả nhơn loại đều được trực tiếp dựng nên ở trong A-đam, rồi từ đó linh hồn và xác thịt của mỗi người nhờ công lệ sanh hóa mà di truyền từ con đến cháu, mãi đời nọ đến đời kia. Thế thì,các linh hồn từ A-đam đến giờ đều nhờ Đức Chúa Trời dựng nên cách gián tiếp bởi công lệ sinh thực đã phú cho nguyên tổ trong lúc người được tạo thành, và đã di truyền lại cho chúng ta ngày nay. Đời thượng cổ có Giáo phụ Tertullien và Augustin tán đồng ý kiến nầy. Hiện đại có nhiều nhà thần đạo của Giáo hội Cải chánh cũng đều chủ trương theo lẽ ấy nữa.b) Các bằng cớ chứng minh thuyết nầy là chánh giáo: Về ý kiến nầy xin giải minh như sau đây:(1) Hiệp với Kinh Thánh:Thuyết nầy chắc thích hiệp với sự dạy dỗ của Kinh Thánh hơn là các ý kiến khác.Vì Kinh Thánh ám chứng rằng cả nhơn loại được Đức Chúa Trời dựng nên trong A-đam một lần đủ cả (Sa 1:27), rồi từ đó cứ theo lệ sanh hóa mà sanh sản thêm lên mãi. Đức Chúa Trời hà sanh khí vào lỗ mũi loài người chỉ một lần mà thôi, rồi sau Ngài nghỉ công việc dựng nên. Còn sanh khí ấy loài người cứ di truyền lại cho con cháu mãi mãi chẳng dứt. Những câu Kinh Thánh kể sau đây làm chứng. Sa 1:27, Sa 1:28; Sa 2:7; Sa 2:22; ICo 11:8; Sa 4:1; Sa 5:3; Sa 46:26; Cong 17:26; He 7:10; Sa 2:2(2) Hiệp công lệ sanh hóa:Thuyết nầy cũng hiệp với công lệ sanh hóa của thực vật và động vật, bởi vì hình thể, sanh mạng và mọi bản năng của các vật ấy đều bởi cha mẹ mà sanh ra cả. Về loài người cũng vậy, có đủ bằng cớ minh chứng rằng chẳng những hình hài cha con giống nhau, mà lại tâm tánh và mọi sự xu hướng về thiện ác đều cũng giống nhau như khuôn đúc, là vì do một mạch máu mà ra đó vậy.TỔNG ĐOÁNThế thì, nói tóm lại, ta quyết định rằng,nhờ công lệ thiên nhiên và theo lời Kinh Thánh dạy thì rõ rằng cả thân thể và linh hồn đều nhờ lệ sinh thực đã có trong loài người mà được di truyền lại cho cả mọi người về sau. Thực sự ấy quả là một sự mầu nhiệm của Đức Chúa Trời, người phàm không thể thấu hiểu được; lấy lý trí hữu hạn của ta mà dò xét giải quyết,quả cũng một việc đại bất năng vậy.V. LÒNG ĐẠO ĐỨC1. ĐỊNH NGHĨA LÒNG ĐẠO ĐỨCMọi người sanh ra trong cõi đời đều có những thiên tài mà các nhà thần học gọi bằng lòng đạo đức. Lòng đạo đức có nghĩa gì? Lòng đạo đức tức là những thiên tài của loài người lợi dụng đặng thi hành điều thiện điều ác, phân biệt sự phải quấy. Thiên tài ấy gồm có trí lực, cảm tình, ý chí, và lương tâm. Loài người có thể làm thuận hay nghịch với lòng đạo đức. Cho nên trong người có trí lực để phân biệt phải quấy; có cảm tình để chịu cảm động bởi việc phải hay quấy đó; cũng có ý chí để quyết định làm theo hay không làm theo. Trí lực, cảm tình, và ý chí đều là ba bản năng thiên nhiên của ngôi bản ngã. Ngoại giả, có một bản năng khác, dường như cai trị cả ba cái kia,gọi là lương tâm; nếu chẳng có cái bản năng ấy, thì loài người chẳng có thể thi thố gì thuận hay nghịch với lòng đạo đức của mình được. Lương tâm thường lấy luật đạo đức mà ứng dụng cho hành vi của mình, công nhận rằng luật ấy buộc sao thì phải làm theo vậy. Chỉ loài nào có trí lực, cảm tình, và ý chí mới có thể thi thố việc thuận hay nghịch với lòng đạo đức. Sau đây xin chỉ luận về lương tâm và ý chí tự do mà thôi.2. LƯƠNG TÂMa) Giới thuyết danh từ “lương tâm”: Nghĩa đen của chữ lương tâm là lòng lành, là thiện tâm tự nhiên, người nào cũng có cái linh tánh vốn có ở bề trong hay cáo trách trong khi làm quấy, khen ngợi trong lúc làm lành. Có nhà thần đạo cho lương tâm là một thiên tài đặc biệt như trí lực, cảm tình, và ý chí, có quyền dạy phải làm điều nầy tránh điều kia. Có nhà khác cho lương tâm bất quá là tiếng phán của Đức Chúa Trời ở trong linh hồn mình. Lại có ý kiến thứ ba dạy rằng lương tâm chẳng như ba thiên tài kia, bèn là cái biểu hiện của bản ngã đối với luật luân lý mà mình công nhận là cái tiêu chuẩn của đời sống mình. Về phần ký giả thì xin tán đồng ý kiến nầy.b) Nội dung của lương tâm:Phân tích lương tâm ra thì thấy trong đó có chứa những yếu tố như sau nầy:(1) Có sự tự giác:Cái bản năng tự giác vốn nằm ở trong lương tâm. Nhờ nó người ta biết mình và cả hành vi cử chỉ của mình. Lương tâm hay chiếu theo luật đạo đức (luật luân lý)mà cân nhắc ý tưởng và hành vi của mình, cốt để khiến linh hồn cảm biết mình phải đối với bổn phận mình là thể nào. Thế thì, ta thấy cả trí lực và cảm tình đều can thiệp đến sự vận động của lương tâm: nhờ cái nầy ta biết bổn phận tỏ ra trong luật đạo đức; nhờ cái kia ta chịu giục giã muốn làm theo cho trọn bổn phận ấy. Hễ làm trọn bổn phận ấy, thì “lương tâm… không biết tội nữa,” nghĩa là cảm tình không còn cảm xúc sự trách móc của lương tâm, bởi vì đã được rửa sạch sẽ rồi (xem He 10:2).(2) Hiểu biết luật đạo đức:Lương tâm có thể hiểu biết luật đạo đức, công nhận là tiêu chuẩn của bổn phận mình cần phải làm theo. Kỳ thực, lương tâm không thể thi thố việc gì, miễn là viện lấy luật đạo đức làm tiêu chuẩn, để phân biệt lành dữ, phải quấy. Vẫn biết rằng lắm khi luật đạo đức (luật luân lý) người ta nhận làm tiêu chuẩn có chỗ bất toàn, nhưng luật ấy đã định thể nào, thì lương tâm ắt phải tuân theo đó mà xét đoán thể ấy, viện lấy nó làm thằng mặc mà phân định tư tưởng lành hay dữ, việc phải hay quấy của mình. Yếu nghĩa của luật đạo đức vốn được ghi tạc trong lòng loài người, nên ta thấy dân tộc nào, dầu dã man cho đến mấy, cũng thi thố ít nhiều theo luật đạo đức vậy. Ấy là ý của Phao-lô khi chép trong thơ Rôma rằng:xem Ro 2:14; Ro 2:15Vả lại, nếu người ta công nhận luật luân lý nào làm tiêu chuẩn chánh thức cho ai nấy phải tuân theo, thì dầu luật ấy là sai lầm đến chừng nào đi nữa, lương tâm cũng cứ noi theo đó mà phán đoán phải quấy, xét định dữ lành vậy. Ngẫm xét thực sự ấy dễ thấy lương tâm chẳng tự tiện mà phân biệt phải quấy, xét đoán lành dữ đâu, bèn là phải nhờ sự học biết luật đạo đức mới làm được. Cho nên nếu luật ấy là sai lầm không hợp theo lẽ thật,thì lương tâm ắt cũng theo đó mà phán đoán sai lầm, quyết định việc phản đối với lẽ thật vậy. Thế thì, rõ lắm muốn có lương tâm phán đoán đúng đắn, rất cần phải dạy cho lòng đạo đức, luật đạo đức chánh đáng mới mong nó sẽ thi thố hợp theo lẽ thật vậy.Thí dụ như ở Ấn độ có người mẹ kia vì lòng tín ngưỡng mà ném con nhỏ mình xuống sông Ganges cho cá sấu nuốt. Khi đã làm như vậy rồi thì lương tâm của người mẹ ấy há có bị cắn rứt chăng? Chẳng có chút nào, trái lại lương tâm còn khen tặng nữa thì có. Tại sao vậy? Há chẳng vì luật đạo đức của người mẹ đó là rất sai lầm ư? Hễ muốn người mẹ bỏ việc gớm ghiếc ấy, thì cần phải đem luật đạo đức chánh đáng mà dạy cho lòng đạo đức của người,rồi sau lương tâm tự nhiên viện lấy lẽ thật của luật ấy mà đoán định việc ném con mình cho cá sấu là tội sát nhơn nặng vô cùng, khiến cho người mẹ chẳng chịu làm nữa. Ví thử luật đạo đức mà người nào công nhận làm theo đó là sai lầm, thì thế nào tránh khỏi sự sáng ấy thành tối tăm ư? Cũng như Chúa phán: xem Ma 6:23Vả, luật đạo đức chánh đáng đáng làm tiêu chuẩn cho loài người tuân theo, là luật pháp của Đức Chúa Trời, vốn được ghi tạc cách mờ mờ trong lòng mọi người, mà nay đã được khải thị minh bạch trong Kinh Thánh rồi. Duy kẻ thông biết và công nhận luật đạo đức ấy mới có lương tâm phán đoán và quyết định theo ý chỉ của Đức Chúa Trời đó thôi.Nghiên cứu Kinh Thánh thì thấy có kẻ có “lương tâm yếu đuối” (ICo 8:12). Ấy tại vì cái tiêu chuẩn đạo đức về bổn phận kẻ ấy còn bất toàn lắm, nên phân biệt phải quấy còn lờ mờ đó vậy. Cũng có kẻ “có lương tâm chai lỳ” (ITi 4:2). Ấy bởi vì lắm phen kẻ đó không chịu theo cái tiêu chuẩn đạo đức mà làm bổn phận của mình; hễ cứ cố ý trái luật đạo đức mãi, ắt không sớm thì muộn lương tâm cũng ra lì lợm, và mất tài phân biệt phải quấy vậy.Hễ ta phạm tội, ắt khiến cho lương tâm bị xấu hay ô uế, đã vậy, mà còn mong thoát khỏi, thì chỉ có một cách thoát khỏi, ấy là nhờ huyết của Christ mà “được tưới khỏi lương tâm xấu” (He 10:22), “lương tâm ô uế” (Tit 1:15), và được lại “lương tâm tốt” (IPhi 3:16) vậy. Ta giữ được “lương tâm tốt” mỗi khi ý chỉ mình chịu thuận phục sự đoán định của nó. Lại bị “lương tâm xấu” mỗi lần nào mình không khứng thuận phục sự đoán định của nó do Thánh Linh và Kinh Thánh mà dạy bảo cho. Ví bằng luật đạo đức ta có chỗ sai lầm, thì phải nhờ Kinh Thánh và Thánh Linh mà sửa đổi, mới khiến cho lương tâm đoán định đúng đắn với lẽ thật. Chúng ta chẳng dám theo lương tâm khi nó tự tiện phán đoán gì, e nó viện lấy luật luân lý sai lầm mà thi thố chăng; duy nên theo nó là khi nó hợp theo lẽ thật khải thị trong Kinh Thánh mà thi thố đó thôi.(3) Cảm biết mình làm theo luật đạo đức hay không: Chúng ta nhờ lương tâm tự xét lấy mình.Lương tâm chiếu theo luật đạo đức mình đã công nhận làm tiêu chuẩn cho đời sống mình, mà phán xét công việc mình đã làm, đoán định cho việc ấy là phải hay quấy.Về phương diện nầy trí lực hiểu biết luật đạo đức; còn cảm tình cảm biết sự đoán định của lương tâm, và trong mình liền có tiếng khuyên răn: “Đừng làm điều nầy, nhưng hãy làm việc kia.” Mình làm theo luật đạo đức hay là không, thì lương tâm biết rõ, miễn là nó không đến nỗi ra lì lợm là được.(4) Khen chuộng hay trách móc:Khi ta đã tự xét lấy mình, đã nhờ luật đạo đức mà đo đắn nhắc cân địa vị và hành vi của mình, nếu thấy nó là phải, thì lương tâm khen chuộng; bằng quấy,thì lương tâm cáo trách. Ví bằng lương tâm đã ứng dụng luật đạo đức để phán xét, và đã đoán định rằng địa vị và hành vi là phải cả, thì trong mình bèn cảm biết mình đẹp lòng Đức Chúa Trời có hi vọng sẽ hưởng được hạnh phước của Ngài.Song nếu lương tâm đã cho là quấy, thì tức thì tự cảm biết mình không đẹp lòng Đức Chúa Trời, mà lại áy náy lo sợ bị hình phạt tương lai nữa. Vả, khi ta ở đẹp lòng Đức Chúa Trời, thì có “lương tâm tốt” (ITi 1:5), “lương tâm thanh sạch”(ITi 3:9), “lương tâm không trách được đối với Đức Chúa Trời và người ta” (Cong 24:16). Còn hễ ai cảm biết mình không đẹp lòng Đức Chúa Trời, nhưng lo sợ bị hình phạt, thì có “lương tâm xấu” (He 10:22), “lương tâm ô uế” (Tit 1:15). Ví thử kẻ ấy cứ cố ý trái phạm ý chỉ Đức Chúa Trời, không chịu ăn năn, không khứng nhờ huyết Chúa làm sạch tội, ắt lần lần bị “lương tâm chai lỳ” (ITi 4:2) chẳng sai.3. Ý CHÍ TỰ DOa) Định nghĩa:Ý chí tự do, hay là sự tự nhiệm, vốn là một bản năng của mọi người, để tự mình lãnh trách nhiệm mà nhứt định làm việc nầy, từ chối làm việc kia. Nói cách khác, ý chí tự do là cái năng lực của bản ngã hay lợi dụng để lựa chọn làm theo hay không làm theo luật đạo đức của Đức Chúa Trời trong khi mình thi hành phận sự của mình.b) Nội dung của ý chí:Trong ý chí tự do gồm có bốn năng lực khác nhau, rất có quan hệ đối với mọi động tác của người ta. Bốn năng lực ấy là: mục đích, động cơ trạng thái, phán đoán lực,và quyết định lực.(1) Mục đích về việc làm:Phàm người nào có lý tánh mở mang hoàn toàn, trước khi toan liệu làm việc gì,thường có cái mục đích ở trước mặt; bằng chẳng vậy, thì đã mất trí khôn rồi. Hễ đã toan liệu đạt đến mục đích nào đó, thì thường nhờ lý trí mà lựa chọn phương pháp thích hợp đặng đạt đến mục đích ấy.(2) Động cơ trạng thái:Mọi công việc có mục đích hợp lý, cũng thường phải do một cái động cơ (cớ tích)thúc giục mà làm, mới thành công được. Còn cái động cơ ấy tạo ra trong tinh thần mình một cái trạng thái thích hợp với cái động cơ và mục đích ấy, gọi là động cơ trạng thái. Giả như có kẻ muốn làm người truyền đạo, vì nghĩ rằng chức ấy lấy làm “dễ kiếm ăn.” Ba chữ “dễ kiếm ăn” ấy là cái động cơ thúc giục kẻ ấy muốn làm chức truyền đạo, tạo ra trong lòng cái trạng thái ích kỷ; cái trạng thái ấy thích hiệp với cái động cơ một cách khắng khít lắm vậy.(3) Phán đoán lực:loài người vẫn có quyền trên các động cơ trong lòng mình, và trên các trạng thái do động cơ ấy tạo ra. Ấy đó là một thực sự cốt nhứt về cái ý chí tự do của loài người. Bất luận khi nào, chúng ta vẫn có quyền tự do để chiếu theo một động cơ nào đã có ở trong lòng mà lựa chọn đường lối, để nương theo đó mà thi hành công việc mình. Cũng có quyền tự do để tạm huỡn sự lựa chọn ấy, hầu cho có thể bàn tính và phán đoán cho kỹ càng hơn đã. Vả, đương khi bàn tính và phán đoán thêm như thế có lẽ sẽ gặp được lý do mới chăng, sanh trong lòng mình những động cơ mới, có quyền tạo ra những trạng thái cũng mới, rồi khiến cho mình lựa chọn làm việc khác, mà bỏ qua việc mình đã toan làm lúc ban đầu. Người ta vẫn có quyền làm theo hay không làm theo các động cơ thường thúc giục mình. Thực sự ấy chứng rằng loài người có ý chí tự do, có quyền tự nhiệm mà thi thố cách nầy thế kia,làm việc nầy việc nọ, tùy theo ý mình cho là phải vậy. Bằng dạy rằng loài người không có quyền ấy, thì thật là chối bỏ cái quyền tự chủ của loài người vậy.(4) Quyết định lực:Cái năng lực thứ tư của ý chí tự do, là quyết định lực. Khi người ta quyết định làm việc gì, tất nhiên thực hành cái quyền tuyển trạch tự do để làm theo sự thúc giục của động cơ nào vẫn có ở trong lòng, hay là để chối bỏ không chịu làm theo. Trong lúc mình còn dùng lý trí mà phán đoán, thì chưa quyết định làm gì cả,chỉ bàn tính và phán đoán về công hiệu của việc mình toan tính làm đó thôi. Còn khi đã quyết định làm một việc gì rồi, bèn lo lựa chọn cách thức phải thi hành đặng đạt đến cái mục đích của sự toan liệu ấy. Việc phán đoán chưa xong, ắt không thể quyết định làm việc gì cả. Có sự phán đoán trước, thì quyết định theo sau mới hợp lý vậy. Bởi vì trong khi lựa chọn, sự quyết định cần phải có lý cớ;bằng không, thì thành ra điên dồ mất.Nhà thần đạo A.H. Strong luận về lý chí tự do của người ta, có nói rằng: “Cái ý chí tự do (hay là sự tự nhiệm) tức là cái năng lực để quyết định đối với sự thúc giục của cái động cơ ở trong lòng.Nhờ cái năng lực ấy, loài người có thể: (1) lựa chọn theo cái động cơ nầy, chối bỏ chẳng theo cái động cơ kia; (2) thi thố theo cái động cơ mình đã lựa chọn. Vả,cái động cơ chẳng bao giờ là cái căn nguyên của việc làm, bèn là cơ hội thúc giục mình thi hành cách nầy thế kia đó thôi. Cái động cơ không hề ép buộc mình phải thi thố gì, chỉ ảnh hưởng cho mình mà thôi; chính mình là cái căn nguyên của việc làm mình, nên mới gọi người ta là có ý chí tự do thật vậy. Kỳ thực, loài người chẳng hề khi nào đứng trong địa vị bất định, bởi vì người chẳng thi thố việc gì miễn là có cái động cơ thúc giục trước, cũng chẳng làm việc gì trái với mọi động cơ đã thúc giục mình. Người ta làm việc gì, thì việc ấy cũng phải có lý cớ, vì như vậy mới có thể gọi người ta là có ngộ tánh được vậy.4. HAI Ý KIẾN PHẢN ĐỐI Ý CHÍ TỰ DOCó hai ý kiến phản đối lẽ thật về ý chí tự do, ấy là định mạng luận, và quyết định luận. Hai ý kiến nầy cũng được gọi chung là tất nhiên luận (déterminisme). Đây xin luận đến hai ý kiến ấy, tỏ ra ngộ điểm của nó.a) Định mạng luận:Thuyết nầy chủ trương rằng loài người chẳng có ý chí tự do để quyết định làm điều nầy điều kia, bèn có số phận định trước mọi sự cho họ. Nhà định mạng thuyết Tấn sĩ Miley luận rằng: “Vận mạng cầm quyền cao cả trên đời sống người ta, quyết định mọi sự trước, đến đỗi không thể nào thay đổi gì được. Vận mạng lấy xiềng xích tất chí (chaines de la nécessité) mà rằng buộc mọi sự, mọi biến động trên đời nầy,cả trí lực, tư tưởng, cảm tình, ý dục, thậm chí đến Đức Chúa Trời nữa…” Theo ý kiến nầy, nếu người nào làm ác, thì không có tội gì, bởi vì vận mạng buộc mình phải làm. Còn ví bằng làm thiện, cũng chẳng được công nghiệp gì, vì bất quá là buộc phải theo vận mạng mà làm đó thôi. Duy chất chủ nghĩa vạn vật hữu thần chủ nghĩa đều tán đồng theo định mạng luận nầy.b) Quyết định luận:Thuyết nầy chủ trương rằng công việc của loài người đều do động cơ mạnh hơn hết mà quyết định. Như đầu cân nặng hơn phải sa xuống; cũng vậy, cái động cơ mạnh thường khiến cho người ta theo đó mà làm. Quyết định luận chối bỏ quyền tuyển trạch tự do của loài người đương lúc cân nhắc động cơ nầy kia để so sánh, coi thử bên nào phải hơn đặng làm theo; cũng phủ định rằng loài người có thể lựa chọn trái với cái động cơ mạnh nầy mà quyết định theo cái động cơ yếu kia. Thuyết nầy rất nguy cho sự tín ngưỡng chánh đáng, bởi vì nó phá hủy cái lòng tín phục của người ta về trách nhiệm mình, về tội lỗi mình, và về sự báo trả của Đức Chúa Trời;đến đỗi khiến cho người ta có lòng lì đối với tội, không cảm biết mình rất cần có một phương pháp cứu rỗi mình. Thuyết nầy cũng sanh lòng nghi ngờ quyền thi thố tự do của mình, và luôn cả quyền năng Đức Chúa Trời vẫn có để giục giã mình phải thi thố theo ý chỉ của Ngài. Mà đã nghi ngờ như thế, tất nhiên không thể nào ứng dụng sự cứu rỗi cho lòng người ấy được. Chương 2: LUẬN VỀ NGUYÊN TRẠNG CỦA LOÀI NGƯỜILuận về nguyên trạng của loài người,thì chỉ nên dùng Kinh Thánh làm gốc. Kinh Thánh dạy rằng loài người do cánh tay Đức Chúa Trời mà được tạo thành, có tánh cách tài năng rất tốt lành (Sa 1:31).Cũng so sánh hình trạng loài người sau khi đã được tái sanh với nguyên trạng lúc sơ thủy là bằng nhau (Co 3:10). Lại nói về cuộc tạo thành ấy thì chép rằng Đức Chúa Trời chiếu theo hình tượng của Ngài mà dựng nên loài người. Ấy vậy,nói đại khái, thì nguyên trạng của loài người chắc giống như hình tượng của Đức Chúa Trời vậy. Nhưng chẳng may, loài người phạm tội, nên hình trạng của Đức Chúa Trời trong họ ra mờ tối, không còn thấy rõ nữa. Kịp đến khi Christ, là Đấng vô tội, mượn hình trạng của loài người mà hiện ra trong thế gian, chúng ta nhờ Ngài mà được thấy nguyên trạng của loài người là làm sao. Lại vì Ngài biểu dương sự vinh hiển và thể yếu của Đức Chúa Trời (He 1:3), nên nhờ Ngài chúng ta cũng có thể biết rõ hình trạng của Đức Chúa Trời là thể nào nữa (IICo 4:4; Co 1:15). Nhưng mà trong khi giải nghĩa những câu Kinh Thánh tả vẽ nguyên trạng của loài người, thì khá cẩn thận kẻo e sai lầm mà dạy quyết rằng nguyên trạng người ta vốn cao quá đến đỗi hết chỗ tấn bộ; hoặc là rất thấp hèn, thậm chí không chỗ mà sa ngã nữa. Muốn thoát khỏi những ngộ điểm ấy, nên chú ý đến bốn điều của vấn đề nầy, tức là yếu tố, hiệu quả, dịp tiện tốt, và phước hạnh của nguyên trạng loài người. Xin lần lượt kê cứu qua như sau nầy.I. YẾU TỐ NGUYÊN TRẠNG CỦA LOÀI NGƯỜITrong lời “giống như hình Đức Chúa Trời”bao hàm cả yếu tố về nguyên trạng của loài người. Kinh Thánh dạy rõ loài người được dựng nên theo hình tượng Đức Chúa Trời (Sa 1:26,27). Vậy, “giống như hình tượng Đức Chúa Trời” có nghĩa gì? Xin đáp: Loài người được giống như hình tượng Đức Chúa Trời theo hai mặt, tức là (1) về bản ngã, và (2) về lòng đạo đức.1. LOÀI NGƯỜI GIỐNG NHƯ ĐỨC CHÚA TRỜI VỀ BẢN NGÃĐức Chúa Trời dựng nên loài người khác với loài thú, vì ban cho họ bản ngã giống như bản ngã của Ngài.a) Định nghĩa:Vả, bản ngã có nghĩa gì? Bản ngã là ngôi riêng của mình, cái nhân cách mà mình xưng bằng “tôi”. Các yếu tố của bản ngã là ngộ tánh để suy nghĩ, cảm tình để cảm biết, ý chí tự do để quyết định việc nầy việc nọ, và lương tâm để phân biệt phải quấy. Cũng tại vì cớ bản ngã như thế mà loài người có thể tự biết mình, biết thế gian, biết Đức Chúa Trời, và cũng tự do quyết định làm thuận hay là nghịch với luật đạo đức. Ấy vậy, khi Đức Chúa Trời dựng nên loài người, thì đặt trước mặt họ ba điều làm đối tượng của sự hiểu biết họ, tức là Đức Chúa Trời, thế gian,và chính mình, ban cho ngôi bản ngã họ có quyền lựa chọn một trong ba đối tượng ấy, cái nào sẽ làm chuẩn đích và trung tâm điểm về cuộc mở mang tấn bộ của đời sống mình.b) Bản ngã không thể nào mất:Bản ngã của loài người không thể nào mất được, miễn là thôi làm người. Sự điên cuồng cũng không thể tận diệt nó được, duy có thể làm cho nó ra mờ tối đó thôi,đến đỗi lửa địa ngục cũng chẳng có đủ sức để tuyệt diệt đâu bao giờ. Trong Lu 15:8 Chúa Jesus dùng đồng bạc mất mà biểu minh lẽ thật nầy. Đồng bạc ấy dầu bị mất, thì vẫn còn mang lấy hình và hiệu của vua. Cũng một lẽ ấy, loài người dầu bị hư mất, cách xa Đức Chúa Trời, thậm chí phải ở trong địa ngục, thì vẫn còn giữ vẹn cái bản ngã, chẳng hề tiêu diệt bao giờ. Thế thì, tánh mạng của loài người đáng kính trọng là dường nào, vì nó vẫn mang hình tượng của Đức Chúa Trời ở trong mình. Cũng tại cớ ấy mà Đức Chúa Trời đã định hễ ai diệt tánh mạng người ta, thì phải bị xử tử. Những câu nầy chứng cho: xem ICo 11:7; Gia 3:9; IPhi 2:17; Sa 9:6c) Bản ngã rất màu nhiệm,có giá trị cao: Có nhà thần học luận về bản ngã mà rằng:“Trong bản ngã của người ta vẫn có những đại lục mà chưa hề có Kha luân bố nào phát kiến, có những biển thẳm nào ai dò đến tận đáy. Thực, nội trong một linh hồn lắm khi có những sự sầu thảm, đau đớn của cả một địa ngục, hoặc sự hạnh phước khoái lạc của cả một thiên đàng. Ví thử ta có thể thoát xem cảnh trạng vinh hiển tương lai của một tín đồ hèn hạ hơn hết, thì chắc chúng ta sẽ cúc cung kính bái như thánh Giăng muốn lạy thiên sứ lúc được thấy các dị tượng lạ lùng trong khải huyền, bởi vì vinh hiển ấy thật cực điểm, đến đỗi không ai phân biệt tín đồ hèn hạ ấy với chính Đức Chúa Trời được (Kh 22:8)”.Bản ngã của loài người có giá trị vô song, vì nhờ nó mà họ có thể giao thông với Đức Chúa Trời; cũng nhờ nó mà họ dầu có sa ngã, lại có thể được cứu rỗi. Xưa kia nhà triết học Aristote binh vực thời mãi nô, vì cho tánh tình của đứa nô lệ vốn rất đê hèn. Còn nhà triết học Platon coi sự giết con trẻ là sự thường, chẳng phải là tội nữa. Nhưng đạo Christ phản đối ý kiến bất nhơn vô đạo ấy, vì dạy rằng mọi người đều được dựng nên theo hình tượng Đức Chúa Trời. Cho nên hễ ai bạc đãi người hèn hạ cũng là khinh dể hình tượng của Đức Chúa Trời ở trong họ. Thật có khi Christ dòm xem người nầy kẻ kia cách phiền giận, nhưng Ngài không hề khinh dể người nào. Ngài dạy dỗ đờn bà, chúc phước con trẻ, chữa sạch kẻ phung, kêu kẻ chết sống lại. Đoạn, nhờ sự chết trên thập tự giá Ngài bày tỏ ra giá trị rất cao của linh hồn người ta, dạy ta coi mọi người như anh em, yêu thương họ như Ngài đã yêu thương, đến đỗi nếu cần thì cũng sẵn lòng vì họ mà liều mạng mình để cứu rỗi họ.2. LOÀI NGƯỜI GIỐNG NHƯ ĐỨC CHÚA TRỜI VỀ LÒNG ĐẠO ĐỨCVả, Đức Chúa Trời không những ban cho loài người tài tự tri tự giác và quyền tự quyết định, bèn cũng phú cho họ một lương tâm lạ lùng hơn hết mà thần đạo gọi là lòng đạo đức. Vậy, lòng đạo đức nghĩa là gì?a) Định nghĩa lòng đạo đức:Lòng đạo đức là phần của linh tánh loài người vốn khuynh hướng cùng Đức Chúa Trời,nhận Ngài là Đối tượng và Mục đích tuyệt đối về sự thi thố cảm tình và ý dục mình; cũng nhờ lòng ấy mà loài người phản chiếu các đức tánh của Đức Chúa Trời nữa. Vả, vì sự thánh khiết là đức tánh đệ nhứt của Đức Chúa Trời, thì tất nhiên đức tánh ấy cũng cần đứng đầu trong bản tánh loài người mà Ngài dựng nên theo hình tượng của Ngài. Kinh Thánh cũng dạy rõ ràng sự công nghĩa vốn một yếu tố ở trong bản tánh loài người lúc mới được dựng nên đó. Những câu viện dẫn sau đây làm chứng cho: xem Tr 7:29; Eph 4:24; Co 3:10.Tuy hai câu ấy luận về người được tái sanh, thì cũng ám chỉ về người nào được dựng nên theo hình tượng Đức Chúa Trời có những tánh cách thể nào minh chứng rằng loài người lúc mới được dựng nên cũng có sự thánh khiết như chính Đức Chúa Trời đã có. Cũng có cả những khuynh hướng xứng đáng, như ái tình và ý chí hết sức chăm chú về Đức Chúa Trời, đến đỗi cả người đều vâng phục Ngài, nhận Ngài làm điểm cùng tuyệt cho mọi sự mong ước của mình. Vậy, nói rằng loài người mới được dựng nên là vô tội thì không đủ nghĩa, họ lại có sự công nghĩa thánh khiết như chính Đấng Tạo hóa đã có vậy.b) Có thể mất được:Vả, ta đã thấy phần giống như Đức Chúa Trời về bản ngã, thì loài người không thể mất được. Nhưng phần giống như Đức Chúa Trời về lòng đạo đức, thì có thể mất,và chẳng may, cũng đã thật mất rồi. Khi nguyên tổ ta sa ngã, thì phần giống như Đức Chúa Trời về đạo đức đã bị tuyệt mất. Thay cho sự vô tội chỉ có sự phạm tội,thế cho sự thánh khiết lại là sự bất khiết, thế cho sự công nghĩa thì có sự bất nghĩa; còn lòng vốn rất yêu mến Đức Chúa Trời, thì xây hướng cùng thế gian và ma quỉ mà yêu chuộng những điều hư hỏng bại hoại.c) Tánh chất của sự công nghĩa nguyên bản: Về tánh chất của sự công nghĩa (hoặc thánh khiết) nguyên bản loài người hưởng được lúc mới được dựng nên, thì có mấy ý kiến quan hệ đáng cho ta để ý đến, hầu phân biệt chỗ phải quấy.Xin luận lược qua như sau nầy.(1) Chẳng đồng yếu tố với bản tánh của loài người: Sự công nghĩa nguyên bản mà loài người có lúc mới được dựng nên chẳng đồng yếu tố với bản tánh của loài người; bằng vậy,thì bản tánh ấy cũng phải bị tuyệt mất lúc họ phạm tội; bởi vì trong chính lúc phạm tội đó họ mất hẳn sự công nghĩa nguyên bản ấy. Vả lại, nếu sự công nghĩa nguyên bản đó là một yếu tố của bản tánh người ta, thì bản tánh ấy cũng đã thay đổi ra khác, vì tội lỗi đã xen vào làm yếu tố đệ nhứt. Mà nếu thực đã thay đổi ra bản tánh khác rồi, thì tất nhiên cả bản ngã cũng bị thay đổi ra khác, đến đỗi không còn thể gọi hậu tự của A-đam là loài người nữa. Thiết tưởng có thể gọi sự công nghĩa nguyên bản là sức khỏe mạnh của bản ngã; còn tội lỗi là chứng bịnh khiến cho bản ngã ra yếu đuối bại hoại, truyền nhiễm từ nguyên tổ đến cả hậu tự người.(2) Chẳng từ bên ngoài phú cho:Ta cũng chẳng nên coi sự công nghĩa nguyên bản ấy là một đức riêng từ bên ngoài phú cho, một dị chất tương phản với bản tánh loài người, phú cho họ sau khi được tạo thành. Bởi vì loài người nhờ cuộc dựng nên mà hưởng được hình tượng của Đức Chúa Trời liền, chớ chẳng phải sau khi đã được làm người trọn vẹn, rồi mới được Ngài phú thêm đức ấy vào cho đâu. Giả như ngày nay mọi người sanh ra đời đều có bản tánh tội lỗi, hay khuynh hướng về mọi sự ở ngoài Đức Chúa Trời. Cũng vậy,khi A-đam được dựng nên thì có bản tánh công nghĩa thánh khiết, hay khuynh hướng về Đức Chúa Trời và mọi sự thuộc về Ngài; chớ chẳng phải sau khi đã được dựng nên rồi mới lần lần có sự khuynh hướng ấy đâu.(3) Là lòng hay khuynh hướng cùng Đức Chúa Trời: Thế thì, muốn nói cho đúng thì phải định rằng sự công nghĩa nguyên bản của loài người là lòng hay khuynh hướng cùng Đức Chúa Trời. Khi A-đam mới được dựng nên thì cả ái tình và ý chí đều khuynh hướng về Đức Chúa Trời, vin lấy mọi sự công nghĩa làm mục đích và đối tượng cho cả bản ngã mình. Nhưng mà sự công nghĩa nguyên bản ấy chẳng phải bất diệt, loài người có thể phạm tội. Tuy A-đam vốn có bản tánh thiện hảo, thì cũng được tự do lựa chọn làm điều ác, A-đam ban đầu có ái tình và ý chí xu hướng về Đức Chúa Trời, và bản tánh thì vô tội; nhưng sự công nghĩa ấy chỉ theo phương diện tiêu cực, chưa đạt đến phương diện tích cực, bởi vì chưa được thí nghiệm. Ví thử A-đam đã chịu nổi sự thí nghiệm, thì sự công nghĩa nguyên bản đã trở nên một bản tánh thánh khiết và đạo đức thực nghiệm, không còn có thể vấp ngã nữa. Nói cách khác, sự công nghĩa nguyên bản của loài người chẳng khác tình yêu thương của con trẻ đối với cha mẹ. Hột giống yêu thương ấy vẫn có ở trong lòng con từ khi sanh đẻ, nhưng chưa được mở mang cho đến khi biết cha mẹ, và có thể chịu sự thí nghiệm; đoạn tánh ấy trở nên lòng hiếu thuận thực nghiệm vậy.(4) A-đam vốn có thể di truyền tánh công nghĩa cho hậu tự: Đức công nghĩa nguyên bản của loài người là cái phần về “hình tượng giống như Đức Chúa Trời” mà loài người đã mất rồi. Nếu A-đam không phạm tội, thì vốn có quyền di truyền một tánh công nghĩa cho con cháu mình, cũng như người đã phạm tội mà di truyền bản tánh tội lỗi cho họ vậy. Thế mà, tuy A-đam và dòng dõi người đều đã mất sự giống như Đức Chúa Trời, về lòng đạo đức thì vẫn chưa mất sự giống như Đức Chúa Trời về phần bản ngã. Nhờ thực sự quí báu ấy mà loài người còn hi vọng nhờ ân điển Đức Chúa Trời để được cứu rỗi. Có nhà thần học luận rằng: “Sự giống Đức Chúa Trời về lòng đạo đức mà loài người đã mất, vẫn có thể được hồi phục; nhưng chỉ một mình Đức Chúa Trời có quyền làm việc ấy được. Ngài khiến cho “sự chói lói của Tin lành vinh hiển của Christ, là hình trạng của Đức Chúa Trời” (IICo 4:4) soi và lòng họ, hầu hồi phục trong họ lòng đạo đức giống như lòng của Ngài vậy.”Trong Thi 72:6 có câu: “Vua sẽ giáng xuống như mưa trên cỏ mới phát.” Cảnh tượng của câu ấy làm hình bóng chỉ về loài người bị mất sự đẹp đẽ rực rỡ của lòng đạo đức nguyên bản. Tuy họ như cỏ bị phát, khô héo, chẳng có hi vọng gì; nhưng vẫn còn cái bản năng kín giấu để nhận sự sống mới,cũng như gốc rễ cỏ trong đất gặp mưa thì được mọc lại tốt tươi như cũ vậy.d) Hai ý kiến phản đối:Ngoài ý kiến mới luận qua ở trên, còn có hai ý kiến khác phản đối với lẽ thật tỏ ra trong Kinh Thánh về nguyên trạng của loài người. Xin lược kể ra như sau nầy.(1) Loài người chỉ giống Đức Chúa Trời về bản ngã mà thôi: Thuyết nầy phủ định loài người vốn có lòng khuynh hướng cùng Đức Chúa Trời, mà chủ trương rằng loài người trong thời thái sơ chỉ có những lương năng thuộc linh thích hiệp rất rập ràng với nhau,nhưng chẳng có sự thánh khiết, cũng chẳng có sự bất khiết, bèn được đứng trong địa vị trung lập không ác cũng chẳng thiện đó thôi. Thuyết nầy có ba ngộ điểm:(a) Nếu loài người không được giống như Ngài về mặt bản ngã, thì A-đam chẳng có đức công nghĩa nguyên bản.Ví bằng chẳng có đức ấy, tất nhiên cũng không mất, và chẳng hề sa ngã trở nên kẻ có tội bao giờ. Nhưng quả đã có sa ngã phạm tội mà phải mất đức tánh công nghĩa nguyên bản đó, là dức tánh chẳng do sự vận động của bản ngã A-đam mà có, bèn trực tiếp do Đức Chúa Trời ban cho trong lúc loài người được tạo thành vậy. Bằng chẳng vậy, tại sao bản tánh loài người không còn được công nghĩa nữa. Lại kìa sự công nghĩa mà tín đồ hưởng được lúc mới tái sanh chẳng phải tự mình mà ra, bèn là sự ban cho của Đức Chúa Trời. Mà nếu tánh công nghĩa hồi phục là nhờ Đức Chúa Trời ban cho, thì tại sao lại nói rằng cái nguyên tánh công nghĩa chẳng do Ngài mà ra ư?(b) Khi loài người được dựng nên thì đã có bản năng hiểu biết Đức Chúa Trời và giao thông với Ngài được.Vả, nếu loài người chỉ giống như Đức Chúa Trời về phần bản ngã, chẳng có lòng đạo đức thánh khiết, thì làm sao mà giao thông với Ngài đặng? Kỳ thực, khi nguyên tổ ta phạm tội mới bị đứt sự giao thông ấy, bởi vì đã mất lòng thánh khiết ấy rồi (Sa 3:7,22,24; 8:21). Thế thì, ta phải cho rằng cái thuyết về loài người chỉ giống Đức Chúa Trời về bản ngã là sai lầm vậy.(c) Thuyết nầy cũng phản đối với Kinh Thánh, vì Kinh Thánh dạy rằng loài người được chia ra làm hai hạng:hạng thuộc huyết khí và hạng thuộc linh. Người thuộc huyết khí tức là người ở ngoài Chúa, chưa được tái sanh. Thế thì cái gì ở trong người ta được tái sanh?Có phải là phần huyết khí không? Không. Có phải là bản ngã chăng? Cũng không nữa;vì bản ngã trước sau sự tái sanh vẫn là bản ngã. Thiết tưởng lấy làm hữu lý mà nói rằng phần được tái sanh trong người ta là linh tánh, tức là cái lòng đạo đức,vốn có từ xưa, nhưng đã bị mất đi trong khi phạm tội. Khi người nào tin Chúa,lòng đạo đức người ấy bèn được tái sanh, người lại được hồi phục cái bản năng khuynh hướng về Đức Chúa Trời và về sự công nghĩa của Ngài. Kinh Thánh gọi linh tánh được tái sanh ấy bằng “người mới… được dựng nên theo hình tượng Đức Chúa Trời, trong sự công nghĩa và sự thánh khiết” vậy (xem ICo 2:10–15; Eph 4:22–24).(1) Hình tượng Đức Chúa Trời trong loài người bất quá là lương năng tín ngưỡng tôn giáo: Ý kiến nầy vốn bởi các nhà kinh viện triết học chủ trương trước hết, rồi sau trở nên lý thuyết của Giáo hội Lamã. Thuyết nầy phân biệt ý nghĩa của hai chữ “hình” và “tượng” của Đức Chúa Trời, chủ trương rằng trong lúc tạo thành thì loài người được “như hình” Đức Chúa Trời (à l’image de Dieu). Còn về sự “theo tượng” Đức Chúa Trời (selon la ressemblance de Dieu), thì họ nhờ sự vâng phục hưởng được về sau; nghĩa là sự “theo tượng” của Đức Chúa Trời ở trong họ là công hiệu của việc lành mà họ đã làm vậy. Họ cũng dạy rằng vì Đức Chúa Trời muốn loài người dễ vâng phục Ngài mà mau trở nên giống như “tượng” Ngài, nên đã phú thêm cho họ một yếu tố thứ ba, vốn không thuộc về bản tánh loài người, một ân tứ đặc biệt gọi là ân điển có năng lực ngăn ngừa dục vọng, bắt nó phải đầu phục lý tánh, không được tự do hành động. Thế thì, theo thuyết nầy, sự công nghĩa nguyên bản của loài người chẳng phải là một yếu tố Đức Chúa Trời trực tiếp phú cho bản tánh loài người trong lúc họ được dựng nên, bèn là một công hiệu vừa do sự vâng phục của loài người, vừa do đặc ân siêu việt của Đức Chúa Trời ban cho mà được vậy.Nhà thần đạo A.H. Strong luận về ý kiến nầy mà rằng: “Có thể giãi bày Lamã giáo lý cách hình bóng như sau nầy: Loài người được dựng nên trần truồng về tánh đạo đức, chẳng có sự công nghĩa tích cực gì hết.Nhờ sự vâng phục người nhận được nơi Đức Chúa Trời một phần thưởng bằng một cái áo công nghĩa để che khuất sự lỏa lồ của mình. Vả, người có thể mất cái áo công nghĩa ấy. Cừu địch xâm hãm người, lột áo công nghĩa của người, rồi bỏ người đi trần truồng. Nhưng địa vị người trước và sau khi bị lột trần đó không khác nhau cho lắm, chỉ khác nhau như địa vị của kẻ bị lột trần với địa vị của kẻ vốn ở trần truồng vậy đó thôi. Bấy giờ người đứng trong địa vị mà người vốn đứng lúc mới được dựng nên; duy có điều nầy là khác với lúc ấy là người cảm biết mình yếu đuối hơn lúc ấy, bởi vì thiếu bộ áo công nghĩa mình thường mặc trước kia vậy. Nhưng may thay! Người vẫn có thể tu đức lập công mà được một áo khác, thật có thể lãnh được đến ba bốn cái hay nhiều hơn nữa cũng nên, để bán hoặc cho bớt người khác các bộ áo mà chính mình không cần dùng đến!”Về thuyết nầy có bốn điều dị nghị như sau đây:(a) Không thể nào phân biệt nghĩa đen của chữ “hình” và “tượng”, bởi vì hai điều chỉ có một ý nghĩa mà thôi, tức là loài người được dựng nên giống như hình tượng Đức Chúa Trời.(b) Tuy hai chữ “hình” và “tượng” có ý nghĩa khác nhau hay là không, thì Kinh Thánh dạy rõ lắm rằng loài người giống như “hình” và “tượng” của Đức Chúa Trời chính trong lúc họ được tạo thành, chớ chẳng có câu nào dạy rằng họ được Đức Chúa Trời phú thêm cho sự “giống như Ngài” trong một thời kỳ kế sau cuộc dựng nên đâu.(c) Thuyết nầy chủ trương rằng cảm tình (tình dục) và ngộ tánh có sự phản nghịch nhau. Nhưng ý kiến ấy sai lầm, và phản đối sự dạy dỗ của Kinh Thánh; bởISa 1:31 dạy rằng các việc Đức Chúa Trời làm đều “thật tốt lành” cả. Vả lại, thuyết nầy đổ thừa sự cám dỗ và tội lỗi cho Đức Chúa Trời. Nói rằng khi loài người được dựng nên thì chỉ có sự vô tội tiêu cực, và các tình dục tội ác đều đương ngủ mê, thì bất quá là đổ tội cho Đức Chúa Trời, cho Ngài là căn nguyên trực tiếp của sự sa ngã, bởi vì theo ý kiến nầy, Ngài đã cấu tạo trong loài người một bản tánh bất khiết phải phạm tội.(d) Thuyết nầy cũng phản đối với Kinh Thánh, bởi vì chủ trương rằng sự phạm tội thứ nhứt chẳng khiến cho bản tánh loài người ra hủ bại, bèn là chỉ làm cho nó ra yếu đuối thôi; còn sự tái sanh chẳng đổi ái tình ra mới, nhưng chỉ bồi bổ sức lại cho những bản năng thiên nhiên đó thôi. Thuyết nầy cho tội thứ nhứt chỉ nương đoạt cái đặc ân của Đức Chúa Trời ở nơi loài người, đặt người phải đứng vào địa vị vốn có ở trong lúc mới được dựng nên. Tuy đã mất cái đặc ân ấy rồi, vẫn còn có tài năng vâng phục Đức Chúa Trời, và giúp đỡ Ngài về việc cứu rỗi mình.Ôi thôi! Thuyết nầy xa cách lẽ thật là dường nào! Kinh Thánh nghiêm huấn rằng loài người “đã chết vì sự vi phạm và tội lỗi mình” (Eph 2:1), tự nhiên chẳng có tài năng gì mà vâng phục Đức Chúa Trời,“vì không vâng phục luật pháp Đức Chúa Trời, lại cũng không thể phục được” (Ro 8:7). Nên chỉ rất cần yếu cho loài người nhờ quyền năng của Đức Chúa Trời, hầu được tái sanh, được dựng nên mới trong Christ vậy (Eph 2:10). Gi 3:3-6; ICo 2:14; Ro 8:7; Eph 2:10II. NHỮNG Ý NGOẠI VỀ NGUYÊN TRẠNG CỦA LOÀI NGƯỜI1. HIỆU QUẢ CỦA HÌNH TƯỢNG ĐỨC CHÚA TRỜI TRONG LOÀI NGƯỜIVề phần các hiệu quả của hình tượng Đức Chúa Trời trong loài người, xin luận đến bốn điều như sau nầy:a) Hình thể loài người phản chiếu hình tượng Đức Chúa Trời: Thân thể của loài người lúc mới được dựng nên phản chiếu hình tượng Đức Chúa Trời ra, biểu dương các tánh cách tối cao của Ngài. Kinh Thánh dạy rõ Đức Chúa Trời có bản năng nói, nghe, thấy, ngửi, và cảm giác được. Thân thể loài người được dựng nên theo kiểu mẫu Đức Chúa Trời, nhận được các bản năng ấy. Chỉ có điều nầy là khác: các bản năng ấy trong Đức Chúa Trời là vô hạn và trọn vẹn; còn ở trong loài người thì hữu hạn và bất toàn. Thế mà, khá coi chừng, đừng giải nghĩa Sa 2:7 và Sa 3:8 sai lầm mà quyết rằng cái hình tượng Đức Chúa Trời ở trong loài người tức là hình dáng bề ngoài của họ được giống như hình tượng của Ngài. Bởi vì xem Sa 2:7 cho kỹ, thì thấy có nói “Giê-hô-va Đức Chúa Trời bèn lấy bụi đất nắn nên hình người,” chớ chẳng nói rằng Ngài lấy bụi đất mà dựng nên hình tượng Ngài trong họ. Nhưng khi Ngài đã nắn nên hình thể rồi, bèn “hà sanh khí vào lỗ mũi”,khiến cho hình thể ấy có linh hồn sống; rồi lại trong linh hồn sống ấy Ngài có in hình tượng của Ngài. Cho nên thân thể người ta chỉ biểu dương hình tượng ấy ra mà thôi. Trong Sa 3:8 cũng chép rằng Đức Chúa Trời có đi, có nói, ấy nghĩa là Ngài dùng bản năng tự động và bản năng nói phô mà tìm kiếm A-đam để phán chuyện với người, chớ chẳng ám chỉ Ngài có hình dáng vật chất như loài người có đâu.b) Có quyền hạn chế tình dục:Trước khi loài người chưa phạm tội, thì có quyền hạn chế tình dục, làm cho nó phải phục linh tánh trong mọi sự. Kỳ thực, trong lúc đầu, linh tánh và nhục tánh vẫn hòa hiệp nhau cách rập ràng, chẳng có sự tương phản gì nhau cả. Đến khi phạm tội, linh tánh mới không còn quyền hạn chế tình dục nữa, nhưng bị tình dục hãm áp cho đến bây giờ, thật là đáng tiếc lắm thay!c) Được quyền thống trị muôn vật: A-đam là cái mão miện của tạo vật, có tài năng tra xét bản tánh của muôn vật, tùy theo từng bản tánh mà đặt tên cho nó,và cai trị hết cả (Sa 2:19). Xem Sa 1:26 và Thi 8:5-8, thì rõ loài người ban đầu không những là có quyền cai trị muôn vật, mà lại có quyền độc trị cả cõi thiên nhiên nữa.Kịp đến khi loài người phạm tội, muôn vật không còn tình nguyện chịu phục người nữa, phải dùng cường lực ép buộc mới bắt nó vâng phục mình phần nào. May thay! Nhờ Đấng Christ, loài người sau nầy sẽ nhận lại cái đặc quyền ấy; khi ấy muôn vật và cõi thiên nhiên đều sẽ tái phục nhơn loại mới cho đến đời đời vô cùng. Xem Ro 8:18-23; He 2:8,9; Es 11:6; Es 65:25Vả, loài người được quyền cai trị muôn vật, ấy minh chứng rằng địa vị loài người cách xa địa vị loài thú khôn xiết kể;nào là căn nguyên, tài năng, mục đích, hết thảy đều khác nhau với thú vật. Kỳ thực, loài thú không có thể nào lên phẩm cách loài người được; nhưng loài người vì cớ tội ác lấy làm dễ sa xuống bực thấp hèn của loài thú vậy.d) Được giao thông cùng Đức Chúa Trời: Nguyên tổ chúng ta từng hưởng được hạnh phúc giao thông với Đức Chúa Trời một cách thân mật, và trực tiếp thọ giáo nơi Ngài (Sa 2:16). Theo Sa 3:8, Đức Chúa Trời dường như lấy hình thể hiện ra nguyên tổ ta được thấy. Cái cách tương giao thân mật với Đức Chúa Trời như thế chẳng phải vượt quá trình độ của nguyên tổ ta, nhưng rất thích hợp với các lương năng thuộc linh của họ. Dầu vậy, nguyên tổ ta có lẽ không được dòm thấy Đức Chúa Trời cách trọn vẹn bằng các thánh đồ sẽ được thấy Ngài ở nơi vinh hiển đời sau (Ma 5:8; IGi 3:2; Kh 22:4). Kịp đến khi nguyên tổ ta sa ngã, tức thì bị phân cách, không được giao thông với Đức Chúa Trời nữa. Nếu sau nầy mà chẳng nhờ Christ, thì quả không hi vọng phục hồi cái đặc ân ấy được (Gi 1:12). Sa 2:16;Sa 3:18; Ma 5:8; IGi 3:2; Kh 22:4; Gi 1:122. CÁC SỰ PHỤ TÙY VỀ HÌNH TƯỢNG ĐỨC CHÚA TRỜI TRONG LOÀI NGƯỜIa) Có dịp tiện tốt để dồi mài đức tánh: Khi nguyên tổ ta ở trong vườn Ê-đen,thì vốn có tánh nết trọn lành vô tội, nhưng chưa được thí nghiệm về đời đạo đức.Nên khi Đức Chúa Trời để cho họ được đứng trong cảnh địa Ê-đen rất tốt lành,thích hợp với bản tánh người, cốt ý để thí nghiệm tánh đạo đức, dồi mài nó hầu cho nó trở nên đạo đức thực nghiệm, được đứng vững, chẳng có thể sa ngã nữa. Vả,nếu chẳng chịu sự thử thách, thì loài người chẳng được công trạng gì, cũng như vàng không chịu thử lửa thì chẳng được ròng, ngọc chẳng dồi mài thì chẳng chói sáng. Bởi vậy cho nên Đức Chúa Trời tạo một cây “biết điều thiện điều ác” ở trong vườn Ê-đen (Sa 2:9), để tập rèn tánh nết của nguyên tổ ta. Ví bằng họ giữ bổn phận mình, vâng theo mạng lệnh Đức Chúa Trời chẳng dùng trái cây ấy, thì đã được tánh đạo đức thực nghiệm rồi, không cần sợ bị quỉ dữ dỗ dành nữa. Sa 2:9, Sa 2:17b) Có dịp tiện để được bất diệt: Thân thể của nguyên tổ ta khi mới được dựng nên thì chưa hưởng được sự bất diệt (ICo 15:44-49), trong nó vốn có cái mầm của sự chết. Nhà khoa học cũng chứng rằng sự sanh hoạt hữu cơ vẫn có cái mầm của sự hao mòn hư mất. Nhưng Đức Chúa Trời đã có đặt một cách thức riêng ở trong vườn Ê-đen, hầu nhờ đó thân thể loài người được bất diệt. Cách thức ấy là cây sự sống (Sa 2:9). Nếu A-đam đã gìn giữ bổn phận mình, đứng vững vàng đối phó với sự cám dỗ mà chẳng trái mạng Đức Chúa Trời, thì đã được phép ăn trái của cây sự sống,và nhờ đó thân thể trở nên bất diệt, thoát ly địa vị hay hư nát mà hưởng được phước trường sanh. Nhưng chẳng may, nguyên tổ ta nghịch mạng Đức Chúa Trời, bị đuổi ra khỏi vườn Ê-đen, chẳng được phép ăn cây sự sống. Tại cớ ấy loài người mất cái dịp tiện để hưởng phước trường sanh bất tử vậy. ICo 15:47; Sa 3:11, Sa 3:22, Sa 3:23c) Có dịp tiện di truyền hình tượng Đức Chúa Trời cho hậu tự:Túng sử tội lỗi không vào trong thế gian thì loài người vẫn cứ giữ hình tượng Đức Chúa Trời trong mình mãi, lưu truyền lại cho con cháu luôn. Bởi vì theo công lệ,thì kẻ sanh và người được sanh đều đồng một giống và một bản tánh. Xem như sau khi nguyên tổ đã phạm tội rồi, làm cho bản tánh ra hủ bại, thì tánh ấy lưu truyền lại cho hậu tự người, đến đỗi chẳng trừ một ai mà không đồng tánh với người.Cũng vậy, nếu nguyên tổ còn giữ hình tượng Đức Chúa Trời cho trọn vẹn luôn, chắc cũng lưu truyền cho hậu tự mình bản tánh trọn vẹn của mình vậy.Hoặc giả có kẻ biện nạn rằng: “Nếu tội lỗi không vào trong thế gian, thân thể loài người được sống đời đời, có đủ hình tượng Đức Chúa Trời được lưu truyền từ cha đến con, từ con đến cháu, thì loài người há chẳng sanh sản đông đúc lắm sao? Chắc đã chẳng có chỗ đâu mà ở cho đủ?Vậy thì cái họa nhơn mãn đã xảy ra từ đời nào rồi!” Không dám đáp lẽ chắc chắn cho câu hỏi ấy, bởi vì Kinh Thánh không giải rõ vấn đề nầy. Nhưng thiết tưởng khi người ta ở đời nầy đã từng trải mọi sự thí nghiệm, dồi mài tánh nết cho thực đạo đức trọn vẹn rồi, thì sau chắc Đức Chúa Trời biến hóa họ, tiếp rước họ lên trên trời, như đã tiếp rước Hênóc khi xưa, hầu được ở với Ngài cho đến vĩnh viễn (Sa 5:24). Còn tại nơi ấy chẳng có sự cưới gả, sanh sản gì nữa (Ma 22:30). Xem Sa 5:24; Ma 22:303. CÁC PHƯỚC HẠNH DO HÌNH TƯỢNG ĐỨC CHÚA TRỜI TRONG LOÀI NGƯỜI MÀ RACác phước hạnh của nguyên tổ ta đương khi còn ở trong vườn Ê-đen thật là vô hạn vô lượng, trọn vẹn vô cùng. Sau đây xin kể lại ít điều, vẽ ra cái đại khái của phước hạnh ấy.a) Có thân thể mạnh khỏe trọn vẹn: Xét kỹ thân thể loài người ngày nay thì chẳng thấy ai được khỏe mạnh trọn vẹn, ai ai cũng thiếu thốn mà phải đau ốm, hoặc là tại bịnh di truyền hay là bịnh truyền nhiễm cũng có. Nhưng thân thể của nguyên tổ ta trong vườn Ê-đen sức mạnh vẫn không thiếu thốn, không hề bị đau ốm, nên được khỏe mạnh mười phần vậy.b) Có ngộ tánh trọn vẹn:A-đam có ngộ tánh trọn vẹn, nên chẳng cần cực nhọc dùng qui nạp pháp hay là diễn dịch pháp đặng suy nghĩ ra chơn lý của sự vật, nhưng nhờ cái tuệ tâm sáng suốt mà trực tiếp thông hiểu mọi sự. Đây có hai bằng cớ minh chứng:(1) Ông đặt tên cho các loài thú (Sa 2:19, Sa 2:20). Chắc A-đam có thông hiểu bản tánh và thói quen của mọi loài, nên đặt tên cho mỗi loài mỗi tên thích hợp với bản tánh nó thập phần.(2) Ông đặt tên cho nội trợ mình (Sa 2:23, Sa 2:24; Sa 3:20), gọi là “người nữ”, bởi vì người do người nam mà ra.Trong tiếng Việt chữ “nữ” và chữ “nam” chẳng có sự tương quan gì cả. Song trong nguyên văn Hê-bơ-rơ hai chữ ấy thật giống nhau lắm. Theo tiếng ấy chữ nam là ish, còn chữ nữ là isha. Nghĩa đen chữ isha là “người nam nữ”. Về sau ít lâu A-đam đặt tên mới cho vợ mình là Ê-va, nghĩa đen là “mẹ của nhơn loại”. Thế thì, tên isha chứng về căn nguyên của người nữ, còn tên Ê-va chứng về thiên chức lớn của người nữ là gì. Các lẽ thật ấy A-đam không cần ai dạy cho mới biết,song chỉ nhờ cái tuệ tâm sáng suốt mà thông hiểu hết.Về sự dựng nên người nữ, nhà thần đạo M. Henry luận rằng: “Đức Chúa Trời không lấy người nữ ra nơi đầu người nam, sợ e làm đầu người nam; cũng chẳng lấy nơi chơn, e bị người nam giày đạp, bèn lấy ra khỏi hông người nam đặng đứng bình đẳng với người, lấy ra từ dưới cánh tay đặng nhờ người nam che chở cho; lấy ra khỏi nơi gần lòng hầu cho người nam yêu mến vợ mình vậy.”c) Chưa có tư dục:Sự tham lam bậy bạ của người đời nầy chẳng khi nào biết chán, thật lấy làm khó cho họ vô cùng. Hôm nay hễ họ được bao nhiêu càng muốn được thêm bấy nhiêu không hề cùng, đúng như câu “Tham tâm vô để” vậy. Trước khi nguyên tổ chưa sa ngã, còn gìn giữ địa vị nguyên bản, lạc thiên tri mệnh, tùy ngộ nhi an, ăn trái cây, uống nước suối, chẳng tham lam, chẳng lo lắng, chỉ cứ an nhàn vô sự, thật đã đứng trong một cảnh trạng vui vẻ vô cùng.d) Chưa biết sự xấu hổ:Thật, ngửa lên không hổ với trời, cúi xuống chẳng thẹn với người, chỉ người lúc mới tạo thành đã hưởng được cái khoái lạc của tâm linh và cái địa vị trọn vẹn như thế thôi.e) Hành quyền trên muôn vật:Ở trong vòng các vật thọ tạo, chỉ có loài người là rất quí báu và quan hệ hơn hết,đứng đầu cả muôn vật, linh hơn muôn vật, hòa với muôn vật, chủ trị nó, sai khiến nó. Còn muôn vật vẫn an hòa ở chung với nhau, không ghen ghét nhau, không ngăn trở gì nhau, và hết thảy đều đầu phục loài người. Xét ra thật là một quang cảnh rất vui vẻ không xiết kể. Sa 1:28f) Đứng trong quang cảnh rất thích hợp: Vườn Ê-đen là lạc viên mà Đức Chúa Trời sắm sẵn cho nguyên tổ ta ở. Cảnh vườn ấy thật là vui vẻ trọn vẹn, vì ở trong đó khí huyết được điều hòa, chung quanh thì muôn hồng ngàn tía đua tươi, quả ngon trái ngọt vừa mắt, mọi vật đều được như ý. Lại có bốn ngọn sông dưới nước trong leo lẻo, chảy ngang qua vườn tưới khắp mọi nơi, khiến đất càng đượm mầu mỡ tốt tươi. Phong cảnh thiên nhiên đẹp đẽ ấy Đức Chúa Trời đã ban cho nguyên tổ ta để giúp đỡ bản tánh người mở mang phát đạt. Có thể gọi là thiên đàng giữa chốn nhơn gian thì cũng phải lắm. Nhưng tiếc thay! Nguyên tổ ta không được hưởng trót vì đã sa ngã phạm tội. Tuy vậy ai ở trong Christ sẽ được các phước ấy lại,và sẽ được hạnh phước còn lớn hơn nữa không thể nào xét cho rõ hết. Giăng chép rằng: xem IGi 3:2; Kh 22:1-5 Chương 3: LUẬN VỀ SỰ THÍ NGHIỆM VÀ SỰ SA NGÃ CỦA LOÀI NGƯỜII. SỰ THÍ NGHIỆM LOÀI NGƯỜIKINH THÁNH dạy rằng sau khi Đức Chúa Trời dựng nên loài người, bèn đặt người ở trong vườn Ê-đen, chủ ý để dùng cảnh vườn ấy làm trường học mà thí nghiệm người (Sa 2:8-17). Chữ Ê-đen nghĩa đen là khoái lạc,vui thích. Không thể nào biết cho chắc cảnh vườn ấy đã được lập ở nơi nào.Nhưng phỏng chừng có thể nói rằng vườn ấy ở trong trũng Mêsôbôtami, gần hai con sông Tigre và Euphrate (Sa 2:10-14). Nhưng cũng có nhiều ý kiến khác về vấn đề nầy, đến đỗi có kẻ thiết tưởng vườn ấy ở bắc cực! Về vấn đề loài người chịu thí nghiệm trong vườn Ê-đen, xin luận đến năm điều như sau đây.1. ĐỊNH NGHĨA SỰ THÍ NGHIỆMThí nghiệm tức là thử thách rèn tập. Hễ ai chịu thí nghiệm trước phải ở dưới quyền luật pháp nào, nhờ luật pháp ấy dạy cho mình biết phận sự mình là thể nào. Cũng dùng nó để tra xét hành vi của mình hầu biết mình có vâng theo điều răn của nó hay chăng. Bằng đã làm theo, thì luật ấy hứa ban phước cho; bằng chẳng, thì hăm dọa hình phạt. Ấy vậy, phàm ai ở dưới quyền luật pháp nào, có bổn phận vâng theo luật ấy; nếu vâng theo, thì đã chịu nổi sự thí nghiệm của luật ấy; bằng chẳng, ắt mắc tội, bị sự đoán phạt như nó đã chỉ định.2. SỰ THÍ NGHIỆM RẤT CẦN YẾUNguyên tổ ta được dựng nên có bản tánh thánh khiết. Cả cảm tình và ý chí tự do của họ đều chỉ khuynh hướng về sự tốt lành mà thôi. Tuy vậy, vẫn có thể bị cám dỗ từ bề ngoài. Vì cớ ấy cần phải cho nguyên tổ từng trải một hồi thí nghiệm, để thử xem họ sẽ trung tín cùng Đức Chúa Trời, chịu vâng theo mạng lịnh của Ngài hay không. Thế thì, vì nguyên tổ có thể bị cám dỗ từ bề ngoài, nên Đức Chúa Trời bắt họ phải phục dưới quyền của một luật pháp đặc biệt, nhờ nó dạy cho họ biết phận sự mình, hầu xem thử trong khi bị cám dỗ họ có trái điều răn của luật ấy hay là cứ vâng giữ được. Bằng chẳng thí nghiệm nguyên tổ như thế, quả không thể nào biết hoặc họ sẽ trung tín với Đức Chúa Trời hay không.Đấng Christ cũng có thể bị cám dỗ từ bề ngoài như thế, bởi vì bề trong Ngài chẳng có sự khuynh hướng về tội ác gì. Xem Kinh Thánh thì thấy Ngài thường bị cám dỗ như thế rất nhiều, và vì cớ ấy phải đau đớn cũng nhiều. Trước giả thơ Hê-bơ-rơ chép rằng: xem He 2:18; He 5:7-9Nhưng may thay! Tuy loài người chịu sự thí nghiệm không nổi đã nhượng bộ cho sự cám dỗ của Sa-tan, thì Christ dầu chịu cùng một thứ thí nghiệm như họ, thì chẳng hề bị thua đâu, nhưng đã đắc thắng hoàn toàn. Hê-bơ-rơ có câu: xem He 4:153. MỤC ĐÍCH VỀ SỰ THÍ NGHIỆMMục đích chánh đại về sự thí nghiệm nguyên tổ ta chẳng những là Đức Chúa Trời muốn coi thử họ sẽ trung tín vâng phục Ngài hay chăng, song cũng muốn thử rèn bản tánh thánh khiết của họ, hầu cho nó hóa nên tánh đạo đức thực nghiệm. Ta đã thấy bản tánh thánh khiết ấy nguyên tổ ta đã hưởng được chính trong lúc được dựng nên. Nhưng lúc bấy giờ tánh ấy chưa trở nên tánh đạo đức thực nghiệm. Loài người được tánh đạo đức thực nghiệm là duy nhờ sự dồi mài rèn luyện bởi sự lựa chọn làm điều thiện lánh xa điều ác đó thôi. Nếu nguyên tổ ta đã có ý lựa chọn điều thiện tức là chọn làm theo mạng lịnh của Đức Chúa Trời, thì bản tánh thánh khiết ấy đã trở nên tánh đạo đức thực nghiệm rồi,không còn có thể sa ngã mà phạm tội nữa. Than ôi! Nguyên tổ ta cố ý lựa chọn sự ác, tức là lựa chọn trái mạng Đức Chúa Trời, và tại sự lựa chọn đáng buồn ấy,tánh thánh khiết của họ đã đổi ra tánh tội lỗi, kết quả chuốc lấy sự hủ bại chết mất cho mình và cho cả hậu tự mình nữa.4. LUẬT THÍ NGHIỆMMuốn thí nghiệm linh tánh của loài người, cần phải có một luật thí nghiệm. Vả, luật pháp Đức Chúa Trời dùng để thí nghiệm nguyên tổ ta được chép trong Sa 2:16,17: “Ngươi được tự do ăn hoa quả các thứ cây trong vườn, nhưng về cây biết điều thiện điều ác, thì chớ hề ăn đến, vì một mai ngươi ăn chắc sẽ chết.”Vả, luật thí nghiệm ấy chẳng thuộc về luật đạo đức, bèn có thể gọi là luật đặc biệt. Luật đạo đức và luật đặc biệt có điều khác nhau, là luật đạo đức bao giờ cũng thực tại, và chẳng hề thay đổi; còn luật đặc biệt do lời răn bảo trực tiếp của Đức Chúa Trời, là luật lâm thời, thay đổi hoặc bãi bỏ tùy theo tình thế và cơ hội ràng buộc. Trong luật đạo đức Đấng chấp pháp có cắt nghĩa tại cớ sao phải vâng theo điều răn nó; còn trong luật đặc biệt duy răn bảo người thủ pháp phải tuân hành mà thôi, chớ chẳng có lời giãi bày vì cớ nào mà phải làm như vậy.Xét Mười điều răn thì dễ thấy là luật đạo đức,bởi vì lý tánh ta nhận rằng nó là hữu lý, và rất cần yếu cho loài người. Ta chẳng gọi Mười điều răn là phải lẽ bởi vì Đức Chúa Trời đã ban bố nó ra; bèn gọi là Đức Chúa Trời ban bố nó ra vì nó vốn là phải lẽ vậy. Trái lại, kê cứu truyện tích về Đức Chúa Trời gọi Ápraham đem Ysác dâng lên làm của lễ thiêu (Sa 22), thì thấy lời răn bảo ấy là một luật đặc biệt, bởi vì Ápraham chẳng thấy nó hợp lý thể nào, cũng chẳng rõ chỗ cần yếu là làm sao cả.Vả, lấy làm cần yếu cho luật thí nghiệm là luật đặc biệt, hầu cho kẻ chịu thí nghiệm đó không thể thấy vì cớ gì mà phải làm theo nó. Luật thí nghiệm nguyên tổ ta, như ta đã thấy, là luật đặc biệt; Đức Chúa Trời đã trực tiếp răn bảo A-đam và Ê-va cho ăn trái cây cấm. Bổn phận của họ là phải vâng theo, mặc dầu họ không hiểu vì cớ sao không nên ăn đến, cũng chỉ buộc phải làm theo đó thôi.Tấn sĩ H. A. Strong luận về vấn đề nầy mà rằng:“Nhơn vì loài người (lúc ấy) chưa đạt đến địa vị thánh khiết thực nghiệm mà vẫn còn đứng trong cảnh đơn sơ vô tội của trẻ con, nên nếu muốn người trở nên trọn vẹn, duy nhờ có một phương pháp là sự chịu cám dỗ mới mong được như thế đó thôi. Cho nên Đức Chúa Trời trồng trong vườn Ê-đen cây biết điều thiện điều ác (Sa 2:9), rồi nghiêm cấm ăn trái nó. Thật, điều răn nhỏ dường ấy rất hợp nghi mười phần để thí nghiệm tinh thần vâng phục. Nhưng sự cám dỗ chẳng tất nhiên gây nên sự sa ngã đâu. Ví bằng chống lại nó, thì bồi bổ sức lòng đạo đức, khiến cho bản năng không cần phạm tội (posse non pécarre) của mình có thể trở nên lương năng không thể phạm tội (non posse pécarre) vậy. Cây biết điều thiện điều ác vốn một cây thí nghiệm, như người cha có quyền buộc con phải làm trọn đạo hiếu,mới được kế thừa sản nghiệp của cha… thì Đức Chúa Trời cũng có quyền thí nghiệm nguyên tổ ta, hầu xem thử sẽ vâng phục hay chăng.”5. SỰ THÍ NGHIỆM LÀ PHẢI LẼXét lại điều sau nầy, dễ thấy sự thí nghiệm nguyên tổ ta là phải lẽ, chẳng phải một sự áp chế đâu.a) Lòng yêu thương của Đức Chúa Trời là trọn vẹn, sự khôn ngoan Ngài là vô cùng. Cho nên Ngài không thể nào bắt nguyên tổ ta phải đứng vào địa vị nào hoặc là chịu sự thí nghiệm gì mà có thể làm thất bại cho họ đời đời. Trái lại, mọi sự Ngài ban cho họ, và mọi điều Ngài bảo họ phải làm và đừng làm, đều là cốt ý để mở mang tài năng thuộc linh của họ, khiến cho họ có thể hưởng được phước hạnh may mắn đến đời đời. Vì vậy cho nên sự thí nghiệm bằng trái cây cấm ấy rất cần yếu, là nhằm phép phải lẽ, khôn ngoan và trọn lành, chẳng bội lý và trái phép công bình chút nào cả.b) Trước khi chưa thí nghiệm nguyên tổ ta thì Đức Chúa Trời sắm sửa cho họ đủ mọi thứ phước hạnh thuộc linh và thuộc thể,đến đỗi chẳng thiếu gì cả. Quang cảnh tư bề vạn vật mỗi mỗi đều khiến người vô cùng thỏa thích. Thực ra, mọi sự cần dùng cho một đời sống vui vẻ trọn vẹn trước mặt Đức Chúa Trời, thì đã có sẵn cả cho họ rồi (Sa 2:9).Thế thì, chẳng lấy làm quá lẽ hay là trái phép công bình mà họ phải vâng giữ một điều răn nhỏ mọn, kiêng cử một thứ trái cây kia. Sự thí nghiệm ấy chẳng quá sức thiên nhiên của họ, cũng chẳng bất công bất nghĩa, bèn là rất xứng đáng và hiệp lẽ mười phần vậy.II. SỰ SA NGÃ CỦA LOÀI NGƯỜILẽ thật về sự sa ngã của loài người không những là được bày tỏ ra trong đạo Christ, nhưng các tôn giáo khác cũng nói đến ít nhiều,nhìn nhận thực sự kinh khiếp về sự bại hoại của loài người do sự sa ngã phạm tội mà ra. Dầu trong các dã thuyết chẳng có truyện tích nào thuật lại cái biến động bi kịch của sự sa ngã, thì trong trần gian nầy vẫn còn đủ thứ tội lỗi minh chứng rằng sự sa ngã quả đã có rồi, mới có thể khiến cho loài người ra hủ bại như thế được.1. THỰC SỰ VỀ SỰ SA NGÃSự sa ngã vốn là một thực sự đã xảy ra trong cõi lịch sử của thế gian. Kinh Thánh dạy rõ ràng nguyên tổ ta đã trái mạng Đức Chúa Trời, ăn trái cây cấm, phạm tội, và vì cớ ấy mất hẳn địa vị thánh khiết nguyên bản mà sa vào địa vị hủ bại. Tội lỗi ấy gọi là tội thứ nhứt, còn cái địa vị bởi tội lỗi ấy sanh ra gọi là nguyên tội. Các đoạn sách viện dẫn sau đây chứng rõ ràng cho thực sự ấy: xem Sa 3:1-7; Ro 5:12-19; ITi 2:142. BẰNG CHỨNG VỀ SỰ SA NGÃVả, tra xét Sáng thế Ký đoạn 3 thì thấy sách ấy chứng rõ rằng sự sa ngã của nguyên tổ là một thực sự đã xảy ra trong cõi lịch sử nhơn loại, chớ chẳng phải là một ảo tưởng bá vơ đời xưa đâu. Tuy vậy,cũng có kẻ “có lòng dữ và chẳng tin” ngờ vực thực sự ấy, cho là chuyện bịa đặt,hay là một chuyện hoang đàng do lời truyền khẩu lưu lại đến ngày nay. Họ bạo gan quyết rằng chuyện hai cây trong vườn Ê-đen và con rắn uốn lưỡi đó, toàn là chuyện thần thoại của nước Babylone, vốn không có sự chơn thật. Nhưng chúng ta công nhận truyện tích về sự sa ngã là chánh thức một thực sự đã xảy ra, đáng cho ai nấy tín nhận là lẽ thật cả. Sau đây xin kể ra mấy cớ để minh chứng:a) Truyện tích sa ngã chính đáng: truyện tích về sự sa ngã ký thuật trong Sáng thế ký, đoạn 3, chẳng có một dấu tích nào chứng rằng nó là chuyện thần thoại,bèn có đủ bằng cớ tỏ ra nó quả là một thực sự chánh đáng lắm vậy.b) Truyện tích sa ngã đáng tin: Sách Sáng thế Ký chẳng phải là một dị sử hoang đàng như các sách biên chép các chuyện thần thoại xưa đâu, bèn là một sách ký thuật những thực sự đã xảy ra trong khoảng thời gian 2000 năm đầu tiên của đoạn lịch sử loài người, rất quan hệ để ta hiểu đến căn nguyên muôn vật. Một phần lớn của sách ấy thuật lại nguồn gốc của dân Do Thái, là một dân tộc hiện nay vẫn có ở trên mặt đất. Chính dân ấy cũng minh chứng rằng các thật sự luận về họ đó đều là chơn thật và chánh đáng cả. Vậy, nếu phần thuật nguồn gốc của dân Do Thái là đáng tin cả, thì tại cớ sao truyện tích luận về sự sa ngã loài người được chép trong đoạn 3 của sách ấy lại không chơn thật đáng tin được ư?c) Các trước giả Tân Ước công nhận Sáng thế Ký là chơn chánh:Các trước giả của Tân Ước đều công nhận sách Sáng thế Ký là chơn chánh, và truyện tích về sự sa ngã của nguyên tổ ta là thực sự như đã được ký thuật trong sách ấy cả. Những câu kể sau đây làm chứng: xem Lu 3:38; Gi 8:44; Ro 5:14; ICo 15:22; IICo 11:3; ITi 2:13,14; Kh 20:2d) Điều chép trong truyện tích sa ngã đương nhiên cả: Những điều chép trong truyện tích nầy cũng hiệp với tình hình đương nhiên. Xét kỹ con rắn, thì biết nó là loài vật quỉ quyệt hơn các thú vật khác. Nên ma quỉ mượn hình và miệng của nó,hiện ra theo quỉ kế mà cám dỗ nguyên tổ ta. Vả lại, mắt con rắn dường như có phép thôi miên, có quyền hấp dẫn vật sống khác như con chim, mà ăn nuốt nó. Ma quỉ cũng lợi dụng quyền ấy để mê hoặc nguyên tổ ta nghe lời dỗ dành của nó. Thế thì, sự tả bản tánh của con rắn đây là thích hiệp với thực sự cả.e) Sự sa ngã cắt nghĩa mối gây nên tội: Sự sa ngã đủ cắt nghĩa cái chỗ gây đầu mối tội và sự kết quả do nó mà ra. Ví như không có sự sa ngã thì tội lỗi bởi đâu mà vào thế gian? Loài người vì sao mà cực khổ? Đờn bà vì sao mà có sự đau đớn trong cơn thai nghén? Muôn vật vì sao mà bị rủa sả? Nếu không công nhận sự sa ngã là thực sự, thì những vấn đề trên đây thực lấy làm khó mà giải quyết vậy.f) Truyện tích Sáng Thế Ký 3, thích hiệp với sự từng trải loài người:Tài liệu của truyện tích trong Sa 3 thực là thích hiệp với sự từng trải của loài người trải qua các đời, chẳng có một điều nào là sai ngoa hết. Như là lễ nghi, hôn phối, lạc thú gia đình, sự thử thách khốn khó, bầu bạn gian trá, tính háo kỳ, lòng phụ bạc, những tính tự thị, cầu cao, ghét điều lành, ưa thói xấu,phạm tội trộm cướp, thua mưu đờn bà, gặp gia biến, lâm vận cùng, tỏ bụng thiên lương, tránh cơn họa hoạn, khẩu cung gian, đổ thừa tội, sự phá sản, sự hình phạt,sự trục xuất, sự lưu đày, nạn hung hoang cơ cẩn, tai tật dịch binh đao, làm lụy đến nòi giống, v…v.; hết thảy những điều ấy là điều loài người đã từng trải từ cổ chí kim; nên dám cả quyết rằng truyện tích về sự sa ngã là một thực sự, chẳng có thể nào chối cãi được.3. NGUYÊN NHƠN SỰ SA NGÃKinh Thánh dạy rằng nguyên nhơn của sự cám dỗ và sự sa ngã của nguyên tổ loài người có hai trong một và một trong hai,tức là nguyên nhơn hữu hình và nguyên nhơn vô hình. Xin giải thích như sau đây.a) Nguyên nhơn hữu hình:Theo Kinh Thánh nguyên nhơn hữu hình về sự cám dỗ và sa ngã của nguyên tổ là con rắn. Xem Sa 3:1-7; IICo 11:3Theo Sa 3:1-7, tả ra con rắn là đệ nhứt trong loài động vật, có bản tánh rất quỉ quyệt hơn các loài thú khác. Có kẻ tin rằng con rắn vốn rất đẹp đẽ, có tài năng hành động như loài người. Nghiệm lời của Đức Chúa Trời tuyên án rủa sả nó dường như ngầm chứng cho ý kiến ấy (Sa 3:14).Có một nhà thần đạo luận về sự cám dỗ loài người, mà rằng: “Sự cám dỗ bỗng chốc mà đến thật như con rắn vậy. Bản tánh loài rắn thật quỉ quyệt, cặp mắt long lanh lòe ra tia sáng rùng rợn. Nó bò đi cách êm đềm lặng lẽ, không nghe tiếng động tăm khua gì cả. Nầy, khi nó xăm xăm bò đến để làm cho loài người và loài vật sa ngã, thì nó nào có dương oai, diệu võ, nhe nanh, đưa vút gì gì đâu, (chỉ dùng lời nói đó thôi). Thân hình nó lại dài lượt thượt như một sợi dây, dường như muốn dùng để trói buộc người ta, khiến phải mắc mớp nó. Kìa, mùa đông tuyết giá, thì nó khoanh tròn lại coi rất êm đềm, không thấy động đậy gì, trơ trơ như chết vậy.Thế mà, đến tiết trời xuân ấm áp, sấm nổi giông vang, thì phút chốc vụt dậy bò đi, quanh co đường lối, nhẹ nhàng tăm hơi, tìm kiếm vật nầy vật khác. Nó thật có tài leo cây nhẹ như sóc, lội nước lanh như rái, nhảy cao hơn ngựa, vật lộn mạnh hơn voi, gầm thét như sư tử, nọc độc địa vô cùng.Ôi! Cũng lẽ ấy mà Sa-tan đến cám dỗ ta:thật lặng ngắt êm ru, nào có tiếng động tăm khua? Sức mau hơn gió, lẹ hơn chớp,nào ai đề phòng kịp? Lại mạnh như hùm, nào có ai có thể tránh khỏi hay là cự lại được? Thật, chúng ta chẳng hề dám khinh thường nó hoặc dám cậy sức mình mà hờ hững với nó.” Lời luận ấy thật là đúng đắn lắm vậy.b) Nguyên nhơn vô hình:Vả, con rắn chẳng phải tự đến cám dỗ nguyên tổ ta đâu, bèn có một nguyên nhơn mạnh hơn nó, lợi dụng nó làm môi giới để cám dỗ đó thôi. Nguyên nhơn ấy là Sa-tan (Kh 12:9). Sa-tan lập quỉ kế, lợi dụng con rắn vốn ở gần gũi với loài người, không nghi ngại gì, khiến cho họ không phân biệt chơn tướng của nó được. Nó trước hết đến cùng Ê-va mà thi hành quỉ kế, vì nó rõ biết tánh tình của đờn bà nhẹ dạ hay tin. Vì vậy, đờn bà phải mắc mưu của nó. Đoạn, sau nó lại lợi dụng đờn bà mà làm cho đờn ông cũng phải mắc mớp theo nữa. Bởi vì nếu người đờn ông trực tiếp đương đầu với cám dỗ của Sa-tan, thì có lẽ có sức mạnh kháng cự nó hơn người đờn bà; nhưng hiểm nỗi đối cùng lời dịu ngọt của vợ mình, thì người đờn ông thực dễ xiêu lòng nghe theo, Sa-tan đã hiểu rõ tánh tình của hai ông bà, nên mới dùng quỉ kế mà cám dỗ họ, khiến cho họ phải sa ngã dễ dàng như vậy.4. CÁCH THỨC SA-TAN DÙNG ĐỂ CÁM DỖNghiên cứu về cách thức Sa tan dùng để cám dỗ nguyên tổ ta, thì thấy nó dùng chỉ hai cách mà thôi: thứ nhứt, nó dùng câu hỏi: “Mà chi! Đức Chúa Trời há có phán dặn?…” (Sa 3:1). Mục đích là muốn gieo sự hồ nghi về sự yêu thương của Đức Chúa Trời vào lòng người đờn bà.Khi ma quỉ cám dỗ Chúa Jesus trong đồng vắng, thì cũng dùng thủ đoạn ấy, lấy lời ám chỉ sự hồ nghi mà nói cùng Ngài rằng:“Nếu ngươi là Con Đức Chúa Trời…” (Ma 4:3). Ấy là nó muốn khiến cho Christ hồ nghi về phận làm Con Đức Chúa Trời vậy. Có người nói rằng thân hình con rắn giống như một dấu hỏi (?), làm hình bóng chỉ về bản tánh của nó hay khiến cho người ta sanh lòng hồ nghi Đức Chúa Trời.Cách nói thứ hai là dùng câu phủ định mạng lịnh của Đức Chúa Trời đã phán cùng họ. Nó nói: “Hai ngươi chẳng chết đâu…” (Sa 3:4). Đã khiến cho Ê-va hồ nghi Đức Chúa Trời rồi, thì sau lấy làm dễ mà khiến cho nàng tin lời dối trá của nó.5. SỰ CÁM DỖ QUAN HỆ VỚI BA YẾU TỐ CỦA BẢN TÁNH NGUYÊN TỔVả, mưu chước cám dỗ của Sa-tan có quan hệ với ba yếu tố của bản tánh nguyên tổ ta như tỏ ra sau đây.a) Tánh nhục dục:Sa-tan trước hết tấn công vào tánh nhục dục của Ê-va. Nó chỉ cho nàng “thấy trái của cây đó bộ ăn ngon” (Sa 3:6a). Còn Ê-va vì chịu theo lời ấy, nên cũng sanh lòng ham muốn trái cấm ấy.b) Thẩm mỹ quan:Đoạn, Sa-tan tấn công vào chỗ thẩm mỹ quan của Ê-va, tức là cái lương năng ưa thích sự đẹp đẽ, chỉ cho Ê-va thấy cây ấy “đẹp mắt”, hay là vừa con mắt (Sa 3:6b), đến đỗi sanh lòng rất muốn trái cây ấy hơn là muốn vâng phục Đức Chúa Trời.c) Linh tánh:Sau hết Sa-tan tấn công vào linh tánh của Ê-va, chỉ cho nàng thấy cây ấy là “quí vì để mở trí khôn” (Sa 3:6c). Sa-tan xui dục cho linh tánh nàng ham muốn trái cấm đó, hầu cho tâm trí trở nên khôn ngoan như Đức Chúa Trời vậy.Trong đồng vắng Sa-tan cũng theo cách thức ấy mà cám dỗ Christ (Ma 4:1-11; Lu 4:1-13). Nếu theo Luca mà nghiên cứu sự cám dỗ ấy, thì thấy Sa-tan cám dỗ tánh nhục dục trước hết. Vì sau khi Ngài đã kiêng ăn trong 40 ngày và đêm, bị đói rất nhiều, thì Sa-tan thách đố Ngài hãy lấy đá dưới chơn Ngài mà hóa ra bánh để ăn. Đoạn, Sa-tan muốn xâm hãm tâm trí Ngài,cho Ngài thấy các nước thế gian, đặng xui giục Ngài ham hố trở nên một hoàng đế cầm quyền thống trị cả thiên hạ như Alexandre đại đế, César và Hannibal đã ham hố khi xưa vậy. Sau rốt, Sa-tan muốn xâm hãm linh tánh Ngài, cám dỗ Ngài tin rằng vì Ngài được ơn riêng của Đức Chúa Trời nên được phép mạo hiểm mà gieo mình xuống khỏi nóc đền thờ, không cần kể đến công lệ hấp lực hay là ý muốn của Đức Chúa Trời. Sa-tan cám dỗ như thế là muốn cho linh tánh của Christ tự thị tự mãn,không cần phải nhờ Cha mà theo ý chỉ của Ngài nữa. Ngày nay Sa-tan cũng cám dỗ con cái Đức Chúa Trời như nó đã cám dỗ Ê-va và Christ xưa kia vậy. Trong IGi 2:16, ba cách thức ma quỉ dùng để xâm hãm tín đồ được gọi là (1) tình dục của xác thịt, (2) tình dục của mắt, và (3) sự kiêu căng của đời sống. Ta có thể gọi ba sự ấy là ba ngôi của tội lỗi vậy.6. CÁC BƯỚC TRONG SỰ SA NGÃTrong sự sa ngã của nguyên tổ có sáu bước,lần lần dẫn họ đến sự phạm tội.a) Lắng tai nghe:Tra xét Sa 3:, ta thấy bước thứ nhứt trên đường sa ngã của nguyên tổ ta là lắng tai nghe Sa-tan nói hành Đức Chúa Trời. Nó nói: “Mà chi! Đức Chúa Trời há có phán dặn các ngươi không được phép ăn trái các cây trong vườn sao?” Câu hỏi ấy ám chỉ nói hành Đức Chúa Trời, ngụ ý rằng Đức Chúa Trời không yêu thương nguyên tổ nữa, vì cấm họ không được ăn trái cây biết điều thiện điều ác, chẳng muốn cho họ được vui vẻ mở mang trí khôn cho thỏa nguyện phỉ chí gì hết. Theo câu quỉ quyệt ấy, ma quỉ phao vu Đức Chúa Trời có lòng ích kỷ, không muốn loài người trở nên khôn ngoan, biết phân biệt phải quấy như Ngài. Than ôi! Ê-va bị dụ hoặc chỉ vì đã lắng tai nghe lời phao vu ấy. Xem Sa 3:1b) Hồ nghi lòng yêu thương Đức Chúa Trời: Vừa nghe lời nói hành Đức Chúa Trời,Ê-va bèn mê tín lời ấy, sanh lòng hồ nghi sự yêu thương của Đức Chúa Trời, nghĩ rằng lời phán của Ngài đó có lẽ không chân thật chăng. Tuy chưa can phạm đến giới mạng một cách tỏ tường, thì lòng kia đã xiêu xiêu, trở nên dơ bẩn trước khi chưa hái ăn trái cấm. Bởi vì sự hồ nghi lòng yêu thương và lời phán của Đức Chúa Trời là bước thứ hai trên đường trái mạng Đức Chúa Trời và sa ngã phạm tội vậy.c) Thêm bớt lời của Đức Chúa Trời: Than ôi! Nguyên tổ ta thật cả gan, dám thêm bớt lời của Đức Chúa Trời. Sau đây xin kể ra những câu mà Ê-va có đổi,thay, thêm, bớt. Về cây cấm, Đức Chúa Trời đã phán: “Nhưng về cây biết điều thiện điều ác” (Sa 2:17). Ê-va đổi ra: “Song về phần trái của cây mọc giữa vườn” (Sa 3:3). Về việc ăn trái, Đức Chúa Trời đã phán: “Chớ hề ăn đến.” Ê-va thêm rằng:“Chẳng nên ăn đến, và cũng chẳng nên đá động đến.” Về sự kết quả của sự ăn trái cấm, Đức Chúa Trời phán: “Vì một mai ngươi ăn, chắc sẽ chết.” Ê-va đổi ra: “E khi hai ngươi phải chết chăng.” (Sự đổi chữ thay lời ấy ngụ ý Ê-va tin rằng có lẽ phải chết, chớ chưa “chắc sẽ chết” đâu.) Sa 3:2-5Vả lại, Ê-va không phân biệt sự thật với sự giả, chăm chỉ tin lời nói dối trá phạm thượng của Sa-tan. Nó quyết rằng:“Hai ngươi chẳng chết đâu.” Ấy là nó phủ định lời Đức Chúa Trời, ám chỉ rằng Đức Chúa Trời nói dối, bởi vì Ngài đã phán rằng hễ ăn trái cấm thì “chắc sẽ chết”.Ma quỉ lại thốt lời rằng: “Mắt mình sẽ mở ra, sẽ như Đức Chúa Trời, biết điều thiện điều ác.” Lời ấy là dối trá, vì loài người chẳng hề vì trái phạm mạng lịnh Đức Chúa Trời mà trở nên khôn ngoan bao giờ. Tội lỗi chỉ khiến cho người ta ra ngu dại mà thôi. Thế mà, dầu Sa-tan nói phạm thượng Đức Chúa Trời hay là thốt lời giả dối đi nữa, thì Ê-va cũng cứ mê tín nghe theo lời nó, bởi vì đã để ý hồ nghi và cãi lời Đức Chúa Trời rồi.d) Dòm xem cây cấm:Ê-va đã sụp vào cạm bẫy của ma quỉ, chịu lắng tai nghe lời dụ dỗ của nó, sanh lòng hồ nghi Đức Chúa Trời, cố ý thêm bớt lời phán của Ngài, để lòng tín nhận lời gian dối của ma quỉ; nên cứ đi luôn đến bước thứ tư mà dòm xem trái cấm. Nếu từ ban đầu nàng đã chối không khứng lắng tai nghe Sa-tan nói hành và phao vu Đức Chúa Trời, thì đâu có đến đỗi dòm xem trái cấm! (Sa 3:6).e) Ham muốn điều Chúa đã cấm:Đó là bước thứ năm. Vừa dòm xem quả trái cấm, tức thì sanh lòng ham muốn ăn trái ấy. Tình dục của mắt thường gợi đến sự mê tham của xác thịt (IGi 2:16). Vả,sự ham muốn của Ê-va do lòng kiêu căng mà ra, bởi vì nàng ham hố trở nên khôn ngoan như Đức Chúa Trời, để biết điều thiện điều ác, chẳng chịu yên lòng cứ ở trong địa vị mà Đức Chúa Trời đã đặt cho. Kẻ nào đã đi đến bước nầy thì hẳn gần phạm tội, mà kỳ thực đã phạm rồi, vì sự ham muốn điều gì Chúa đã cấm tức là đã cưu mang tội ở trong lòng rồi. Kinh Thánh có câu rằng: xem Ma 5:27,28; Gia 1:13-15.f) Trái mạng Đức Chúa Trời:Trót lỡ đi năm bước, chỉ còn một bước nữa, thì tội lỗi đã gần đến cực điểm rồi.Mà đã đi năm bước, thì Ê-va không thể nào ngừng lại được nữa, dường như buộc phải đi luôn tới bước thứ sáu, là hái trái cấm mà ăn. Tuy cấm lịnh của Đức Chúa Trời là nghiêm nhặt (Sa 2:16, Sa 2:17), thì nguyên tổ ta cũng cố ý trái phạm, cả gan đưa tay ra hái trái mà ăn. Làm vậy chẳng khác chi đến nói cùng Đức Chúa Trời rằng:“Đức Chúa Trời ôi! Chúng tôi khôn ngoan hơn Ngài, Ngài cũng thiếu lòng yêu thương và đức công nghĩa, nên chúng tôi tự ý nhứt định không theo mạng lịnh Ngài về cây biết sự thiện sự ác đó.” Xem Sa 3:6b.TỔNG ĐOÁNMọi thứ tội lỗi và sự sa ngã ngày nay cũng được cưu mang trưởng dưỡng trong đời tín đồ như vậy. Trước có sự lắng tai nghe lời dụ dỗ của Sa-tan. Sau hồ nghi lời Chúa phán, sanh “lòng dữ và chẳng tin” (He 3:7-12, He 3:16-19). Đoạn, khởi sự sửa đổi lời của Chúa để cho hiệp ý riêng mình và chữa tội mình muốn phạm. Kế sau lại dòm xem điều Chúa cấm, rồi tư dục tức thì dấy lên, ham muốn điều cấm ấy. Đã có sự ham muốn, thì tư dục đã cưu mang tội rồi, tức thì có sự làm theo lòng ham muốn mà sanh ra tội ác. Còn cái kết quả của tội ác là sự chết, bất luận là tội của tín đồ hay là của người ngoại cũng vậy (Gia 1:13-15; Ro 6:23). Hễ ai muốn thoát khỏi sự sa ngã, cần phải chuyên tâm lánh xa ma quỉ, đừng chịu để tai nghe lời dụ dỗ của nó mới được. Vì có chép rằng: xem IITi 2:22; Gia 4:7.7. SỰ KẾT QUẢ TRỰC TIẾP CỦA SỰ SA NGÃKhi nguyên tổ của ta mới phạm tội, thì tội ác tức thì kết quả năm điều kể ra sau đây (Sa 3:7-13)a) Hổ thẹn:Nguyên tổ ta vừa ăn trái cây cấm, mắt bèn mở ra, thấy mình lỏa lồ, thì lấy làm hổ thẹn lắm (Sa 3:7). Sự vinh hiển của Đức Chúa Trời vốn bao phủ họ đã mất rồi (Ro 3:23). Sự hổ thẹn ấy do lương tâm cáo trách mình đã làm quấy mà ra. Từ đó đến nay sự phạm tội thường sanh ra sự hổ thẹn, hổ ngươi với Đức Chúa Trời, thẹn mặt với loài người. Chỉ kẻ nào tin cậy nơi công lao cứu chuộc của Christ mới thoát khỏi sự hổ thẹn ấy được.b) Kiếm thế che khuất sự lỏa lồ: Trước khi chưa phạm tội nguyên tổ ta nhờ sự vinh hiển của Đức Chúa Trời mà che phủ khỏi lỏa lồ. Khi phạm tội rồi, bèn thấy mình đã mất sự vinh hiển ấy, bị trần truồng (Ro 3:23), bèn kiếm thế làm ra áo bằng lá đặng che khuất sự lỏa lồ đó. Nhưng thương thay, cái khố ấy không sao che phủ nổi lỏa lồ kia được, vì nó do phương pháp loài người làm ra. Duy về sau Đức Chúa Trời thương xót họ, làm cho họ cái áo bằng da con thú, là áo huyết, mới che khuất sự hổ thẹn của họ được. Áo bằng lá chỉ về công việc riêng của loài người, chẳng có thể che phủ tội lỗi mình được. Cần phải nhờ đến Con Hi sinh của Đức Chúa Trời là Christ, nhờ công lao và huyết Ngài mới che phủ tội chúng ta được,cứu chúng ta khỏi sự hổ thẹn đời đời. Kinh Thánh có câu rằng: xem Sa 3:21; Phi 3:9; Kh 7:4c) Sự sợ hãi:Nguyên tổ ta thấy sự lỏa lồ mình, không những hổ thẹn mà lại sợ hãi. Ấy cũng tại lương tâm cáo trách vì đã trái mạng Đức Chúa Trời, sợ cơn hình phạt của Đức Chúa Trời đổ trên mình. Đến ngày nay các hậu tự của nguyên tổ ta ở ngoài Christ vẫn còn bị sự sợ hãi hãm lấy mình luôn. Chỉ kẻ nào thật lòng nương cậy nơi Christ mới được bình an vô sự. Phaolô dạy rằng: xem Ro 5:1; IICo 5:18; Eph 2:13-16d) Ẩn giấu mình khỏi mặt Đức Chúa Trời:khi thấy mình đã mất sự vinh hiển của Đức Chúa Trời, lấy làm hổ thẹn và sợ hãi quá, không dám gặp mặt Đức Chúa Trời nữa, bèn giấu mình trong bụi cây. Than ôi!Nguyên tổ ta nông nổi quá mà nghĩ rằng có thể giấu mình và che khuất tội lỗi mình khỏi mặt Đức Chúa Trời! Nhưng nào có ích gì; vì “chẳng có vật nào không được bày tỏ ra trước mặt Ngài, nhưng thảy đều trần trụi và lộ ra trước mặt Đấng mà chúng ta phải khai trình.” (He 4:13).e) Kiếm thế chữa tội mình:Tuy nguyên tổ ta đã trái mạng Đức Chúa Trời, thì cũng cứ kiếm thế chữa tội ấy.A-đam đổ thừa tội mình cho vợ, là người Đức Chúa Trời đã ban cho ông. Nói như thế là ngầm đổ tội cho Đức Chúa Trời đó thôi. Còn Ê-va thì nói tội mình là do con rắn. Nhưng con rắn cũng bởi Đức Chúa Trời dựng nên; nên Ê-va cũng ám chỉ rằng tội mình đã phạm đó bất quá là tại Đấng Tạo hóa vậy. Ngày nay hậu tự của A-đam hay chữa tội mình cũng như nguyên tổ đời xưa đã đổ thừa cho kẻ khác, không chịu thú thực, xưng ra mà bỏ đi; thậm chí cũng có kẻ dám nói rằng nếu mình phạm tội là tại vì Đấng Tạo hóa đã ban cho mình những bản năng muốn trái luật phạm pháp cùng Ngài, nên dầu phạm tội cũng chẳng có trách nhiệm gì đối với nó đâu!8. CÁI THẨM ÁN CỦA SỰ SA NGÃĐức Chúa Trời dầu là Đấng thương yêu,nhưng không thế nào bỏ qua tội lỗi của nguyên tổ ta, sự công nghĩa Ngài buộc Ngài phải xét đoán và lên án cho tội ấy. Nên vườn Ê-đen tuy vốn là một nơi vui vẻ, nhưng đã trở nên tòa thẩm án của Đức Chúa Trời. Các sự xét đoán của Ngài tuy là công bình nghiêm nhặt, nhưng trong đó cũng có sự thương yêu giấu kín.Ngài đợi đến buổi tối đương khi hiu hiu gió mát, tìm kiếm họ mà kêu rằng:“A-đam, ngươi ở đâu?” Ý là Đức Chúa Trời có lẽ còn hi vọng muốn chờ họ còn dịp tiện biết tội mình mà ăn năn chăng. Đến đỗi khi Ngài đến cùng họ, vẫn không tỏ giọng thẩm đoán liền, nhưng ân cần dò hỏi trước, ban cho họ dịp tiện tỏ duyên cớ mình. Song than ôi! Lòng họ đã bại hoại rồi, không biết tội mình nặng đến bực nào, chỉ kiếm thế chữa mình mà thôi. Nên Đức Chúa Trời phải kết án họ. Bản án khép tội sa ngã của nguyên tổ ta được chia ra làm ba đoạn như sau nầy:a) Bốn đoán ngữ:(Sa 3:14-19). Trước hết Đức Chúa Trời tuyên bố bốn đoán ngữ, lên án cho con rắn,cho người nữ, cho người nam, và cho cả trái đất.(1) Đoán ngữ lên án cho con rắn:Đức Chúa Trời xét đoán con rắn, lên án cho nó phải bị rủa sả tệ mạt, lấy bụng mà bò, dùng bụi đất làm đồ ăn. Sáng thế Ký có chép rằng: xem Sa 3:14,15Trong đời Thiên hi niên (Millenium) khi Christ cai trị đất nầy, trong các loài thú chỉ có rắn là không được thoát khỏi sự rủa sả, nó còn phải lấy bụng mà bò đi luôn. Ấy chắc tại vì nó làm hình bóng chỉ về Sa-tan vậy (Es 65:25). Có lẽ con rắn trước khi chưa bị Sa-tan mượn hình hiện thân cám dỗ loài người, thì nó vẫn đi ngay mình thẳng lưng như loài người,có bản năng nói phô được. Bởi sự rủa sả nên nó phải ngã mình xuống lấy bụng mà bò đi. Vậy thì trước khi chưa cám dỗ nguyên tổ, có lẽ nó chưa phải bò đi cách ấy chăng.(2) Đoán ngữ lên án cho người nữ:Đức Chúa Trời lên án cho người nữ, định rằng phải bị sự buồn thảm và phục tùng người chồng. Còn sự đau đớn của người đàn bà trong lúc sanh đẻ là một sự hình phạt của tội lỗi. Sự buộc phải phục tùng người chồng cũng tại cớ ấy mà ra. Đức Chúa Trời vốn dựng nên người nữ để sánh đôi và giúp đỡ người nam, nhưng vì cớ tội,bèn trở nên chẳng khác gì một tôi tớ cho người nam vậy. Chỉ nhờ đạo Tin Lành mà địa vị khốn nạn của người nữ được cứu vãn êm dịu dễ chịu hơn. Xem Sa 3:16; ITi 2:15(3) Đoán ngữ lên án cho người nam:Đức Chúa Trời cũng lên án cho người nam phải bị sự buồn thảm, làm công việc nhọc nhằn cực khổ, đến đỗi phải đổ mồ hôi xót con mắt mới có bát cơm mà ăn. Trước khi chưa phạm tội, công việc làm trong vườn Ê-đen không khác gì một sự tiêu khiển,rất vui thú nhẹ nhàng, thích hợp với bản tánh của người ta bội phần. Về sau khi đã phạm tội rồi, công việc phần xác bèn trở nên nhọc nhằn lao khổ không xiết kể.Xem Sa 3:17, Sa 3:19; Giop 5:7; Tr 2:22,23Tuy vậy, cũng khá nhớ rằng dầu công việc xác thịt cực nhọc khổ sở, thì cũng là một phước hạnh cho loài người, vì nhờ đó mà họ thoát khỏi nhiều cám dỗ xấu xa bại hoại, vì đương khi làm công việc nhọc xác, ít ai có thì giờ nghĩ đến sự chơi bời bậy bạ nữa.(4) Đoán ngữ lên án cho trái đất:Tại tội lỗi loài người mà Đức Chúa Trời lên án cho trái đất, định rằng phải sanh chông gai, tật lê. Như trong vòng loài thú, con rắn là một loài thù nghịch rất đáng ghê, thì cũng vậy, chông gai và tật Le là thù nghịch của cả loài thực vật, rất ngăn trở sự sanh trưởng và sự thâu hoạch các vật ấy. (Ma 7:16). Xem Sa 3:18Kinh Thánh thường dùng chông gai làm hình bóng chỉ về sự gian ác (Dan 33:55). Cũng tại cớ ấy mà Christ phải đội mão miện bằng gai lúc Ngài phó mình chuộc tội ác của loài người (Gi 19:2,5). Thực sự ấy cũng minh chứng rằng Christ làm vua của sự rủa sả bởi tội lỗi mà ra, để cứu loài người khỏi sự ấy (Ga 3:13). Khi Christ tái lâm, lập nước bình an trên đất nầy, thì cũng sẽ giải cứu trái đất khỏi sự rủa sả ấy, đến đỗi sa mạc sẽ trổ hoa như bông hường vậy (Es 35:1; 55:13). Kinh Thánh có câu chứng rằng: xem Ma 7:16;Dan 33:55; Gi 19:2; Ga 3:13; Es 35:1; Es 55:13b) Mất ba phước:(Sa 3:22-24). Sự kết quả của bốn đoán ngữ mà Đức Chúa Trời phán định cho tội lỗi nguyên tổ ta là họ phải bị mất ba phước hạnh rất quan hệ, xin kể ra sau đây:(1) Mất phước ăn trái cây sự sống:Tuy nguyên tổ ta được thân thể rất trọn vẹn, thì cũng phải chết (Sa 2:7; ICo 15:44, ICo 15:45, ICo 15:47). Khoa học cũng dạy rằng từ lúc có sanh hoạt hữu cơ, thì cũng có cái nguyên lý của sự tiêu tan hư mất hành động ở trong sự sanh hoạt ấy cho đến đỗi làm chết mất vậy. Thế thì, khi Đức Chúa Trời dựng nên thân thể nguyên tổ ta, cũng dự bị luôn một phương pháp để bảo tồn sự sống cho họ tránh khỏi sự chết, hầu cho được xinh tươi mạnh khỏe đời đời. Phương pháp ấy là cây sự sống. Nguyên tổ ta ăn trái ấy, thì nhờ linh nghiệm có mà thân thể họ đã được bất diệt.Xem Sa 3:22; Kh 2:7 và Kh 22:14 thì rõ sự ăn trái cây sự sống làm hình bóng chỉ về sự giao thông với Đức Chúa Trời và Đấng Christ. Ấy vậy, sự ăn trái cây sự sống tại vườn Ê-đen là tượng trưng chứng rằng nguyên tổ ta phải nhờ sự giao thông với Đức Chúa Trời hằng ngày, mới được thân thể trường sanh bất tử vậy. Xem Kh 2:7; Kh 22:14Vả, nếu nguyên tổ ta sau khi phạm tội lại ăn trái cây sự sống, thì thân thể họ chắc cũng đã được bất diệt. Mà được như thế khi còn đứng trong địa vị tội lỗi, thật nguy hiểm vô song, khiến cho họ không thể được cứu rỗi, mà phải cứ ở trong địa vị tội lỗi đau đớn cho đến đời đời. Ta có thể đoán chắc rằng một địa vị như thế ở trên mặt đất cũng chẳng khác gì ở địa ngục vậy. Vì cớ ấy Đức Chúa Trời phải cất khỏi họ phước ăn trái cây sự sống, đuổi họ ra khỏi vườn Ê-đen, đặt thần Chêrubin giữ đường dẫn đến cây ấy, cho đến khi Cứu Chúa đến giải cứu họ khỏi tội lỗi, rồi nhờ sự phục sanh từ trong kẻ chết mà được phép ăn trái cây sự sống ở trong Lạc viên (Paradis) của Đức Chúa Trời. Xem Sa 3:22, Sa 3:24Hiện bây giờ hễ ai tin cậy Christ, thì được sự sống đời đời về phần linh tánh; còn nhờ sự sống lại của Ngài làm cam đoan về sự bất diệt của thân thể nữa. Vì trong ngày sau rốt Ngài sẽ kêu họ từ kẻ chết sống lại, được cùng Ngài ở thiên đàng, nhờ Ngài (tức là cây sự sống) mà sống cho đến vĩnh viễn vậy. Kinh Thánh có câu chứng rằng: xem Gi 6:40; ICo 15:20-23;Kh 2:7; Kh 22:14(2) Mất phước cư trú trong vườn Ê-đen:Đức Chúa Trời đã cấm nguyên tổ không được phép ăn trái cây sự sống; nhưng nếu còn cứ để cho họ ở trong vườn luôn; chắc họ sẽ bị Sa-tan cám dỗ mà ăn trái cây ấy như đã ăn trái cây kia nữa. Nên Đức Chúa Trời phải đuổi họ ra khỏi vườn Ê-đen,khỏi cảnh khoái lạc, khỏi mọi hạnh phước trong đó, lủi thủi đi ra “cày cấy đất,là nơi có người ra” (Sa 3:23).(3) Mất phước giao thông với Đức Chúa Trời: Tội lỗi hay phân rẽ loài người khỏi Đức Chúa Trời. Ngoài tội lỗi, chẳng có sự gì khác có thể phân rẽ người ta ra khỏi Ngài được. Khi nguyên tổ ta đã ẩn mình khỏi mặt Đức Chúa Trời, ấy là tại tội lỗi và sự ô uế đáng hổ thẹn của họ đã khiến cho họ không xứng đáng đối diện giao thông với Đức Chúa Trời nữa. Còn sự bị đuổi ra khỏi vườn Ê-đen đó chẳng qua là cái dấu hiệu bề ngoài làm chứng rằng bề trong đã có sự tuyệt giao với Đức Chúa Trời rồi. Từ đó về sau nguyên tổ ta và hậu tự họ chỉ có vị Chêrubin cầm gươm chói lói làm tượng trưng về sự thực tại của Đức Chúa Trời (Sa 3:24). Cái tượng trưng ấy chắc cứ ở đó cho đến khi nước lụt xảy ra. Trong đời trước nước lụt những người kỉnh kiền chắc đến nơi đó mà dâng tế lễ và thờ phượng Đức Chúa Trời (Sa 4:3-5).c) Bị ba thứ sự chết (Sa 2:17): Khi Đức Chúa Trời đặt nguyên tổ ta ở trong vườn Ê-đen. Cấm họ ăn trái cây biết điều thiện điều ác, thì cũng phán luôn rằng:“Vì một mai ngươi ăn, chắc sẽ chết.” Sự chết ấy là cái hiệu quả của tội lỗi, và có ba phương diện, tức là sự chết thuộc thể; sự chết thuộc linh, và sự chết đời đời. Xin luận qua ba phương diện ấy.(1) Sự chết thuộc thể:Sự chết thuộc thể tức là linh hồn và xác thịt phân rẽ nhau ra. Khi nguyên tổ mới được dựng nên, chưa phạm tội, thì thân thể và linh hồn được dựng hợp rập ràng với nhau một cách trọn vẹn. Nhưng đến khi trái phạm mạng lịnh Đức Chúa Trời, tội lỗi bèn nhập vào cơ thể của loài người, sanh ra những sự bất thuận điên đảo giữa thân thể và linh hồn, làm cho sự hòa thuận sở thủy phải mất đi, mà gây nên những bịnh nguy hiểm đến chết trong mình. Phaolô chép rằng: xem Ro 5:12; Dan 27:3;Thi 90:7-10; Ro 5:13-17; Ro 8:3, Ro 8:10, Ro 8:11; ICo 15:21, ICo 15:22.Cũng có nhà thần đạo cho sự chết phần xác vốn một sự hình phạt của tội lỗi; còn nhà khác cho sự ấy bất quá là một cái hiệu quả tự nhiên của sự sa ngã đó thôi. Dầu thế nào đi nữa, cũng lấy làm rõ ràng lắm sự yếu đuối, tật bịnh, và sự chết liền tiếp theo sự đuổi loài người ra khỏi vườn Ê-đen, bắt đầu hành động trong họ ngay từ lúc họ không được phép ăn trái cây sự sống vậy.(2) Sự chết thuộc linh:Sự chết thuộc linh là linh hồn loài người bị phân rẽ ra khỏi Đức Chúa Trời. Lúc chưa phạm tội, linh hồn nguyên tổ ta vốn có sự giao thông trọn vẹn với Đức Chúa Trời; còn sự tương quan phước hạnh ấy kết quả trong họ một lương tâm mạnh khỏe và bình an vô sự; nhơn đó sự sáng sủa và sự vui vẻ tràn khắp cả người, làm nên sự hòa thuận rập ràng mọi bề. Nhưng chẳng may, khi tội lỗi nhập vào loài người,thì liền phá hủy sự giao thông trọn vẹn ấy, khiến cho linh tánh của loài người bị phân rẽ khỏi Đức Chúa Trời. Còn sự ấy kết quả làm cho lương tâm đau đớn,lòng bối rối, và tâm linh tối tăm không xiết kể. Địa vị ấy thần đạo gọi là sự chết thuộc linh. Xem những câu kể sau đây thì rõ: xem Ma 8:22; Lu 15:32; Gi 5:24; Gi 8:51; Ro 8:13; Eph 2:1; Eph 5:14; ITi 5:6; Gia 5:20; Gi 3:14Về vấn đề nầy có nhà thần đạo luận rằng:“Rõ ràng bản án mà Đức Chúa Trời tuyên bố ra tại vườn Ê-đen và đã giáng trên loài người rồi đó, đại khái là sự chết của linh hồn do sự phân rẽ Đức Chúa Trời.Kỳ thực, duy theo ý nghĩa ấy mà A-đam bị chết chính trong ngày ông ăn trái cây cấm (Sa 2:17). Cũng chỉ theo ý nghĩa ấy mà người nào tin Christ hôm nay được thoát khỏi sự chết liền (Gi 11:26). Cũng tại cớ đó mà Phaolô trong Ro 5:12-22 so sánh Christ với A-đam, thì trước hết nói về sự chết của xác thịt rồi sau lần chuyển qua nói về sự chết của linh tánh. Trong Ro 5:21 ông nói rằng: “Hầu cho như tội lỗi đã làm vua bởi sự chết thể nào, thì ân điển phải do sự công nghĩa mà làm vua đến sự sống đời đời bởi Jesus Christ, Chúa chúng ta, cũng thể ấy.”Trong câu ấy ý nghĩa ngôn từ “sự sống đời đời” vượt qua sự tồn tại của thân thể,và ý nghĩa danh từ “sự chết” cũng vượt qua sự chết của thân thể đó. “Sự sống đời đời” đây chắc nói về sự giao thông với Đức Chúa Trời; còn “sự chết” chắc nói về sự tuyệt giao ấy, đến đỗi phải kết quả sự phân rẽ ra khỏi Đức Chúa Trời vậy. Sự chết thuộc thể chỉ là công hiệu của sự chết thuộc linh đó thôi.(3) Sự chết đời đời:Sự chết đời đời là sự kết liễu của sự chết thuộc linh. Sự chết thuộc linh vốn một địa vị bề trong của linh hồn; còn sự chết đời đời là địa vị bề ngoài thích hiệp với địa vị bề trong. Giả như tâm linh bị sự tối tăm bao phủ bởi vì không có Đức Chúa Trời ngự trong đó, thì hầm lửa lưu hoàng là nơi tối tăm rất thích hiệp với địa vị của tâm linh ấy. Trong Cong 1:24 nói về tên Giuđa rằng nó “đi nơi của nó”, tức là đi đến địa ngục, là nơi rất thích hiệp với địa vị của linh tánh bề trong của nó vậy. Chốn trầm luân là nơi Đức Chúa Trời đã sắm sửa cho Sa-tan và các quỉ sứ của nó, chớ chẳng phải cốt ý vì loài người mà dự bị đâu. Nhưng tại loài người lựa chọn theo Sa-tan ở trong đời nầy, nên họ cũng phải đồng chịu chốn trầm luân với nó trong đời sau. Xem Ma 25:41; IITe 1:9Kinh Thánh cũng dạy rõ lắm rằng kẻ ác ở vào địa vị ấy phải bị Đức Chúa Trời hình phạt về cả thân thể lẫn linh hồn cho đến đời đời. Có câu chứng rằng: xem Mat 10:28; He 10:31; Kh 14:11; Kh 20:14,15.Trong đời Cựu Ước Đức Chúa Trời thi ân ngăn ngừa sự chết thuộc linh và sự chết đời đời, bởi Ngài lập các lễ sinh tế (Sa 3:21; Sa 4:4; He 9:22). Các sinh tế ấy dự chỉ về Cứu Chúa phải đến để “vì mọi người nếm sự chết”, đã cứu rỗi những kẻ trong đời Cựu Ước thuận phục mạng lịnh của Đức Chúa Trời mà đem dâng sinh tế cho Ngài để đền tội mình. Nhơn vì sinh tế ấy mà họ được chứng rằng họ đã tin cậy nơi Cứu Chúa phải đến vậy (Ro 3:25; He 9:22). Trong đời Tân Ước Đức Chúa Trời dùng sự trực tiếp tin cậy nơi Christ mà ngăn ngừa sự chết ấy, đem kẻ tin ra khỏi vòng chết mà đưa vào sự sống đời đời ở trong Cứu Chúa Christ vậy (Gi 5:24).Sa 3:21; 4:4; He 9:22; Ro 3:25; Gi 5:24″

QUYỂN V - LUẬN VỀ TỘI LỖI

TỘI KHIÊN HỌCSự đau đớn buồn rầu của người đời do quyền lực và sự bại hoại của tội lỗi mà ra, làm đầy dẫy lòng người, lúc nhúc lao nhao cả chúng sanh. Kẻ qua người lại chắc không một ai thoát khỏi khuôn rập của tội lỗi, do nguyên tổ di truyền từ đời nọ qua đời kia. Ai thuộc về nguyên tổ,nấy cũng chịu ảnh hưởng của nguyên tổ sa ngã, và sự kết quả của tội lỗi do đó mà ra.Vấn đề tội lỗi rất quan hệ với thần đạo học, ta chia ra làm sáu chương, tức là 1) Luận về luật pháp Đức Chúa Trời đối với tội; 2) Luận về căn nguyên của tội; 3) Luận về tội thực tại; 4) Luận về chân tánh của tội; 5) Luận về tội tràn khắp mọi nơi; 6) Luận về sự hình phạt của tội.Xin chuyên tâm luận đến từng chương sau đây.CHƯƠNG 1: LUẬN VỀ LUẬT PHÁP CỦA ĐỨC CHÚA TRỜI ĐỐI VỚI TỘI LỖIMUỐN luận về tội lỗi của loài người,thì trước hết cần phải luận về luật pháp của Đức Chúa Trời, và chân tánh của luật pháp ấy. Khi Đức Chúa Trời tạo thành loài người thì Ngài cũng định luật cho họ luôn; bởi vì nếu không có định luật, thì cũng không thể nào biết sự vâng lời hoặc định tội cho ai. Vả, nói cách đại khái, tội lỗi của loài người sở dĩ có là do sự trái luật của Đức Chúa Trời mà ra. Vậy, thiết tưởng lấy làm quan hệ mà kê cứu qua chân tánh của luật pháp ấy.I. Ý ĐẠI KHÁI1. LUẬT PHÁP TỎ RA Ý CHỈ KẺ LẬP PHÁPLuật pháp tỏ ra đức tánh của kẻ lập pháp. Thấy luật Đức Chúa Trời, thì biết được sự thánh khiết, sự công nghĩa, và sự yêu thương đều là những yếu tố thuộc trong bản tánh Ngài, mà cũng là điều tỏ bày phận sự mà ý chỉ Ngài đòi loài người phải làm trọn vậy.2. TỎ RA QUYỀN BÍNH CỦA KẺ CHẤP PHÁPLuật pháp lại tỏ ra quyền bính của kẻ chấp pháp để thực hành theo ý mình như đã bày tỏ trong luật pháp ấy. Bằng chẳng vậy, thì luật ấy chẳng qua là một bản văn tự suông, chớ không có hiệu lực gì cả.3. TỎ RA BỔN PHẬN CỦA KẺ THỦ PHÁPLuật pháp cũng tỏ cho kẻ thủ pháp phải làm cách nào để vâng giữ trách nhiệm đã bày ra trong luật pháp đó, và sự thưởng thuận phạt nghịch là thể nào.II. HAI LOẠI LUẬT PHÁPKê cứu vấn đề luật pháp, thì thấy chia ra làm hai loại đặc biệt như sau đây.1. LUẬT THIÊN NHIÊNLuật thiên nhiên cũng gọi là luật tự nhiên giới, hoặc là luật vật chất giới. Cuộc đời là bể dâu, cảnh vật mây chó,thảy đều theo lệ nhứt thành bất biến. Luận về vật lớn lao như trái đất luân chuyển, mặt trăng, ngôi sao đi chung quanh mặt trời, cũng đều thống thuộc trong công lệ vũ trụ mà không sai chạy mảy may nào cả. Lại luận đến điều rất nhỏ, như có chừng 75.000.000 vi trùng trong một nhểu nước; nó cũng không vượt ra khỏi khuôn rập của công lệ đó. Xem xét vũ trụ, buộc ta công nhận chắc phải có Đấng Chủ tể trù hoạch sắp đặt định luật cho muôn vật, bắt buộc nó đều phải tuân hành đó vậy. Vả, luật pháp thiên nhiên tỏ ra những điều như sau đây:a) Tỏ ra Đấng lập pháp:Nếu không có Đấng Chủ tể chí tôn chí đại, toàn năng toàn tri trù hoạch sửa sang muôn vật trong vũ trụ, thì cớ sao muôn vật ấy vẫn mãi theo công lệ mà không thoát khỏi khuôn rập ấy được bao giờ? Luật pháp chứng rằng hễ có luật pháp, cố nhiên có Đấng lập pháp vậy.b) Tỏ ra ý chí của Đấng lập pháp: luật pháp bày tỏ ra ý chí và đức tánh của lòng Đấng lập pháp. Xem công lệ trong vũ trụ, thì thấy được hình trạng của Đức Chúa Trời cũng như Kinh Thánh chép rằng: xem Ro 1:19,20. (cũng xem Cong 17:26,27).c) Tỏ ra một Đấng có quyền thực hành luật pháp: Rất cần yếu cho luật pháp có quyền bính nào để bắt buộc phải thực hành các qui điều của nó; bằng chẳng nó chỉ trở nên như những lời ước nguyện đó thôi. Đức Chúa Trời chẳng những là định công lệ cho muôn vật, nhưng Ngài lại còn lấy quyền mà thực hành các điều ấy cho hoàn toàn. Trong He 1:3 có chép, “Con… lấy lời quyền năng mình mà nâng đỡ muôn vật.” Muôn vật đã nhờ lời Chúa mà tạo thành từ ban đầu, cũng nhờ lời Chúa mà tồn tại đến cuối cùng (Sa 1:3; IIPhi 3:4-7). Nếu không có quyền năng Đức Chúa Trời hành động trong các luật pháp của tự nhiên giới, chắc hẳn nó không lưu tồn được một giây phút nào.d) Tỏ ra phẩm vị của luật pháp: Vô luận vật nhỏ hay lớn trong vũ trụ nầy,thảy đều ở dưới thiên nhiên luật, có chương trình nhứt định tuân theo ý chỉ Đức Chúa Trời, không khi nào vượt qua khỏi phạm vi ấy được.e) Tỏ ra mục đích của luật pháp: Cái mục đích của Đức Chúa Trời về thiên nhiên luật là sự hiệp hòa của muôn vật. Nên luật ấy định mọi vật đều phải tuân theo cái mục đích đó, phải xâu vào một lẽ mà lấy ý chỉ Đức Chúa Trời làm then chốt trung tâm vậy.2. LUẬT ĐẠO ĐỨCLuật đạo đức cũng gọi là luật thị phi,được chép ở trong lòng, trên bảng đá, và trong sách; cũng có sự tương tợ khắng khít với luật thiên nhiên.a) Được chạm trong lòng:Đức Chúa Trời chiếu theo hình Ngài mà tạo thành loài người, ban cho họ thiên lương và linh tánh rất cao. Tại nơi linh tánh ấy Ngài lại biên một luật pháp; dầu không bằng nét chữ, nhưng có đủ quyền biện phân phải trái, phân biệt lành dữ cũng như Đức Chúa Trời vậy. Nếu loài người không bị tội lỗi tiêu diệt hình tượng của Đức Chúa Trời trong tâm linh họ, chắc về sau không cần ban bố luật pháp đạo đức ra hai ba lần khác mà khắc vào đá, biên vào sách nữa. Trong thơ Rô-ma Phao-lô chép rằng: xem Ro 2:14-16.b) Được khắc vào đá:luật pháp nầy được gọi là Mười Điều răn, bởi miệng Đức Chúa Trời phán (Phu 4:36), nhờ chính tay Ngài viết ra (Xu 24:12), được truyền ra trong sự oai linh chói sáng (Xu 19:16; He 12:18-21), và là giao ước của Ngài lập với dân sự Ngài (Xu 19:5; Phu 5:2,3). Bổn phận của mọi người làm nên mọi điều bao hàm trong đó (Tr 12:13). Tóm lại mọi điều ấy là phải hết lòng, hết linh hồn, hết ý yêu mến Đức Chúa Trời và người lân cận như mình (Ma 22:34-40). Luật đạo đức rất trọn vẹn và trong sạch (Thi 19:7,8), đời đời không hề bị bãi bỏ (Lu 16:17), Đấng Christ giữ theo trọn vẹn (Ma 3:15), ngoài Ngài chẳng hề có ai được xưng công nghĩa đối với luật ấy (Ro 10:4).c) Chép vào sách:nói cách rộng, thì luật đạo đức được chép vào Tân Cựu Ước. Có khi riêng một Ngũ kinh, có khi cả bộ Cựu Ước được gọi là luật pháp; cũng có đoạn ám chỉ gọi đạo Đức Chúa Trời là Luật pháp nữa (Ma 7:12; Lu 24:44; Gi 10:34,35; Gi 12:34; Ro 3:19,20; ITi 1:7; Thi 1:2; Thi 119: ). Có thể nói rằng Kinh Thánh Đức Chúa Trời bày tỏ trách nhiệm, phần thưởng và hình phạt của loài người đối với luật pháp đạo đức.d) Luật đạo đức và luật thiên nhiên giống như nhau: Luật đạo đức và luật thiên nhiên giống như nhau sau đây:(1) Tỏ ra Chúa lập pháp:Luật đạo đức tỏ ra Đức Chúa Trời là Đấng lập luật ấy, ban bố nó ra theo ba cách, tức là chạm trong lòng loài người, khắc vào bảng đá ở trên núi Si-na-i,và nhờ các tiên tri và sứ đồ chép vào Kinh Thánh.(2) Tỏ ra đức tánh Đức Chúa Trời: Luật đạo đức tỏ ra đức tánh và ý chí trong lòng Đức Chúa Trời. Các qui tắc của luật ấy biểu dương phẩm vị và bản tánh của Ngài, đến đỗi luật ấy đòi ta thể nào, thì chính Đấng lập pháp cũng thể ấy. Ngài dạy loài người phải công nghĩa và thánh khiết (IPhi 1:16). Mạng lịnh ấy không những làm khuôn phép để buộc loài người phải ở công nghĩa và thánh khiết, lại tỏ ra bản ngã của chính Đức Chúa Trời cũng là công nghĩa thánh khiết tuyệt đối. Đức Chúa Trời lại rất trọn vẹn, không thiếu thốn chỗ nào hết. Luật pháp Ngài cũng như vậy, đòi sự trọn vẹn ở nơi loài người, đến nỗi họ chẳng nên có chỗ nào có thể gọi là khuyết điểm nữa. Thực,Ngài bảo mọi người rằng: “Các ngươi phải thánh khiết, vì ta là thánh khiết” (IPhi 1:16).(3) Tỏ ra Đức Chúa Trời có quyền thực hành luật đạo đức: Đức Chúa Trời chỉ ban bố luật đạo đức cho nhân loại có tánh đạo đức, biết phân biệt phải quấy. Vì cớ ấy Ngài bắt buộc họ phải giữ làm theo. Bằng chẳng, Ngài có quyền thực hành án phạt của luật ấy.Xem bề ngoài, hình như Đức Chúa Trời không lợi dụng quyền ấy. Nhưng kỳ thực, bản tánh công nghĩa Ngài buộc Ngài phải dùng quyền ấy đặng thực hành luật pháp Ngài. Nếu có khi Ngài chậm thi hành luật pháp đó, là chỉ tại vì sự yêu thương của Ngài khiến Ngài tầng phen đình lại việc kinh khiếp ấy. Thế thì, nếu thấy giờ báo ứng của Đức Chúa Trời chưa đến, thì chớ vội chê bai Ngài là vô quyền. Nhà hiền xưa chép rằng: “Thiện hữu thiện báo, ác hữu ác báo, nhược hoàn bất báo, thời thần vị đáo.” Câu ấy rất đúng lắm vậy. Kinh Thánh cũng dạy rằng: xem Ro 2:5,6;IIPhi 3:9(4) Tỏ phàm sanh vật có linh tánh đều ở dưới quyền luật ấy: Hễ sanh vật nào có linh tánh, phân biệt phải quấy, đều bị nhốt dưới luật đạo đức, vì phạm vi của nó rộng vô cùng (Thi 119:96). Bất cứ sanh vật ấy thuộc về thời đại dĩ vãng, hiện tại hay tương lai,hễ phạm tội thì bị luật đạo đức khép án; cư xử đạo đức thì được luật ấy tưởng thưởng, Kinh Thánh chép: xem Ro 3:23; Gia 4:17(5) Tỏ mục đích của luật pháp ấy là hiệp hòa trong cõi linh giới: Hễ giữ luật đạo đức thì bảo toàn sự hiệp hòa trong linh giới. Nhưng chẳng may có quỉ Sa-tan phá hủy luật ấy,làm cho sự đẳng thứ trật tự trong cõi đạo đức bị lộn xộn (Es 14:13,14), đến đỗi cả loài người và một số thiên sứ đều bị ảnh hưởng vô phước của biến động ấy,khiến mất sự hòa hiệp với Đức Chúa Trời và với nhau nữa (Ro 3:19; Giu 1:6). May nhờ thập tự giá của Christ có tài hay hòa hiệp lại với mọi sự đã vì trái luật đạo đức mà phải bị lộn xộn, phản nghịch nhau. Ngài giữ luật đạo đức trọn vẹn, chẳng chỗ nào trái phạm mảy may gì cả (Eph 2:12-18). Xem Es 14:13,14; Ro 3:19; Giu 1:6; Eph 2:16-18.III. ĐẶC TÁNH CỦA LUẬT ĐẠO ĐỨCVả, luật đạo đức biểu dương bản tánh của Đức Chúa Trời, bày ra tấm lòng và ý chí đời đời của Ngài. Lẽ thật ấy dạy cho ta hiểu đặc tánh của luật ấy cách rõ hơn, như sau đây:1. Còn đời đời: Luật đạo đức nguyên bày tỏ ra bản tánh của Đức Chúa Trời. Bản tánh ấy đời đời chẳng hề thay đổi. Gia cơ chứng rằng: “Trong Ngài (Đức Chúa Trời) chẳng có sự biến cải, cũng chẳng có bóng dời đổi” (Gia 1:17). Thành thử, luật đạo đức cũng đời đời, chẳng có điều cực nhỏ nào bị dời đổi đâu bao giờ. Chúa Jesus thường phán rằng: “Mãi đến khi trời đất qua đi, một chấm một nét trong luật pháp hẳn không qua đi cho đến khi mọi sự xảy ra rồi” (Ma 5:18). Tuy các điều răn và lễ nghi thuộc về chánh giới của dân Ysơraên xưa phải bị thay đổi như vần mây, thì lẽ thật thuộc linh tiềm tàng trong đó không hề thay đổi hoặc bỏ đi bao giờ, nó vẫn cứ còn bao hàm trong luật pháp của Christ đến đời đời cũng không hề mất. Dầu trải đời loài người hay trái phạm điều ấy, thì nó vẫn còn vững bền như bản tánh của chính Đức Chúa Trời vậy.2. Cùng khắp cả: Đức Chúa Trời lập luật đạo đức chẳng những vì chỉ một khu vực, một dòng dõi, một thời kỳ riêng, bèn là vì cả muôn dân muôn nước trải suốt các thời đại quá khứ và tương lai. Bởi vì không có sanh vật nào có tánh đạo đức bất cứ ở đâu mà có thể thoát khỏi cái khuôn mẫu luật pháp Đức Chúa Trời bao giờ. Hễ tánh hạnh mình không hiệp với cái khuôn mẫu ấy, ắt phải bị hư hoại khổ sở đó thôi.3. Gồm cả hai mặt tiêu cực và tích cực: Luật đạo đức không những là nghiêm cấm loài người những việc không nên làm, nhưng cũng dạy họ những việc nên làm. Nói cho đúng thì đại ý của luật pháp chẳng phải chú trọng về mặt tiêu cực mà chỉ răn cấm, bèn chú trọng về mặt tích cực mà bảo người ta hãy vâng giữ theo ý chí của Đức Chúa Trời tỏ ra trong đó; bởi vì mục đích lớn của luật đạo đức là dạy cho loài người phải nên giống như Đức Chúa Trời trong mọi tánh hạnh (Gia 4:17;Gi 4:24).4. Không độc đoán: Luật đạo đức chẳng độc đoán, vì không có mục đích bó buộc loài người hoặc phá hủy sự tự do của họ đâu; bèn có mục đích bày tỏ sự can thiệp của Đấng Tạo hóa cùng loài thọ tạo, để mở rộng cảm tưởng loài người ra, khiến cho họ lần tấn hóa, đạt đến bực trọn vẹn như Đức Chúa Trời vậy. (Ma 5:48; Ma 22:37-40)5. Thực tại ở ngoài sự cảm xúc loài người: Luật đạo đức thực tại và hành quyền trên mọi người, dầu họ cảm xúc sự ấy hay không. Giả như các công lệ của thân thể ta, tuy ta không nhìn nhận, cũng chẳng cảm xúc các công lệ ấy, thì nó vẫn còn vận hành trong thân thể ta luôn luôn. Luật đạo đức cũng vậy. Người ta không thể bãi bỏ luật thiên nhiên cai trị thân thể họ mặc dầu họ quyết rằng không có luật ấy;cũng không thể bãi bỏ luật đạo đức đâu, mặc dầu họ quyết rằng không có. Dẫu có lắm người muốn chối bỏ sự thống trị của Đức Chúa Trời thì cũng không vì cớ ấy mà họ có thế xóa bỏ được sự thống trị đó đâu, bởi vì dầu nhận hay không, thì Ngài cũng vẫn cứ làm mọi sự theo ý muốn của Ngài (Thi 2:1-4).6. Can thiệp đến cả phẩm vị của cá nhân: Luật đạo đức không những là can thiệp đến một phần của cá nhân, bèn can thiệp đến cả người, tức can thiệp đến cả phần thân, hồn và linh vậy. Đức Chúa Trời không những đòi sự thánh khiết trong phần tâm linh và tâm hồn, lại đòi sự thánh khiết trong thân thể nữa; cũng đòi sự trong sạch trong tư tưởng và hành vi do đó mà ra. Luật đạo đức vốn từ bản tánh Đức Chúa Trời mà ra, nên đòi bản tánh của loài người phải giống như bản tánh của Ngài. Hễ ai kém sự thánh khiết trọn vẹn trong lòng và trong xác đều trái nghịch luật ấy.7. Hằng hành quyền trên ta: Luật đạo đức hành quyền trên ta luôn, hoặc trong lúc quá khứ, hiện tại hay tương lai cũng vậy. Luật ấy nghiêm cấm mọi thứ tội nhỏ hay lớn, lên án cho tội cố phạm và ngộ phạm, đòi người phải có mọi đức tánh, phải trọn vẹn như chính Đức Chúa Trời vậy. Kinh Thánh chép: xem Thi 119:96; Ro 3:23; Gia 4:17Có thể bãi bỏ các luật thiên nhiên,nhưng không thể bãi bỏ luật đạo đức, vì chẳng khác gì bãi bỏ chính bản tánh của Đức Chúa Trời vậy.8. Thuộc linh: Luật đạo đức và luật thuộc linh, không những đòi những lời nói việc làm của loài người phải đúng đắn, nhưng cũng đòi chính lòng cũng có thái độ và cớ tích xứng hiệp với ý chỉ Đức Chúa Trời nữa. Hễ muốn đẹp lòng Đức Chúa Trời không những cần phải có sự vâng lời trọn vẹn, tình yêu thương trọn vẹn đối với Đức Chúa Trời và loài người thôi đâu, lại rất cần yếu cho cả bản tánh mình bề trong và bề ngoài đều được thánh khiết giống như Đức Chúa Trời vậy. Chúa Jesus dạy rằng hễ ai giận anh em mình thì phạm tội sát nhơn rồi; còn ai ngó đàn bà mà động tình thì mắc tội tà dâm (Ma 5:22, Ma 5:28). Lại dạy rằng: “Ngươi hãy hết lòng, hết linh hồn, hết trí ngộ, hết sức mà yêu mến Chúa là Đức Chúa Trời ngươi… hãy yêu kẻ lân cận như mình” (Mac 12:30,31). Còn Phao-lô khuyên ta phải “bắt hết tâm tư dẫn về hàng phục Christ” (IICo 10:5); và “hãy nên kẻ bắt chước Đức Chúa Trời như con cái rất yêu dấu” (Eph 5:1). Nói một lời, “Các ngươi phải thánh khiết,vì ta là thánh khiết” (IPhi 1:16), ấy điều mà luật Đức Chúa Trời đòi nơi ta vậy.9. Cái gương soi mặt thuộc linh của loài người: Đức Chúa Trời vốn ban bố luật đạo đức cho người thứ nhứt là A-đam, hầu cho nhờ sự vâng giữ theo đó mà người được cứu. Nhưng khi sa ngã phạm tội thứ nhứt, thì loài người thất vọng mà nhờ sự vâng giữ luật ấy để được đẹp lòng Đức Chúa Trời. Từ đó về sau luật đạo đức chỉ là một cái gương soi mặt thuộc linh của loài người, bày tỏ cho họ biết chân tánh của tội, sự hư hoại của lòng, và sự thất vọng của kẻ nào ướm thử nhờ luật ấy để được cứu. Lại luật đạo đức cũng nhơn vì những điều ấy mà dọn đường cho tội nhơn tìm kiếm và công nhận ơn cứu rỗi ở nơi Jesus Christ vậy. Khi vua Giô-si-a nghe các lời luật pháp, thì cảm xúc tội quá mà xé áo mình (IISu 34:19). Khi Gióp đã gặp Đức Chúa Trời đối mặt cùng Ngài, thì kêu rằng, “Trước lỗ tai tôi nghe đồn về Chúa, nhưng bây giờ mắt tôi đã thấy Ngài. Vì vậy, tôi lấy làm gớm ghê tôi, và ăn năn trong tro bụi” (Giop 42:5,6). Ê-sai vừa thấy Chúa, nghe tiếng Sêraphin kêu, “Thánh thay, thánh thay, thánh thay là Giê-hô-va vạn quân!” thì liền kêu la rằng, “Khốn nạn cho tôi! Xong đời tôi rồi! Vì tôi là người có môi dơ dáy…” (Es 6:3,5). Còn thánh Phao-lô quyết rằng, “Chẳng có xác thịt nào nhờ việc làm theo luật pháp mà sẽ được xưng công nghĩa trước mặt Ngài; vì luật pháp cho người ta biết tội.” (Ro 3:20; cũng xem Ro 5:20;7:7,8; Ga 3:24). Ấy vậy, luật pháp chỉ khiến cho người ta biết tội mình, chớ chẳng có thể cứu ai khỏi tội ấy bao giờ. Việc ấy chỉ nhờ ân điển Đức Chúa Trời bày ra trong Jesus Christ mà làm nên đó thôi.IV. SÁNH LUẬT PHÁP VỚI ÂN ĐIỂN1. Luật đạo đức không tỏ ra hết tánh ý của Đấng lập pháp: Luật pháp thực bày ra ý chí và tánh chất của kẻ lập pháp. Nhưng mà chưa chắc luật đạo đức bày tỏ ra mọi sở năng, phẩm cách của bản tánh và ý chí của Đức Chúa Trời cách trọn vẹn đâu. Gẫm xét thì thấy luật ấy quả bày ra sự thánh khiết, công nghĩa và quyền năng của Ngài rõ lắm. Nhưng về sự nhơn từ, hiền lành và yêu thương của Ngài,thì luật ấy chẳng nói gì đến.2. Đấng lập pháp có quyền tùy cơ ứng biến: Luật pháp vẫn là một lệ định nhứt thành bất biến. Tuy vậy, nhà chấp chánh có quyền tự do tùy cơ ứng biến,không bị luật pháp bó buộc mà phải cứ thi hành theo một mực luôn đâu, bèn là có thể nhơn thời do việc mà thi hành; nếu muốn khép án cho tội nhơn thì được; mà nếu muốn ân xá thì cũng có quyền làm. Đức Chúa Trời cũng vậy. Ngài không phải là không có chỗ dư địa biến thông đâu. Nếu Ngài muốn dùng cách khác hơn luật pháp mà đối đãi loài người, bày tỏ ra cho họ biết thêm bản tánh và ý chí Ngài, thì cũng được cả, chẳng gì ngăn trở hết. Luật đạo đức không tỏ ra tình yêu thương,sự ân điển và lòng nhơn từ của Đức Chúa Trời được; phải nhờ công cuộc cứu chuộc của Christ mà bày ra những tâm đức hạnh phước ấy. Giả như cuộc tạo hóa không trừ khữ phép lạ dấu kỳ; cũng vậy, luật pháp chẳng trừ khữ ân điển. Kinh Thánh dạy rằng:xem Ro 8:3; Gi 1:173. Ân điển chẳng trừ bỏ luật pháp: Ta chẳng nên lầm tưởng rằng ân điển trừ khữ luật pháp. Trái lại ân điển tái quyết và làm hoàn toàn luật pháp. Ân điển mở đường cho Đức Chúa Trời có thể tha tội cho loài người, và giúp đỡ họ vâng phục Đức Chúa Trời. Dường ấy, ân điển thật khiến cho người làm trọn luật pháp vậy. Nói cho đúng, ân điển cũng có luật lệ nhứt định, gọi là “luật pháp của Thánh Linh”“luật pháp của đức tin”, luật đạo đức có quyền buông tha khỏi luật pháp của tội và sự chết, ban cho loài người trở lại làm con cái của Đức Chúa Trời. Kinh Thánh dạy rằng: xem Ro 3:21; Ro 8:2-44. Ân điển cao hơn luật pháp: Ân điển rất cao hơn luật pháp, vì bày tỏ ra bản tánh của Đức Chúa Trời trọn vẹn. Có ông luận về đề mục nầy mà rằng: “Luật pháp đòi hỏi mọi sự; ân điển ban cho mọi sự. Luật pháp định tội cho; ân điển tha tội cho. Luật pháp rủa sả tội nhơn; ân điển cứu chuộc tội nhơn. Luật pháp khiến cho người bị chết; ân điển làm cho người được sống. Luật pháp bịt miệng mọi người lại ở trước mặt Đức Chúa Trời; ân điển mở miệng mọi người ngợi khen Ngài.Luật pháp khiến cho tội nhơn phải tránh xa Đức Chúa Trời; ân điển đưa tội nhơn đến gần Ngài. Luật pháp giáng sự giận dữ trên thù nghịch; ân điển tỏ tình yêu thương cùng họ. Luật pháp cậy việc làm hầu được sống; ân điển cậy đức tin mà được sự sống. Luật pháp tỏ ra người công nghĩa có tội; ân điển kể người tội là công nghĩa. Luật pháp đòi cá nhân phải tự nên công nghĩa; ân điển ban Jesus Christ vì cá nhân mà nên công nghĩa. Luật pháp thì con chiên làm hy sinh cho kẻ chăn;ân điển thì kẻ chăn vì chiên mà hy sinh mình. Luật pháp đòi phải có việc làm mới ban phước; ân điển ban mọi phước nhưng không.” Nói tóm lại, hễ nhờ công việc của luật pháp, thì không ai đạt đến địa vị trọn vẹn mà được sự sống đời đời bao giờ;chỉ nhờ công lao của Christ mới được vượt khỏi sự chết mà đến sự sống vậy.CHƯƠNG 2: LUẬN VỀ CĂN NGUYÊN CỦA TỘICĂN NGUYÊN của tội thật một vấn đề rất mờ tối và khó giải quyết cho rõ ràng. Kinh Thánh nói đến sự ấy cách mờ mờ, ám chỉ rằng những điều xảy ra trong thời gọi là tiền thời gian, thì Đức Chúa Trời chẳng vui lòng khải thị cho chúng ta biết. Dầu vậy, Kinh Thánh có một vài đoạn sách ám chỉ về căn nguyên của tội, tuy chỉ tỏ sơ qua thế nào nó nhập vào lòng của Sa-tan; nhưng cũng nói minh bạch về cách nào nó nhập vào dòng giống loài người.I. TỘI LỖI NHẬP VÀO CÕI THIÊN SỨ1. Sự sa ngã của Lucifer: Trong tiên tri Ê-sai có kỷ thuật truyện tích về sự sa ngã của Lucifer (Sao mai), con của sự Sáng sớm, vua Ba-by-lôn (Es 14:4, Es 14:13-17). Suy nghĩ về sự ấy, dễ thấy vị ấy không thuộc về dòng giống loài người, bèn thuộc về cõi siêu nhiên, có vua Ba-by-lôn làm hình bóng cho. Sự tích ấy chắc tả vẽ sự phản loạn và sa ngã của Sa-tan. Khi nó “vẫn bụng bảo dạ rằng: Ta sẽ lên trời, sẽ nhắc ngôi ta lên trên các ngôi sao Đức Chúa Trời. Ta sẽ ngồi trên núi hội về cuối cùng phương bắc. Ta sẽ lên cao những đám mây, làm ra mình bằng Đấng Rất cao,”thì tội lỗi mới sanh ra trong lòng nó. Từ giờ ấy trở đi tội lỗi đã vào vũ trụ,và Sa-tan khởi sự gây cuộc phản loạn cùng Đức Chúa Trời. Tiên tri Ê-sai cũng dự cáo về cuối cùng nó, dạy rằng nó phải thua, bị bỏ xuống âm phủ, sa vào nơi vực sâu (cũng xem Kh 20:10).2. Hột giống của tội: Trong tiên tri Exe 28: có chép bài ca thương về vua Tyrơ. Exe 28:1-10 chắc nói về vua Ty-rơ. Nhưng Exe 28:11-19 hẳn là ý vượt khỏi sự từng trải của vua ấy mà nói đến một vị khác không thuộc về cõi trần gian, gọi là chêrubin che phủ (Exe 28:14). Vị ấy chắc là Sa-tan. Tiên tri nhờ thần cảm tả ra trạng thái nguyên thủy của nó, chức phận, sự phản loạn, sự sa ngã, và sự đoán phạt nó. Cũng ám chỉ rằng cái hột giống của nguyên lý tội ác trong lòng Sa-tan là sự kiêu ngạo. Exe 28:17 chép, “Lòng ngươi đã kiêu ngạo vì sự đẹp ngươi, và sự vinh hiển của ngươi làm cho ngươi làm hư khôn ngoan mình.”Theo hai đoạn vừa dẫn trên, ta có thể đoán rằng, trạng thái của Sa-tan rất vinh quang, sự khôn ngoan nó rất cao kỳ,quyền thế nó hẳn tối thượng, bởi cớ đó mà nó sanh lòng kiêu ngạo, muốn chiếm vị Đức Chúa Trời, thay Ngài làm Đức Chúa Trời vậy. Nhưng nó bị đổ xuống, trở nên ma quỉ rất đê hèn; còn từ ấy nhẫn nay nó hằng tranh chiến cùng Đức Chúa Trời, cốt ý để phá hủy Ngài và công việc của Ngài. Cảm tạ Đức Chúa Trời, nó bị án rồi!Christ, Con Đức Chúa Trời, thắng hơn nó, đương đợi ngày mà Ngài sẽ bắt nó, ném nó vào hồ lửa diêm sanh, giam cầm nó tại đó cho đến đời đời vô cùng (Kh 20:10).II. TỘI LỖI NHẬP VÀO DÒNG GIỐNG LOÀI NGƯỜITuy căn nguyên của tội lỗi rất mờ tối,thì việc tội lỗi xen vào dòng giống loài người rất rõ ràng, được kỷ thuật trong Sáng 3. Phần nhiều trước giả của Kinh Thánh cũng đều nói đến, đồng thinh chứng rằng tội lỗi trong loài người do Sa-tan cám dỗ tổ tiên ta, trái mạng Đức Chúa Trời, mà ăn trái cây cấm trong vườn Ê-đen. Tóm tắt lại cả sự dạy dỗ của Kinh Thánh về vấn đề nầy, thì có thể đoán rằng do hai điều mà tội lỗi nhập vào loài người.1. Do sự dỗ dành của Sa-tan: Kinh Thánh thuật lại rằng Sa-tan dùng con rắn dỗ dành tổ tiên ta trái mạng Đức Chúa Trời mà phạm tội. Xem Sa 3:1; Kh 12:9; ITi 2:14.2. Do nguyên tổ không vâng lời: Kinh Thánh cũng dạy rằng tội lỗi vào dòng giống loài người là tại vì nguyên tổ ta không vâng lời Đức Chúa Trời, bèn nghe Sa-tan phao vu Ngài, trái mạng mà ăn trái cấm, rồi bị tội (Sa 3:1-8). Tội ấy nguyên tổ di truyền lại cho các hậu tự người, khiến cho họ cũng có bản tánh khuynh hướng về tội ác như tổ phụ vậy. Phao-lô chép: xem Ro 5:19 (Cũng xem Ro 5:12, Ro 5:18; Thi 51:5; Thi 59:3).CHƯƠNG 3: LUẬN VỀ TỘI LỖI THỰC TẠITỘI LỖI trong thế gian chẳng phải một sự ảo tượng như nhiều kẻ quả quyết đâu, bèn là một thực sự minh bạch như chánh ngọ,rất đáng kinh khiếp. Có nhiều bằng cớ chứng thực cho sự thực tại của tội lỗi.Sau đây xin kể lại bốn điều:I. CÕI THIÊN NHIÊN LÀM CHỨNGCõi thiên nhiên chứng thực cho sự thực tại của tội trong thế gian. Xem xét muôn vật thì thấy vật nào cũng có tương đối,tốt và xấu, lành và dữ, phước và họa; cái nầy hằng phản đối với cái kia, phá hủy trật tự, khiến cho sự hiệp hòa nguyên bản mất hẳn. Loài người vốn sanh vật tối cao bị phục dưới quyền sự chết thiên nhiên và thuộc linh, linh tánh mất đạo đức nguyên bản, tâm trí mê mẫn trong sự hôn muội, và các lương năng tốt nhứt đã bị tư dục hãm lấy.Tình hình của cõi thiên nhiên cũng bày tỏ sự thực tại của tội lỗi, đến đỗi âm thanh của muôn vật đều ngấm ngầm chứng thực cho sự tai họa ấy; kìa ngọn gió thổi vi veo, lá cây khua xào xạc, giọng chim kêu chiu chít, tiếng nước chảy róc rách, v…v., thảy đều là giọng buồn tiếng thảm, đồng thinh chứng rằng quả địa cầu nầy đã bị đắm chìm trong bể buồn thảm khóc lóc do tội lỗi mà ra vậy.II. LOÀI NGƯỜI LÀM CHỨNGChính loài người hoặc trực tiếp hoặc gián tiếp đều chứng thực cho sự thực tại của tội lỗi. Các bộ luật pháp chỉ ban bố để trách phạt tội, những công đường, lao xá và pháp trường, thảy đều chứng thực rằng tội lỗi quả thực tại. Kê cứu vô luận là đạo giáo nào, triết lý chi,tác phẩm gì, thì thấy hết cả đều minh giải rằng thế gian có tội.Trong lòng người cũng nhìn nhận mình có tội, cảm biết ở nơi mình chẳng có quyền gì tự cứu khỏi ách nô lệ của bản tánh gian ác. Nhà triết học Sénèque (2-66 S.C) quả quyết rằng, “Chúng ta hết thảy đều phạm tội, người nầy nhiều, kẻ kia ít.” Thi nhơn Ovid (43 T.C. – 16 S.C.) quyết rằng, “Chúng ta hết thảy đều ham muốn điều đã nghiêm cấm rồi.” Ông Goethe, một thi nhơn và nhà triết học trứ danh nhận rằng, “Tôi không thấy tội lỗi nào trong kẻ khác mà chính mình tôi không thể phạm được.” Ông Khổng tử chứng, “Chí ư thiện nhân, ngô vị chi kiến giả dã.” Lương tâm của mọi người đều đồng thinh với mấy ông trên đây và với cả đồng loại mà nhìn nhận tội lỗi quả thực tại, tự cáo mình “đã phạm tội, không đạt đến sự vinh hiển của Đức Chúa Trời” (Ro 3:23).III. LỜI ĐỨC CHÚA TRỜI LÀM CHỨNGĐức Chúa Trời dùng luật pháp và lời của Ngài mà chứng thực loài người có tội lỗi. Ro 3:20 có câu: “Luật pháp cho người ta biết tội.” Chữ “biết” đây nghĩa đen là “từng trải”. Loài người không những là biết về tội lỗi bằng tâm trí, bèn là đã từng trải tội lỗi rồi. Vả, Kinh Thánh dạy về sự thực tại của tội lỗi mà rằng:1. Tội can thiệp đến tấm lòng (linh tánh).Thường khi Kinh Thánh luận về tội lỗi thì minh giải tội vốn nằm từ ở cõi lòng,tức nơi linh tánh. Trong Thi 51:5 vua Đa-vít chứng rằng, “Kìa, tôi sanh ra trong sự gian ác, mẹ tôi đã hoài thai tôi trong tội lỗi;” rồi sau lại có câu rằng,“Đức Chúa Trời ôi! Xin hãy dựng nên trong tôi một lòng trong sạch, và làm cho mới lại trong tôi một thần linh ngay thẳng” (Thi 51:10). Phao-lô cũng nói về tội trong mình mà rằng: “Cho nên điều lành tôi muốn, thì tôi không làm, còn điều ác tôi không muốn, thì tôi lại làm. Song nếu tôi làm điều tôi không muốn, thì chẳng phải là tôi làm điều đó nữa, bèn là tội lỗi ở trong tôi” (Ro 7:19,20). Tiên tri Giêrêmi dạy rằng: “Lòng người ta là dối trá hơn mọi vật, và rất là xấu xa, ai có thể biết được?” (Gie 17:9). Còn do “lòng dữ và chẳng tin” thì sanh ra sự phản loạn cùng Đức Chúa Trời, kết cuộc lìa bỏ Đức Chúa Trời hằng sống (He 3:12).2. Lòng vốn cội rễ của tội trong người: Kinh Thánh không những nói ác tưởng trong lòng loài người là tội, mà lại nói rõ tội lỗi của loài người đều phát nguyên từ đáy lòng họ. Chúa Jesus đã phán: “Người lành do nơi chứa điều thiện mà phát ra điều thiện; nhưng kẻ dữ do nơi đã chứa điều ác mà phát ra điều ác” (Ma 12:35). Phao-lô cũng dạy: “Nhưng tội lỗi đã nhơn dịp bởi điều răn mà gây nên đủ thứ tham dục trong tôi” (Ro 7:8). Gia-cơ luận:“Nhưng mỗi người bị cám dỗ là bị tư dục mình lôi kéo dụ dỗ. Đoạn, tư dục đã hoài thai, thì sanh ra tội lỗi” (Gia 1:14,15).IV. SỰ CÔNG KIẾN CỦA MỌI NGƯỜI LÀM CHỨNG1. Lương tâm làm chứng: Hễ xem xét bề trong thì thấy mỗi người có một bản năng gọi là lương tâm. Nếu lưu ý đến bản năng ấy, dễ nghe tiếng nó hằng ngày quyết chứng rằng: “Ngươi có tội.”Chưa có ai đến tuổi lớn khôn mà không nghe tiếng lương tâm cáo trách, kiện mình quả mắc tội với Đấng Tạo hóa và với đồng loại mình. Mỗi khi mình trái luật đạo đức, thì nghe lương tâm cáo kiện rằng mình đã làm quấy, kỳ thực, lương tâm đối với kẻ phạm tội chẳng khác gì tên lính kia đuổi theo tầm nã thủ phạm đương trốn tránh, không dứt cắn rứt quở trách kẻ phạm tội. Phao-lô chép: xem Ro 2:15Nghĩa là mình làm quấy thì luật đạo đức vốn ghi trong lòng mình cáo trách, còn khi mình làm phải thì nó khen lao.2. Tục ngữ làm chứng: Ta nghe vô luận dân tộc nào cũng thường dùng những tục ngữ, thành ngữ làm chứng tội lỗi, như nói, “Tâm thuật bất chánh”, “Tâm tánh hiểm độc”, “Giữ lòng quỉ quyệt”,“Đầy lòng ghen ghét”, “Lòng người nham hiểm”, v…v. Xem những câu ấy, cũng ngầm nhận được ở trong tâm tánh vốn có tội lỗi.3. Sự tài phán của chánh phủ làm chứng: Xem khắp đâu đâu cũng thấy vô luận dân nào nước nào thảy đều có luật pháp, công đường, lao xá, pháp trường, quan tòa, thầy kiện, v…v. Thử hỏi tại sao có những điều ấy? Há chẳng phải vì dân nào cũng đều có tội sao? Bởi chưng nếu có tội mới cần có cách thẩm phán, cần phân đẳng cấp tội, để cho biết hoặc là tội cố phạm,ngộ phạm; vì biết vậy, mới có thể luận tội gia hình hoặc nặng hay nhẹ theo mực công bình vậy. Thế thì, mỗi khi ta thấy người bị bắt điệu đến tòa án, xử đoán,rồi giam vào ngục, hoặc bị xử tử tại pháp trường, thì biết rằng đó là bằng cớ chứng thực loài người quả có tội.4. Sự từng trải của loài người làm chứng: Hễ ta kê cứu các đạo giáo, các thống hệ triết lý, đọc qua các tác phẩm của các văn hào thi bá, bất luận thuộc về dân nào nước nào, thì chắc nghe tiếng loài người,hoặc gián tiếp hay trực tiếp, chứng minh rằng: “Tôi có phạm tội.” Xin do Kinh Thánh mà trưng dẫn lời chứng thực của những người đã nhận rằng: “Tôi phạm tội.”Khi Pha-ra-ôn, vua bội nghịch cố chấp kia,thấy sự kết quả đáng kinh khiếp do sự bội nghịch của mình, thì thú thật rằng:“Trẫm đã phạm tội.” (Xu 9:27; Xu 10:16). Khi thiên sứ cảnh cáo Ba-la-am, người đa mưu kia, về con đường hư mất của người, thì người nhận rằng: “Tôi có phạm tội.”(Dan 22:34). A-can người tham lam, cũng nhận rằng: “Tôi đã phạm tội.” (Gios 7:20). Vua Đa-vít thấy sự hư hoại của lòng mình, thật tình ăn năn mà thú nhận rằng:“Ta đã phạm tội” (IISa 12:13). Nê-hê-mi, đầy tớ khiêm nhường của Đức Chúa Trời,hiệp dân sự với mình mà công nhận rằng: “Chúng tôi đã phạm tội” (Ne 1:6). Ông Gióp cũng nhận sự gian ác của mình mà rằng: “Tôi có phạm tội” (Giop 7:20,21).Tiên tri Michê suy gẫm về sự công bình của Đức Chúa Trời, thì tự định tội mà nhận rằng: “Tôi có phạm tội” (Mi 7:9). Giu-đa, đứa bán Chúa, ném bạc dưới chơn bọn thầy tế lễ mà thú nhận rằng: “Tôi đã phạm tội” (Ma 27:4). Con hoang đàng sau khi đã tiêu sạch gia tài mình, thì trở về cùng cha mà thú nhận rằng: “Con đã phạm tội… với cha.” (Lu 15:21). Phàm kẻ nào thật tình thú tội mình chắc được Đức Chúa Trời giải cứu, tha thứ cho, ban cho sự sống đời đời chẳng sai (Giop 33:27-30).5. Sự từng trải của tín đồ làm chứng:Xưa nay những người rất trong sạch trong vòng dân Đức Chúa Trời, thường đau đớn tội lỗi trong lòng hơn hết. Bởi vì hễ ai càng gần Đức Chúa Trời thánh sạch chừng nào, lại càng rõ tình hình thực tại của mình là bất khiết chừng nấy, và càng biết rằng Đức Chúa Trời chẳng xét đoán theo điều Ngài thấy bề ngoài, bèn là xem chí hướng trong lòng người ta. Điều mà gọi là ác, người ác dẫu ngó kỹ cũng không thấy được; song người lành thì thấy cách dễ dàng, vì Thánh Linh khiến cho người có ơn cảm xúc tội ác. Ví như một vũng nước trong trẻo kia, nếu quậy ra, thì bùn sình nổi lên, mà trong kia hóa đục. Cũng vậy, người ở ngoài Chúa tưởng mọi sự đều bình an, không cảm xúc tội lỗi gì cả. Nhưng một khi đã nhờ ơn cứu rỗi, thì liền cảm biết mình có tội, bị hư hoại mọi bề. Trước khi vua Đavít chưa chịu lời trách móc của tiên tri Nathan, thì vẫn dương dương tự đắc. Một khi bị tiên tri quở trách rồi, thì cảm biết tội lỗi liền, thao thức trằn trọc, ngủ không yên giấc,bực tức, buồn rầu và cảm động không xiết (Thi 51). Đến khi đã thú thật và ăn năn mới được yên tâm.Một lần kia tiên tri Ê-sai được thấy sự vinh quang của Đức Chúa Trời, được nghe về sự thánh khiết tuyệt đối của Ngài, liền cảm biết sự ô uế của mình, tự nhận mình không sạch, cũng như kẻ phung kia nhận mình là không sạch vậy (Es 6:3-5; Le 13:45).Kìa, từ xưa đến nay những bậc trứ danh trong Hội Thánh như Phao-lô, Luther, Spurgeon, v…v., đều cảm xúc tội lỗi mạnh lắm,hay tự xét mình, giam mình, khóc than, buồn bã không xiết kể vì thấy trong lòng vẫn còn vết tích tội lỗi dính dấp. Thực, người nào giao thông với Chúa thân mật chừng nào, thì càng cảm biết tội lỗi là khó chịu chừng nấy. Tuy lời nói việc làm của người ấy dường như xứng hiệp ý chỉ Chúa, thì cái nguyên lý của tội lỗi có thể cứ nép ẩn trong tâm hồn rất sâu, duy quyền năng của Thánh Linh mới gỡ ra được thôi. Chỉ tín đồ không được nên thánh mới chưa chắc mình có mầm tội lỗi đương tiềm tàng trong tâm linh mình đó thôi. Khi tín đồ ấy nhờ lời của Đức Chúa Trời và quyền năng của Thánh Linh mà bày ra tội ẩn bí trong lòng, thì chắc sẽ đồng thinh với Phao-lô mà kêu lên rằng: “Ôi! Tôi là người khốn nạn dường nào! Ai sẽ giải cứu tôi khỏi thân thể của sự chết nầy? Tạ ơn Đức Chúa Trời, ta nhờ Jesus Christ, Chúa chúng ta, thì mới thoát ly được” (Ro 7:24,25).Chương 4: LUẬN VỀ CHÂN TÁNH CỦA TỘI LỖII. Ý KIẾN SAI LẦM VỀ CHÂN TÁNH CỦA TỘI LỖIĐỜI nào loài người cũng thường theo gương của nguyên tổ ta mà đổ thừa tội lỗi lẫn nhau, kẻ thì nói tại cớ nầy, người lại quyết do cớ kia, đến đỗi sự đổ thừa bên nầy bên nọ trở nên một thông bịnh không trừ được ở trong xã hội. Bởi thế, có kẻ từ thiện, có kẻ ẩn nặc, có kẻ tịch cốc, đều rán hết sức mình để chữa sửa, che đậy hoặc diệt trừ điều lầm lỗi, mà vẫn không biết càng chữa chối tội lỗi chừng nào, thì nó càng thêm nhiều chừng nấy, nó vẫn nép ẩn trong tâm linh, khiến cho người càng bị phục quyền nó mãi. Vả, tại cớ sao người ta hay đổ thừa lẫn nhau, hằng kiếm cách chữa chối tội như thế? Chắc tại vì họ lầm hiểu cái chân tánh của nó. Sau đây xin kể lại những ý kiến sai lầm về chân tánh của tội lỗi.1. TỘI LỖI GỐC BỞI XÁC THỊTCó nhà tôn giáo, nhứt là vận mạng phái, chủ trương rằng tội lỗi bởi xác thịt làm phiền lụy mà ra. Nên đương khi loài người ở trong xác thịt, thì không thế nào tránh xa sự phạm tội. Bởi chưng hễ còn làm người bao lâu, thì sẽ còn có tình dục bấy lâu. Lại tình dục giao tiếp với sự vật bên ngoài, bị rù quến làm thỏa sự ham muốn của nó. Lại phần xác thịt hằng tranh với phần thuộc linh, như sự dữ tranh với sự lành, nên hễ chi thuộc về phần xác thịt phát ra, thảy đều gọi là tội lỗi cả. Vậy, đương khi ở trong đời nầy thì loài người không thế tránh khỏi phạm tội; duy đến khi chết, mới thoát ly được; bởi vì khi đó người ta mới dứt bỏ xác thịt, không còn bị tình dục hành động ở trong mình mà xui dục phạm tội nữa. Ý kiến ấy rất sai lầm, xin tỏ ra như sau đây:a) Ý kiến ấy thiên về một mặt của tội thôi: Ý kiến ấy luận về tội lỗi không được đủ ý, bèn là chỉ nói đến một mặt của tội thôi, tức mặt thuộc về phần xác thịt rất đê tiện, mà bỏ qua phía tội thuộc về linh tánh rất cao. Nếu nói tội lỗi bởi xác thịt mà ra, thì thế nào cắt nghĩa về các thứ tội như ghen ghét, kiêu ngạo, giận hờn, tham lam, lòng chẳng tin, sự bội nghịch cùng Đức Chúa Trời, v…v. Rõ lắm các tội ấy do linh tánh mà ra cả; bởi vì dầu đến khi tuổi già tình dục xác thịt đã tiêu diệt, thì các tội ấy vẫn còn,chứng thực rằng nó châm sâu hơn xác thịt, mà ẩn tàng ở nơi tâm linh vậy.b) Ý kiến ấy cho Đức Chúa Trời là nguồn của tội: Nếu gọi tội lỗi là sự kết quả tất nhiên của xác thịt,thì cho Đức Chúa Trời là nguồn gián tiếp của tội lỗi; bởi xác thịt do Ngài dựng nên. Nói vậy thì thật là khi mạng thái quá. Đức Chúa Trời thật có dựng nên xác thịt loài người được trong sạch trọn vẹn, định nó phải phục tâm linh. Cho nên đổ thừa tội cho xác thịt rất sai lầm, bởi chủ động của sự phạm tội trong loài người là tâm linh hư hoại, mà Gia-cơ gọi nó bằng lòng tư dục vậy (Gia 1:13,14). Vả lại,nếu ý kiến ấy đúng, thì Christ cũng có tội, bởi vì Ngài hiện ra trong xác thịt của loài người.c) Ý kiến ấy phản đối với lẽ thường: Ý kiến ấy không thể nào đúng, bởi vì phản đối hẳn với ba lẽ thường, kể ra sau đây:(1) Nếu ý kiến ấy đúng, thì Sa-tan và các quỉ sứ của nó không có tội, vì chúng nó không có xác thịt.Nhưng nói Sa-tan không có tội há chẳng nghịch lẽ thường lắm sao? Thật vậy, mà cũng là trái lẽ thật nữa, vì Kinh Thánh dạy nó là nguyên lý của tội ác, gọi nó là đứa “dỗ dành cả thiên hạ” (Kh 12:9).(2) Quả như lời ấy, thì người già chừng nào,càng thanh khiết chừng nấy. Bởi vì người ta đến tuổi già, khí huyết suy nhược, xác thịt yếu mòn; hình như đã thoát khỏi tội rồi. Nhưng nếu xem xét sự từng trải của loài người, thì biết không phải như vậy đâu. Chúng ta thường thấy người nào tuổi tác càng cao bao nhiêu, thì các thứ tội như tham lam, giận hờn, lòng cứng cỏi cùng Đức Chúa Trời, v…v., càng sâu hơn bấy nhiêu. Dầu biết rằng ông già phạm những tội khác với trai trẻ, thì cả hai hạng tội cũng đều gọi là tội cả.(3) Ví bằng ý kiến ấy là đúng, thì mọi người nên đi tu đặng ngăn ngừa tình dục, nên rán sức khắc khổ đặng diệt trừ nó đi, mới mong trở nên vô tội. Trong các đời ám thế có lắm người nắm lấy chủ nghĩa ấy, tránh trốn khỏi thế gian, để nhờ sự ép xác đày thân mà phá hủy tội trong nó. Thế mà, tuy ép xác cho đến xanh xao gầy còm, thì tội vẫn còn mãi. Phật giáo cũng theo chủ nghĩa ấy để trừ tội; nhưng chẳng được may mắn gì, trái lại các tu sĩ ấy càng tội lỗi hơn người thường. Tại sao chủ nghĩa tu hành không chỉ đường cho ai trừ tội được? Há không phải vì cái tòa của tội lỗi trong loài người vẫn ở trong linh tánh ư? Cho nên, hễ ai lo cho có tâm linh thánh sạch, thì đã được diệu pháp trừ tội rồi, không cần phải tìm phương thuốc trừ tội ở nơi việc khắc khổ xác thịt làm chi nữa.d) Ý kiến ấy lầm giải Kinh Thánh: Ý kiến nầy lầm giải ý nghĩa hai chữ “xác thịt” theo như Kinh Thánh thường dùng.Giả như Phao-lô chép: xem Ro 7:18; Ga 5:16,17 (cũng hãy xem Ga 5:19, Ga 5:20,Ga 5:21; Ga 6:8).Danh từ “xác thịt” đây chẳng chỉ về thân thể đâu, bèn chỉ về cả bản ngã người thiên nhiên chưa chịu ảnh hưởng của ân điển Đấng Christ và sự cảm hóa của Thánh Linh mà được tái sanh. Kinh Thánh cũng minh giải tâm linh là tòa của tội lỗi trong người, chớ chẳng phải nằm ở trong cơ quan nào của thân thể vật chất đâu. Đức Chúa Trời cũng chẳng có thể cám dỗ ai, cũng không làm cho bản tánh của loài người phải cám dỗ người. Gia-cơ nói: xem Gia 1:13-15e) Ý kiến ấy chối tội thực tại: Ý kiến ấy không giải nghĩa tội đâu, duy chối tội là tội đó thôi. Bởi vì nếu sự có thể phạm tội vốn là một bản năng ở trong xác thịt bởi Đấng Tạo hóa ban cho, thì không thể gọi sự phạm tội là việc quấy nữa. Lý tánh có thể nhìn nhận sự làm theo bản năng ấy là sự rủi ro, nhưng lương tâm không thể nhận là quấy. Dường ấy,loài người không cần nhận tội nữa, vì mọi sự xưa nay họ gọi là tội đó, bất quá là sự thiếu thốn tại Trời đó thôi. Còn ý kiến ấy há chẳng gớm ghê lắm sao?2. TỘI LỖI LÀ SỰ YẾU ĐUỐICó kẻ luận rằng loài người tuy là sanh linh có tài trí cao, nhưng kỳ thực là có quyền năng hữu hạn, thiếu thốn nhiều điều,hay lầm lỗi, không sao lánh khỏi phạm tội cùng Đức Chúa Trời. Song các tội ấy không phải cố phạm đâu, bèn là bởi sự yếu đuối mà ra. Cũng chẳng nên coi tội ấy là điều ác gì, song đáng cầm bằng những tật bịnh tầm thường; còn kẻ bị tật bịnh ấy chẳng đáng phạt đâu, trái lại đáng thương tiếc mới phải. Sau đây, xin tỏ ra chỗ rất sai lầm của ý kiến ấy.a) Ý kiến nầy phản đối sự người ta thường thấy: Nếu ý kiến ấy là đúng, thì tự cổ chí kim những kẻ gian ác hung bạo trong đời đều là kẻ yếu đuối, vô tài bất lực cả. Nếu quả vậy, tại sao đứa cám dỗ loài người là chúa quỉ, vốn tội ác hơn hết? Nó há cũng là đứa yếu đuối hơn hết sao? Trái lại,nó có quyền năng lớn hơn hết, mãnh lực của nó chỉ Đức Chúa Trời mới thắng được thôi. Chính điều ấy chứng thực rằng tội lỗi chẳng do sự yếu đuối mà ra, bèn do vị thọ tạo tối cao mà có vậy.Hoặc xem lịch sử của đời thì thấy những kẻ đại ác cũng là kẻ đại năng, như vua Hêrốt rất hung bạo (Ma 2:16-18), vua Nêrôn, một vua độc ác cực điểm của Lamã đế quốc xưa. Hai vua ấy há có phải là hạng bạc nhược,không có tài năng tri thức sao? Trái lại, cả hai đều có năng lực tri thức cả,chẳng thua kém ai chút nào. Tuy vậy, họ vẫn đứng đầu hàng tội nhơn. Lại như vua Kiệt nhà Hạ,vua Trụ nhà Thương ở bên Tàu, là hai vua tội ác rõ rệt. Nếu xét kỹ đời họ thì rõ cả hai đều là người túc trí đa mưu, chớ chẳng phải là bọn vô tài bất lực. Ấy vậy, tại sao còn phạm tội?b) Tội không thuốc trị được: Nếu tội lỗi quả là một tật bịnh thường, thì cớ sao chưa ai tìm được phương thuốc để trừ trị nó? Theo như lời các nhà y học, thì phần nhiều tật bịnh nào cũng đều có thuốc trị cả. Duy bịnh tội chưa hề ai tìm ra vị thuốc hay để chữa lành được. Vẫn thấy người đời dùng những hình pháp như nào khổ sai, cấm cố, đày chung thân, đuổi biệt xứ, và đến trảm giảo nầy nọ; thì cốt ý cũng chẳng phải để chữa lành tội đâu, bèn là để ngăn ngừa tội lan ra đó thôi. Vì loài người chẳng có phương thuốc gì trị tội được, minh chứng rằng tội chẳng phải bịnh tầm thường đâu.c) Ví bằng tội là sự yếu đuối thì gia hình không công bình: Nếu tội là sự yếu đuối của xác thịt, thì thiết tưởng không công bình gì mà chiếu luật gia hình một tội phạm nào. Vì tật bịnh mình mắc đó là do cái thời đen mà mình phải chịu gian truân đó thôi. Cho nên nếu phạt một người bị gian truân như vậy, thể nào gọi là công bình? Dường ấy,khi có kẻ giết anh em mình, thì chớ nên giải nạp cho tòa án; thà yêu thương họ,chở họ đến nhà thương để điều trị thì hơn.d) Ý kiến ấy cũng đổ tội cho Đức Chúa Trời: Ý kiến ấy cũng như ý kiến trước, cho Đức Chúa Trời là gốc rễ của tội. Bởi vì nếu tội lỗi là sự yếu đuối tất nhiên của xác thịt, thì loài người không còn có trách nhiệm gì về sự đó nữa. Vì Đấng Tạo hóa đã dựng nên thân thể ta có các bản năng yếu đuối phải phạm tội, thì tự nhiên tại chính Ngài mà mình phạm tội đó.Đoán định vậy há chẳng vô lý mà phạm thượng nữa sao?3. TỘI LỖI LÀ VIỆC TÌNH CỜ VÔ ÝCũng có hạng dạy rằng người ta bị tội một cách tình cờ vô ý, đến đỗi tội lỗi bất quá như một việc lầm lỡ không thể nào tránh khỏi được. Ví như người kia đi đường tình cờ gặp chỗ rất trơn, bỗng trợt té gãy tay. Cũng vậy, loài người chẳng may tình cờ gặp chỗ khó, trợt chơn sa ngã phạm tội.Ý kiến ấy cũng rất sai, vì phản đối hẳn với Kinh Thánh. Sách ấy dạy rõ ràng loài người sa ngã phạm tội chẳng vì vô ý gặp rủi ro đâu, bèn vì cố ý trái mạng Đức Chúa Trời. Kinh Thánh dạy rằng: xem Ro 5:19; Sa 3:6Hai câu ấy chứng thực rằng tội lỗi chẳng phải việc tình cờ bất ý đâu, bèn là việc cố ý quyết định vậy.II. Ý KIẾN ĐÚNG ĐẮN VỀ CHÂN TÁNH CỦA TỘI LỖI1. Tội lỗi phát nguyên bởi tư tâm:Tội lỗi chẳng phát nguyên bởi thân thể đâu,duy mượn cơ quan ấy để làm đồ dùng bày tỏ nó ra đó thôi. Tuy người đời có sự yếu đuối đau đớn bởi tội lỗi mà ra, thì cũng chẳng có thể vì cớ ấy mà nói rằng tội lỗi do sự yếu đuối của xác thịt. Vậy thì nguồn của tội lỗi ở đâu? Duy ở tại cái tư tâm của loài người mà ra đó thôi. Tư tâm hay tìm cầu ích kỷ, tư lợi, thường lấy chữ ngã làm chuẩn đích tối cao của động tác mình, đến đỗi dám chiếm đoạt sự thuộc về Đức Chúa Trời để đồ mưu danh lợi riêng cho mình. Kỳ thực, tư tâm là mẹ đẻ ra cả thảy tội lỗi ở trong loài ngưỡi. Những điều luận chứng cho ý kiến ấy như sau đây:a) Tư kỉ là nguyên lý của tội lỗi:Chúng ta quả quyết rằng cái nguyên lý của tội lỗi ở trong loài người, không phải là xác thịt, bèn là tư kỷ. Kìa, những thứ tội lỗi của người đời, ai cũng lấy sự tự tư tự lợi mà giải nghĩa. Giả như kẻ đầy dẫy tư tâm tham dục, đối với sắc thì dâm đãng, đối với đồ ăn thì ham mê. Những kẻ buông lòng quấy tưởng, đối với tài vật thì tham lam, đối với quyền lợi thì mê mẫn. Những kẻ buông lung về sự kiêu ngạo, đối với mình thì vọng tư tôn đại, đối với người thì ghen ghét giận hờn, đối với Đức Chúa Trời thì khinh dễ không tin. Hễ ai chỉ tìm cầu ích lợi cho mình,không thèm nghĩ đến người khác, thì bị tình dục dấy lên, khiến cho mình không sợ Đức Chúa Trời, chẳng thương loài người. Tình dục buông lung muốn làm chi thì chẳng hỏi phép ai, miễn là thỏa thích ý riêng mình thì đủ. Những người mà đời gọi là hiền đức, thường rán hết sức làm lành, cốt để cho người ta khen mình, cẩn thận lời nói nết làm, để cầu danh dự cho mình. Trong các sự ấy cũng không thể trừ khử tư tâm được. Chúng ta cần nói gì nữa? Người mà người đời gọi là người hiền bực thánh phần nhiều yêu theo thánh thiện của mình hơn tìm cầu cho được hiệp theo thánh thiện của Đức Chúa Trời. Thực, thảy đều không thoát khỏi được khuôn rập tư tâm, kết quả các thứ tội lỗi rất đáng thương tiếc vậy thay!b) Sự thương yêu Đức Chúa Trời là nguyên lý của đạo đức: Kê cứu Kinh Thánh và dò xét cái lòng đạo đức,thì thấy yêu thương Đức Chúa Trời quả là nguyên lý của mọi đạo đức. Vậy, nếu sự yêu thương Đức Chúa Trời quả là nguyên lý đạo đức, thì tất nhiên sự lựa chọn tư kỷ làm chuẩn đích về đời mình là nguyên lý của tội lỗi. Vả, yêu thương Đức Chúa Trời chẳng ở tại sự lo binh vực các quyền lợi của Đức Chúa Trời, bèn là tại sự yêu mến cái yếu tố đầu nhứt của bản tánh Ngài, tức là sự thánh khiết của Ngài vậy.Cho nên nguyên lý của đạo đức là yêu mến sự thánh khiết của Đức Chúa Trời. Kẻ nào chọn tư kỷ làm chủ mình, thì lìa bỏ Đức Chúa Trời, sa vào tội lỗi, lấy sự tự ái làm động nhơn của mọi động tác. Duy người nào yêu mến Đức Chúa Trời thánh khiết từ chối tư kỷ, công nhận tình yêu thương ấy làm chủ động về sự thi thố của mình, và trở nên đạo đức thật. Kinh Thánh chứng thực cho ý kiến ấy, theo sáu phần như sau đây:(1) Sự yêu thương là yếu lãnh của luật pháp: Sự yêu thương làm trọn luật pháp, gồm lại mọi điều lành; trên thì yêu thương Đức Chúa Trời, dưới thì yêu thương loài người. Hễ ai làm vậy ắt chẳng sa vào tội lỗi.Kinh Thánh chép rằng: xem Ma 22:37,39; Ro 13:8; Ga 5:14(2) Đấng Christ hằng làm theo ý Cha: Yếu tố của sự thánh khiết của Christ là Ngài chẳng tìm ý muốn mình, bèn hằng tìm ý muốn Cha, tôn Đức Chúa Trời là mục đích tối hậu của mình. Ngài yêu thương Đức Chúa Trời trọn vẹn, chẳng vì lòng riêng mình mà ham hố gì cả, duy cầu sự vinh hiển cho Cha đó thôi. Cũng tại cớ ấy mà Ngài không có tội. Ngài phán: xem Gi 7:18; Còn Phao-lô chứng: xem Ro 15:3.(3) Tín đồ không vì mình mà sống: Nếu ai đã tín nhận Christ làm Cứu Chúa mình, thì không còn có thể vì chính mình mà sống nữa, bèn phải vì Chúa và kẻ khác mà sống mới xứng hiệp với bản tánh mới.Phao-lô quyết rằng: xem IICo 5:14,15; Ga 2:20(4) Lời hứa của quỉ cám dỗ là ích kỷ: Quỉ cám dỗ hứa ban cho tổ tông ta địa vị độc lập ích kỷ, đến nỗi không cần Đức Chúa Trời hay là ai nữa. Nó thốt rằng: “Hai ngươi… sẽ như Đức Chúa Trời, biết điều thiện và điều ác.” (Sa 3:5). Vậy nếu quả được như Đức Chúa Trời thì cần chi phải làm cho mình độc lập nữa? Còn muốn vậy, há chẳng là ích kỷ sao?(5) Con hoang đàng là ích kỷ: Tội trạng của con hoang đàng là ích kỷ. Nó bị gọi là hoang đàng vì nó cố quyết theo ý riêng mình, chẳng kể đến ý muốn của cha, hoặc cầu vinh dự cho cha, duy lo sao cho tư tâm được thỏa thích đó thôi (Lu 15:12,13). Hẳn con hoang đàng làm đại biểu của cả loài người theo tư tâm mà cố ý lìa bỏ Đức Chúa Trời vậy.(6) AntiChrist ích kỷ cực điểm:AntiChrist, “Người đại tội” biểu minh tánh chất của tội lỗi, vì “Là kẻ đối địch,tự nhắc mình lên trên mọi vị xưng là Thần, hoặc vật gì người ta thờ lạy, rất đỗi ngồi trong đền Đức Chúa Trời, tự xưng là Đức Chúa Trời” (IITe 2:4). Ấy là điểm cùng tột của sự tự tư tự lợi của loài người, cũng là hình dạng đành rành của tội lỗi vậy.III. KINH THÁNH MINH GIẢI CHÂN TÁNH CỦA TỘI LỖIKinh Thánh dùng nhiều câu nhiều ngữ để tỏ ra quan niệm của tội lỗi. Mỗi câu mỗi chữ ấy minh giải rõ ràng chân tánh của tội lỗi.1. CÁC CÂU TẢ CHÂN TÁNH CỦA TỘI.Trong Tân Cựu Ước có chép nhiều câu mô tả chân tánh của tội lỗi rất rõ. Sau đây xin chỉ kể lại bảy câu: xem Ch 24:9Danh từ “tư tưởng” đây ám chỉ về sự dụng tâm, đồ mưu để thi hành việc ngu dại ấy. Xem Ch 21:4“Mặt tự cao” chỉ về tư tâm đối với loài người;“lòng kiêu ngạo chỉ về tư tâm đối với Đức Chúa Trời; còn “ngọn đèn của kẻ ác”chỉ về mưu luận do tư tâm mà ra, cũng là tội lỗi. Vậy, kẻ tư kỷ hoặc hành vi đối với người ta, hoặc tấm lòng đối với Đức Chúa Trời, luôn cả mưu luận của người nữa,đều là tội lỗi hết. Xem Gi 16:8,9Sự không tin nhận Jesus Christ là Cứu Chúa duy nhứt của mình, phục tùng Ngài trọn vẹn, ấy là tội nặng hơn hết. Xem Ro 14:23Hễ ai làm việc gì không có căn cứ ở nơi sự tín ngưỡng Christ, thì đều là tội lỗi. Xem Gia 4:17Có tội cố phạm, ngộ phạm và hốt lược mà phạm.Kẻ biết làm điều thiện mà bỏ qua không làm, tuy không cố phạm tội ác, thì cũng đã phạm tội rồi. Xem IGi 3:4Mọi thứ tội là trái luật đạo đức hay là trái luật thương yêu cũng vậy. Xem IGi 5:17Mọi việc gì, tư tưởng gì không hiệp với thước mực của luật đạo đức tối cao của Đức Chúa Trời đều là sự bất nghĩa cả.2. CÁC CHỮ KINH THÁNH DÙNG ĐỂ BÀY RA QUAN NIỆM TỘI ĐỀU TỎ RA CHÂN TÁNH CỦA NÓ.Trong nguyên văn Kinh Thánh, Thánh Linh thường dùng nhiều chữ để tỏ ra cái quan niệm tội lỗi rất rõ rệt. Những chữ ấy đều khác nhau và ta ra chân tánh của tội lỗi rõ ràng lắm. Sau đây xin kể lại ý nghĩa của những chữ quan hệ hơn hết.a) Tội là trật chuẩn đích của Đức Chúa Trời: Đức Chúa Trời bày tỏ chuẩn đích của Ngài trong luật pháp thánh, và trong đời sống của Con Thánh Ngài. Nhờ hai gương ấy dễ thấy rõ chúng ta đã phạm tội, trật chuẩn đích của Ngài mọi bề. Trong Tân Cựu Ước có hai danh từ tỏ ra ý ấy.(1) Hamartia:Danh từ Tân Ước dùng nhiều hơn hết để thông tri quan niệm tội lỗi cho ta, là Hamartia, nghĩa đen là sai trật chuẩn đích. Các trước giả Tân Ước đều dùng chữ ấy chừng 174 lần; duy một mình thánh Phao-lô mà đã dùng đến 71 lần rồi. Trong bản Việt ngữ chữ ấy được dịch ra, “tội lỗi,” Ro 5:12; “phạm tội,” Ro 3:23; Cong 25:8; IPhi 2:20. Chữ nầy chỉ ra cả bản tánh lẫn địa vị của tội lỗi nữa. Giả như tên Giuda bán Chúa, trật chuẩn đích về sự yêu mến Ngài (Ma 27:4). Con hoang đàng trật chuẩn đích về ý muốn của cha, bởi vì cố quyết theo ý riêng mình mà bỏ nhà cha (Lu 15:18,21). Đờn bà xấu nết phạm tội tà dâm, trật chuẩn đích Đức Chúa Trời về sự trinh khiết (Gi 8:11). Các thiên sứ sa ngã phạm tội kiêu ngạo, trật chuẩn đích Đức Chúa Trời về sự tôn vinh Ngài (IIPhi 2:4). Y-sơ-ra-ên trật chuẩn đích Đức Chúa Trời về đức tin, nên không vào xứ Ca-na-an được (He 3:17). Kẻ cố ý phạm tội mà chối bỏ Christ, trật chuẩn đích về sự cứu rỗi của Đức Chúa Trời (He 10:26). Kẻ tà giáo trật chuẩn đích về lẽ thật của Đức Chúa Trời (Tit 3:10,11).(2) Chatta’ah:Danh từ Cựu Ước dùng nhiều hơn hết để bày ra quan niệm tội lỗi là chatta’ah, đồng nghĩa với chữ hamartia trong Tân Ước. Trong Cac 20:16 có dùng chữ ấy theo nghĩa đen: “Trong cả dân sự ấy có bảy trăm người tinh binh thuận tay tả. Hết thảy những người đó có tài dùng trành ném đá trúng một sợi tóc mà chẳng hề sai trật.” Chữ ấy với các chữ do cội nó mà ra gồm cả ý nghĩa tẽ tách, xây bỏ mục đích Đức Chúa Trời,đi quá hoặc không đạt đến mục đích ấy. Nó không những chỉ về sự phạm tội, nhưng cũng chỉ về địa vị hư hoại, bản tánh gian ác của tâm trí do tội mà ra (Sa 4:7; Xu 9:27; Le 5:1; Dan 6:11; Thi 51:2,4; Ch 8:36; Es 42:24; Os 4:7).b) Tội là vấp ngã trong chỗ Đức Chúa Trời buộc ta phải đứng vững: Một chữ khác Tân Ước thường dùng để dạy về chân tánh của tội lỗi là paraptoma, nghĩa đen là “trật chơn”, “vấp ngã”, trong chỗ mình đáng nên đứng vững. Trong bản Việt ngữ chữ nầy dịch ra “lỗi”, Ma 6:14;“vi phạm”, Ga 6:1; Ro 5:15, Ro 5:16, Ro 5:17, Ro 5:18, Ro 5:20; Eph 1:7; 2:1,5;“vấp”, Ro 11:11. Giả như người kia trợt chơn té vào hầm bị thiệt hại thế nào,thì tội nhơn mỗi khi trái ý Đức Chúa Trời thì vấp ngã, sa vào tội lỗi, bị thiệt hại cũng thể ấy.c) Tội là vặn cong điều ngay thẳng:Trong Cựu Ước cũng dùng chữ avah để tả ra chân tánh của tội lỗi; nghĩa đen chữ ấy à “cong quẹo”, hay là “vặn lại”. Nghĩa bóng là “tà vạy”, “bại hoại”, “gian tà”,chỉ vẽ ra thứ tội nào khiến cho bản tánh và tâm địa của loài người vốn ngay thẳng phải hóa ra gian tà (cong quẹo) bại hoại. Chữ ấy trong bản Việt ngữ được dịch ra “làm mất lòng”, Et 1:16; “gian tà”, IISa 19:19; “có tội”, IISa 24:17; “làm điều gian ác”, IISu 6:37; “phạm sự gian tà”, Thi 106:1. Chữ avah không tả ra chính việc phạm tội đó, duy tả ra cái đặc tánh của việc ấy là cong quẹo vạy vọ đó thôi. Tội nhơn đối với lời nói thì xiên xẹo, đối với lối đi thì quanh co, đối với việc làm thì gian tà, đối với sự thờ phượng thì bại hoại.d) Tội là đi quá hạn định trong luật pháp Đức Chúa Trời: Luật pháp Đức Chúa Trời định giới hạn cho việc làm và ý tưởng của chúng ta. Hễ ai đi quá hạn định ấy tức là phạm tội.(1) Avar: Trong Cựu Ước dùng chữ avar để tả ra việc phạm tội của kẻ đi quá mạng lịnh của Đức Chúa Trời.Ba-la-am nhìn nhận quyền mạng lịnh của Đức Chúa Trời mà nói cùng Ba-lác rằng:“Dầu Ba-lác sẽ cho ta nhà người đầy vàng và bạc, ta cũng chẳng được vượt quá mạng của Giê-hô-va Đức Chúa Trời của ta, đặng làm một việc nhỏ hay lớn” (Dan 22:18; Dan 24:13). Vua Sau-lơ chẳng nhìn nhận quyền ấy, nên khi trái mạng Đức Chúa Trời rồi thì nói: “Tôi đã can phạm (đi quá) mạng lịnh của Giê-hô-va và lời của ông” (ISa 15:24). Đức Chúa Trời thường trách Y-sơ-ra-ên vì họ hay trái phạm luật pháp và bội giao ước Ngài (Cũng xem Dan 41:41; Gios 7:11,15; Es 24:5; Da 9:11; Os 6:7;Os 8:1).(2) Parabaino:Trong Tân Ước dùng chữ parabaino để tả ra tội của kẻ phạm mạng lịnh Đức Chúa Trời.Nghĩa đen chữ ấy là “tẽ tách đường lối”, “bước qua bên kia”, “lìa bỏ điều đã định”.Người Pha-ri-si trách môn đồ Chúa rằng: “Sao môn đồ thầy phạm sự truyền khẩu người xưa.” Nhưng Christ bèn đáp rằng: “Còn các ngươi sao cũng vì sự truyền khẩu của các ngươi mà phạm điều răn của Đức Chúa Trời?” (Ma 15:2,3). Chữ phạm ấy là parabaino, đi quá mạng lịnh Chúa đã truyền cho ta phải làm theo. Trong IIGi 1:9 bản Việt ngữ dịch chữ ấy là “vượt quá”, nghĩa là hễ ai chẳng cứ ở trong sự dạy dỗ của Christ, thì phạm tội vượt quá mạng lịnh của Đức Chúa Trời, nên cũng không có Đức Chúa Trời vậy.e) Tội là phản loạn cùng Đức Chúa Trời: Tội lỗi cũng là sự trực tiếp phản loạn với Đức Chúa Trời. Trong Es 1:2 Đức Chúa Trời than thở rằng: “Ta đã nuôi nấng con cái, trưởng dưỡng chúng nó, song nó dấy loạn nghịch cùng ta.” Giop 34:37 cũng chép: “Người có thêm sự phản nghịch vào tội lỗi mình.”(1) Pasha: Trong Cựu Ước dùng chữ Hê-bơ-rơ pasha để tả ra tội lỗi ấy. Trong bản Việt ngữ chữ ấy được dịch ra nhiều cách như là “trái mạng”, IVua 8:50; “phản nghịch”, IVua 17:19; IIVua 10:20; “vi phạm”, Thi 51:3; “làm gian ác”, Ch 24:20; “tội lỗi”, Da 8:12. Trong những câu ấy và nhiều câu khác ý nghĩa chữ pasha là cố ý phản loạn cùng Đức Chúa Trời. Tội nhơn cố phạm ấy chẳng khác gì con trai kia không những là không vâng lời cha mà lại dám đứng ngay trước mặt cha chế nhạo chưởi mắng cha, quả quyết không chịu làm theo ý của cha bao giờ. Đó là nghĩa đen của chữ pasha.(2)Anomos: Tân Ước dùng chữ anomos để diễn tả chân tánh của tội phản loạn. Nghĩa đen là “bất pháp”, “trái luật”, “phản loạn” vậy. Hai tên trộm cướp bị đóng đinh với Chúa gọi là kẻ trái luật, vì họ trái luật của xã hội (Mac 15:28). Dân Do thái dùng tay trái luật mà giết Chúa Jesus (Cong 2:23). Khi Christ tái lâm thì sẽ dùng hơi miệng Ngài, mà hủy diệt kẻ trái luật (IITe 2:8). Đức Chúa Trời ban bố luật pháp Ngài để ngăn cản và hình phạt kẻ trái luật (ITi 1:9). Ông Lót mỗi ngày cảm biết đau xót trong lòng công nghĩa mình vì cớ việc trái luật của người Sôđôm (IIPhi 2:8). Còn “phàm ai phạm tội cùng làm trái luật” (IGi 3:4), nghĩa là cố ý phản loạn cùng luật pháp thánh của Đức Chúa Trời vậy.f) Tội là lừa dối (bất trung, quỉ quyệt) Đức Chúa Trời: Trong Cựu Ước lại có dùng chữ Ma’al để bày ra chân tánh của tội nữa.Nghĩa đen chữ ấy là “che đậy”; còn nghĩa bóng là phạm tội rồi che đậy tội ấy, cốt ý là lừa dối Đức Chúa Trời, bội tín bất trung với Ngài. Khốn nạn thay! Loài người phạm tội rồi thêm cho tội ấy sự trái luật; cho sự trái luật thì thêm sự phản loạn;cho sự phản loạn thì thêm sự lừa dối phỉnh gạt nữa. Khi A-đam không chịu nghe theo Đức Chúa Trời, nhưng theo lời Ê-va, thì sai trật chuẩn đích; khi ăn trái cấm thì trái mạng Đức Chúa Trời; rồi sau lại kiếm thế che đậy tội lỗi của mình để lừa dối Đức Chúa Trời nữa. Trong Ôsê Đức Chúa Trời phán rằng: “Nhưng theo cách người ta, chúng nó đã phạm lời giao ước, và ở đó chúng nó đã phỉnh dối ta” (Os 6:7). Gióp nói rằng: “Nếu tôi có che tội mình như A-đam, mà giấu sự gian ác mình ở trong lòng…” (Giop 31:33). Thánh Linh dùng chữ ma’al để tả ra tội của A-can (Gios 7:1), cũng gọi tội ma’al ấy là cớ làm cho vua Sau-lơ chết sớm (ISu 10:13), và trong Giop 21:34 tội ấy gọi là sự bất trung vậy. Nói một lời, phạm tội là nghiêm trọng rồi, trái luật Đức Chúa Trời lại nặng hơn; nhưng dùng ác mưu để che đậy tội lỗi mình thì lại càng nặng hơn hết, chắc bị hình phạt cũng cực nặng vậy (Mat 23:14).g) Tội là sự không biết điều mình nên biết:Trong Tân Ước cũng dùng một chữ khác nữa để tả ra chân tánh của tội lỗi, tức là chữ agnoéma, nghĩa đen là “không biết”. Trong He 9:7 bản Việt ngữ dịch chữ ấy là lỗi lầm. Trong Cựu Ước có dùng chữ shégagah để tả ra tội phạm tại sự không biết. Bản Việt ngữ dịch là “lầm lỡ mà phạm tội” (Le 4:2, Le 4:27; Le 5:15, Le 5:18). Có nhiều kẻ nghĩ rằng tội lầm lỡ do sự không biết mà ra là tội nhẹ Đức Chúa Trời chắc không kể đến; nhưng ý kiến ấy sai lầm lắm, bởi vì Đức Chúa Trời có phán cùng Môi-se rằng: “Khi nào ai phạm một trong các điều răn của Giê-hô-va mà không tự biết, thì ai đó sẽ mắc lỗi, và mang lấy tội mình”(Le 5:17). Kê cứu Kinh Thánh thì thấy sự hình phạt ghê sợ hơn hết giáng trên kẻ vì không biết mà phạm tội cùng Đức Chúa Trời. Bọn không biết rằng Chúa ở trong anh em Ngài mà bị đói, khát, trần truồng, v…v. đều bị rủa sả, hình phạt đời đời ở nơi hầm lửa (Mat 25:45,46). Còn kẻ chẳng hề nhận biết Đức Chúa Trời, chẳng vâng phục Tin Lành của Jesus Christ, đều phải “bị hình phạt diệt vong đời đời cách biệt mặt Chúa và sự vinh hiển của quyền năng Ngài (IITe 1:8-9).h) Tội là mắc nợ:Tân Ước lại dùng một chữ nữa để minh tả chân tánh tội lỗi, là opheiléma, nghĩa đen là “nợ nần”. Trong Ma 6:11 Chúa dạy môn đồ hãy cầu nguyện rằng “Xin… tha nợ chúng tôi.” Các thứ tội loài người vốn một nợ nần rất to đối cùng Đức Chúa Trời.Họ mắc nợ ấy là vì họ thiếu thốn mọi bề về sự kính mến, vâng phục Đức Chúa Trời,và về sự giữ theo mọi điều răn của Ngài. Than ôi! Loài người chẳng có gì cả để trả xong mối nợ ấy; nên cần phải cầu xin Đức Chúa Trời nhơn Jesus Christ tha nợ cho mình, mới mong khỏi hết được.i) Tội là thiếu kém trong bổn phận mình: một chữ nữa mà Tân Ước dùng để tả ra tội lỗi là hettéma, nghĩa đen là “bớt một trong điều mình đáng nên nạp cho đầy đủ.”Trong ICo 6:7 bản Việt ngữ dịch chữ ấy là “lỗi”. Tín đồ Cô-rinh-tô hay kiện cáo nhau là vì họ thiếu kém trong sự yêu mến nhau.j) Tội là không khứng nghe:Trong He 2:2 dùng chữ parakoé để tỏ ra một phương diện khác của tội lỗi, nghĩa đen là “không khứng nghe”, không chịu vâng lời của ai cả. Trong đời Môi-se hễ ai không khứng nghe mạng lịnh của Đức Chúa Trời, còn bị báo ứng xứng đáng. Huống hôm nay nếu người ta cứng lòng không chịu nghe theo lời của Christ, thì sao thoát khỏi sự đoán phạt được? (He 2:2,3).k) Tội là sự cứng lòng:Trong Cựu Ước lại dùng một danh từ nữa để bày ra tội, là chazaq, nghĩa đen là “cứng lòng”, “cố chấp”. Tội ấy là nặng hơn hết; vì phạm nhơn không khứng hạ mình xuống ở trước mặt Đức Chúa Trời. Trong Xu 4:21 có chép về Pha-ra-ôn cứng lòng với Đức Chúa Trời, nên cũng bị tuyệt diệt vậy.l) Tội là hư không:Một chữ chót cần nói đến là even, dùng trong Cựu Ước, có nghĩa đen là “thở ra nhiều cho đến đỗi mệt ngất”. Nghĩa bóng là hư không vô ích. Trong Es 41:29 chép: “Thật, họ chỉ là hư vô hết thảy; công việc họ cũng thành không, tượng đúc của họ chẳng qua là gió và sự lộn lạo.” Đại ý của chữ ấy là việc làm của kẻ phạm tội đều là hư không vô ích cả.3. BỐN PHƯƠNG DIỆN CỦA TỘI LỖITrong Tân Cựu Ước cũng có dùng nhiều chữ khác nữa để tả chân tánh của tội lỗi. Nhưng thiết tưởng các chữ kể lại trên đây đủ cho ta biết tội lỗi rất xấu xa và gớm ghiếc ở trước mặt Đức Chúa Trời, làm thiệt hại lớn cho loài người hiện tại và tương lai nữa. Chúng ta có thể tóm tắt lại sự dạy dỗ của những chữ ấy mà kết đoán rằng, nó mô tả chân tánh của tội có bốn phương diện sau đây:a) Phương diện hướng cùng Đức Chúa Trời: Tội là sự phản loạn cùng Đức Chúa Trời,sự không tận tâm tận ý tận lực mà yêu mến Ngài. Trong ISa 15:23 chép rằng: “Sự bội ngịch (phản loạn) cũng đáng tội bằng sự tà thuật; sự cố chấp giống như tội trọng cúng lạy hình tượng.” Còn trong Phu 6:5 dạy rằng: “Ngươi phải hết lòng, hết ý, hết sức kính mến Giê-hô-va Đức Chúa Trời ngươi” (cũng xem Mac 12:30). Cả loài người đều đã trái phạm điều răn nầy hết (Ro 1:21-25)b) Phương diện hướng cùng luật pháp Đức Chúa Trời: Tội phạm cùng luật pháp Đức Chúa Trời có hai thứ gọi là cố phạm và ngộ phạm. Về tội cố phạm, Dan 15:30,31 chép rằng: “Nhưng ai cố ý phạm tội, hoặc người sanh trong xứ, hay là khách ngoại bang, thì ai đó khinh bỉ Giê-hô-va; người sẽ bị truất khỏi dân sự mình,vì người đã khinh bỉ lời Giê-hô-va và trái mạng của Ngài… tội gian ác người đổ lại trên mình người.” Về tội ngộ phạm, Dan 15:27 lại chép: “Nhược bằng chỉ một người lầm lỡ phạm tội, thì người đó phải dâng một con dê cái giáp năm làm của lễ chuộc tội” (cũng xem He 9:7).c) Phương diện hướng cùng loài người: Xử với kẻ lân cận cách bất nghĩa, hoặc không hết lòng yêu mến họ như mình, đều là có tội cả; có khi là tội cố phạm có khi là tội hốt lược mà phạm. Về tội xử với kẻ lân cận cách bất nghĩa, thì Le 19:13 dạy rằng: “Chớ ức hiếp kẻ lân cận mình, chớ cướp giựt của họ. Tiền công của kẻ làm mướn ngươi chớ nên để trong nhà mình cho đến ngày mai.” (cũng xem Mi 6:8; Ro 1:18). Về tội không yêu mến kẻ lân cận thì Le 19:18 lại chép rằng: “Chớ toan báo thù, chớ giữ sự báo thù cùng con cháu dân sự mình; nhưng hãy yêu thương kẻ lân cận ngươi như mình” (cũng xem Mac 12:31).d) Phương diện hướng cùng mình: Sự ích kỷ, tự tư, tự lợi và sự hủ bại trong lòng đều là tội cả. Về tội ích kỷ Chúa dạy trong Ma 16:24 rằng: “Nếu ai muốn theo ta, thì hãy từ chối mình, vác thập tự giá mình mà theo ta.” “Từ chối mình”, tức là từ bỏ lòng ích kỷ, tự ái, tự tư, tự lợi, mới theo Chúa Jesus được.Hễ ai còn giữ lòng ấy, không chịu bỏ, quả phạm nguyên tội của Sa-tan phạm lúc nó sa ngã (Es 14:12-15; cũng xem Es 12:3-5). Về tội hủ bại thì Thi 51:5 chép: “Kìa,tôi sanh ra trong sự gian ác, mẹ tôi đã hoài thai tôi trong tội lỗi.” Lại Ro 7:18 có câu rằng: “Vả,tôi biết rằng trong tôi tức là trong xác thịt tôi, chẳng có điều gì tốt lành.” Hai câu ấy minh chứng rằng từ khi lọt lòng mẹ đến khi lớn, khôn, già, chết, người thiên nhiên vẫn đứng trong địa vị hủ bại mọi bề.Chương 5: LUẬN VỀ NGUYÊN TỘIChúng ta đã thấy nguyên tổ ta là A-đam trái mạng Đức Chúa Trời mà phạm tội, bị bản tánh hủ bại, dứng trong địa vị định tội.. Cũng đã thấy tội đầu tiên của giống loài người là sự vi phạm thứ nhứt của nguyên tổ đó. Sự vi phạm ấy thần đạo học gọi là nguyên tội, liên can với cả hậu tự của nguyên tổ, khiến cho họ cũng bị định tội và mắc phải bản tánh hủ bại như chính nguyên tổ vậy. Thực sự ấy gây nên những vấn đề rất quan hệ cho thần đạo học,ấy là: (1) Nếu ông tổ A-đam là nguồn của tánh hủ bại ta, tại sao lại gọi chúng ta phải nhận trách nhiệm và bản tánh ấy? (2) Đức Chúa Trời lấy tội của nguyên tổ ta mà đổ lại trên chúng ta, làm sao gọi là công bình? (3) Tội A-đam thể nào lụy đến hậu tự đến đỗi cả thảy đều bị kể là mắc cùng một thứ tội ấy? Trải qua các đời có lắm kẻ bàn đi cãi lại về những vấn đề ấy, viện lấy hoặc Kinh Thánh, hoặc ý riêng, đều quyết giải thuyết cho minh bạch, nhưng kết cuộc phát biểu nhiều lý thuyết khác nhau lắm. Sau đây xin khái lược lại bốn lý thuyết quan hệ hơn hết:I. TÁNH THIỆN THUYẾTThuyết nầy do ông Pélage, một nhà tu sĩ sanh tại đảo Bố lập thân (Iles Britanniques). Ông qua thành Rô-ma vào lối năm 409 mà giãi bày lý thuyết mình về nguyên tội, cốt ý để bài bác lý thuyết của Augustin.1. PHÁT HUY TÁNH THIỆN THUYẾTThuyết nầy chủ chương rằng tội lỗi của A-đam chẳng can gì đến con cháu, duy can hệ đến chính mình người mà thôi. Đức Chúa Trời trực tiếp dựng nên mỗi linh hồn vốn được vô tội, được bản tánh trong sạch thiện hảo trọn vẹn, chẳng khuynh hướng về sự ác gì cả, có đủ quyền năng vâng theo ý chí Đức Chúa Trời, chẳng khác gì A-đam khi mới được dựng nên vậy. Hậu tự của A-đam chẳng bị liên can tội mà ông ấy đã phạm, cũng không bị tánh hủ bại đâu, duy ảnh hưởng của gương xấu của A-đam chi phối đến họ, khiến cho họ bị lôi cuốn mà chồng dấu xe đổ đó thôi. Nói cách khác, tội nguyên tổ có ảnh hưởng cho hậu tự, chẳng phải vì A-đam phạm tội, mà mọi người phải bị định tội đâu, bèn là bởi A-đam phạm tội mà mọi người đều theo gương vi phạm đó mà kế tiếp phạm tội vậy.Thế thì, theo thuyết nầy, chính tội của A-đam chẳng làm hại cho hậu tự người, duy làm hại cho chính người mà thôi. Đức Chúa Trời chẳng đổ tội của người cho dòng dõi người đâu, chỉ kể tội ấy cho chính người đó thôi. Hậu tự người chỉ bị định tội tại kỷ tội là tội họ tự cảm biết mà phạm, chớ chẳng bị tội của ai đổ cho đâu. Thuyết nầy lại còn chủ trương rằng người ta có thể nhờ hoặc luật pháp, hoặc Tin Lành mà được cứu rỗi. Hẳn có người tự mình vâng theo Đức Chúa Trời trọn vẹn mà được cứu. Vậy nên, sự chết của xác thịt chẳng phải là sự hình phạt của tội lỗi đâu, bèn là tại luật thiên nhiên Đức Chúa Trời đã định cho mọi người phải bị vậy. Phỏng như A-đam không phạm tội thì cũng chắc chết. Tuy Ro 5:12 có câu rằng: “Sự chết đã trải qua mọi người,vì hết thảy đều phạm tội”, thì câu ấy chẳng dạy rằng mọi người vì dự phần trong nguyên tội của nguyên tổ mà phải chết đâu, bèn là vì mọi người theo gương của A-đam mà phạm tội, nên cũng bị tử hình của tội ấy, là sự chết đời đời vậy.2. SỰ LẦM LẠC CỦA LÝ THUYẾT NẦYLý thuyết nầy lầm lạc lắm. Xin tỏ ra như sau đây:a) Phản đối với Kinh Thánh:Tánh thiện thuyết có những ngộ điểm rất quan hệ như tỏ sau đây: 1) Lý thuyết nầy chỉ nhận chính việc phạm tội là tội; còn địa vị và sự khuynh hướng ác của lòng thì chẳng gọi là tội. 2) Cũng chẳng nhận rằng cái địa vị và sự khuynh hướng ác ấy đều ở trong lòng loài người từ lúc mới được hoài thai và sanh ra. 3) Cũng chối rằng không phải loài người đến tuổi phân biệt phải quấy, thì khỉ sự phạm tội liền.4) Thuyết nầy cũng phủ nhận rằng loài người tự nhiên nếu không được Đức Chúa Trời giúp đỡ, thì không thể nào giữ luật pháp được. 5) Cũng chẳng nhận rằng loài người bất cứ ai đều chỉ nhờ ơn cứu chuộc của Christ mới mong được cứu rỗi, tái sanh và nên thánh mà thôi. 6) Cũng phủ nhận địa vị hư hoại hiện tại của loài người,sự bị định tội và sự chết mất, đều là hiệu quả trực tiếp của sự phạm tội thứ nhứt của A-đam. Các lẽ đạo kể lại đây, tánh thiện thuyết đều chối hết; song Kinh Thánh vẫn công nhận và giãi bày rõ ràng lắm rằng các giáo lý ấy đều là đạo chơn thật của Đức Chúa Trời cả. Xem những câu nầy thì rõ: xem Ro 5:12, Ro 5:16, Ro 5:19; ICo 15:22; Eph 2:3b) Phản đối với sự thật:Loài người mới sanh ra đều đã có giống ác tiềm tàng trong lòng, tuy chưa chịu sự cám dỗ của ác tập mặc dầu. Sự từng trải ta minh chứng rằng hễ khi gặp cơ hội cám dỗ, thì lòng bất thiện của mình liền tỏ ra việc bất thiện mà phạm tội rất giống như nguyên tội của nguyên tổ vậy.c) Phản đối với ơn cứu rỗi:Thuyết nầy rất phản đối với ơn cứu rỗi, vì dạy rằng loài người chỉ cần tự quyết chí nhờ sự gắng công ra sức và tài năng hay giỏi của mình mà làm lành, thì sẽ đạt đến bực thiện hảo trọn vẹn, chẳng cần nhờ ơn cứu rỗi của Christ để đạt đến chỗ ấy.Trái lại, Kinh Thánh dạy rõ ràng nếu chẳng nhờ ơn cứu rỗi của Christ, và quyền Kinh Thánh cảm hóa phù trợ cho, thì chắc chẳng ai được tái sanh, chẳng ai giữ được mạng lịnh của Đức Chúa Trời, cũng chẳng ai hưởng được phước hạnh gì cả.II. TÁNH HỦ BẠI THUYẾTThuyết nầy cũng gọi là thuyết Arminius (1560-1609), giáo sư trong trường đại học tại Leyden, nước Hà Lan, đề xướng trước hết.1. PHÁT HUY TÁNH HỦ BẠI THUYẾTThuyết nầy chủ trương rằng, khi A-đam phạm tội thì tâm tánh biến ra hủ bại, mất cả sự công nghĩa nguyên bản, Đức Chúa Trời bèn phán định cái hiệu quả của sự vi phạm ấy là phàm hậu tự sanh ra trong đời cũng như nguyên tổ đều phải có tâm tánh hủ bại, chẳng còn giữ lại được chút gì của sự công nghĩa nguyên bản, và phải bị khổ và chết. Vì cớ sự thiếu thốn do nguyên tổ di truyền lại đó, cả giống loài người tự nhiên đứng trong địa vị bất năng, yếu đuối, không thể vâng lời Đức Chúa Trời hoặc tự mình đạt đến sự sống đời đời được. Sự bất năng ấy vốn chẳng tự tạo thành, bèn là do sự yếu đuối lẫn lút trong thân thể và tâm trí, bởi nguyên tổ truyền lại cho. Bởi cớ ấy Đức Chúa Trời ban cho cá nhân từ lúc mới có sự tự tri tự giác, được ơn đặc biệt của Thánh Linh cảm hóa để chống trả với cái hiệu quả của tâm tánh hủ bại đó, khiến cho người có thể vâng lời Đức Chúa Trời được; duy có điều kiện nầy là cá nhơn phải đem ý chí của mình mà hợp tác với Ngài trong việc đó, thì ơn ấy mới kết quả may mắn được.Thuyết ấy lại chủ trương rằng tuy A-đam di truyền tâm tánh hủ bại cho hậu tự mình, thì tâm tánh hủ bại đó chẳng hề gọi là tội, và cá nhơn hậu tự của người cũng chẳng vì cớ nó, hoặc vì cớ sự vi phạm của tiền nhơn mà bị khép án, định tội hay là hình phạt đâu. Đợi đến khi cá nhơn chăm theo tâm tánh đó mà cố ý phạm tội, thì mới định tội cho họ vậy. Thành thử,sự vi phạm của nguyên tổ thật di truyền tánh hủ bại cho hậu tự người, nhưng chẳng phải sở dĩ tại tánh đó mà họ bị định tội đâu, bèn là vì họ tự cố ý phạm tội mà tự chuốc lấy sự hư mất cho mình đó. Vậy, Đức Chúa Trời chẳng đổ tội của A-đam lại cho hậu tự người, cũng chẳng đem cái hình phạt của A-đam mà gia trên họ đâu.Tuy thơ Rô-ma có câu dạy rằng: “Sự chết đã trải qua trên hết thảy mọi người,vì mọi người đều phạm tội.” (Ro 5:12), thì nghĩa câu ấy chẳng phải vì tội lỗi của A-đam mà hậu tự bị khép án chết thuộc linh và thuộc thể đâu, bèn là do mạng lịnh Đức Chúa Trời mà mọi người đồng phải bị hiệu quả của tội ấy, tức là tử hình thuộc thể và thuộc linh; nhưng vì mọi người đều đã tự ý theo tâm tánh hủ bại của mình mà phạm tội cũng như nguyên tổ, nên bị khép án gia hình vậy.2. CHỖ ĐÚNG VÀ CHỖ SAI CỦA THUYẾT NẦYThuyết nầy có chỗ dạy đúng về nguyên tội,mà cũng có chỗ sai lầm như sau đây:a) Chỗ đúng:(1) Theo điều Kinh Thánh dạy về A-đam phạm tội lần thứ nhứt, thì tâm tánh người bèn biến thành hủ bại, mất sự công nghĩa nguyên bản. Từ đó cả hậu tự người đều bị di truyền mà mắc phải tâm tánh hủ bại đó vậy. (2) Loài người chẳng có năng lực gì tự trở lại cùng Đức Chúa Trời được. Phải nhờ ơn Thánh Linh vùa giúp, chỉ dẫn và soi sáng cho mới được.b) Chỗ sai lầm:(1) Loài người chẳng bị tâm tánh hủ bại vì mạng lịnh độc đoán của Đức Chúa Trời định phải bị như thuyết Arminius dạy vậy đâu, bèn tại vì họ hiệp nhứt với cả giống loài người ở trong A-đam mà mặc tánh ấy, đến đỗi nguyên tổ ta bị tánh thể nào,thì hậu tự cũng đồng bị tánh thể ấy. (2) Thuyết nầy sai lầm hơn hết về sự giải nghĩa tội. Bởi chủ trương rằng tâm tánh hủ bại của loài người chẳng gọi là tội,duy việc tự ý phạm tội mới là tội đó thôi; đến đỗi dẫu có việc ác do tâm tánh hủ bại ấy mà ra, nếu tâm tánh chưa tự cảm giác mình thi thố tội ấy, thì cũng không được gọi là tội. Nhưng trái lại, Kinh Thánh dạy rõ chính tâm tánh hủ bại, luôn các sự khuynh hướng ác của nó, với các việc quấy do đó mà ra nữa, đều gọi là tội cả. (3) Kinh Thánh cũng tỏ rõ rằng cả giống loài người đều vì nguyên tội của A-đam mà bị Đức Chúa Trời định tội gia hình cho, chớ chẳng chỉ vì kỷ tội mà họ bị định tội gia hình thôi đâu. (Xem Ro 5:12, Ro 5:16, Ro 5:19; Eph 2:3).Ông John Wesley, nhà sáng lập Giáo hội Methodiste ở bên nước Anh (thế kỷ XVIII), tán đồng đại ý của thuyết nầy, nhưng cũng có cải chánh nhiều giáo lý trong đó, làm cho trở nên thích hiệp với sự dạy dỗ của Kinh Thánh. Hiện nay trong Giáo hội Cải chánh có Giáo hội Methodiste và mấy giáo hội nhỏ khác tán đồng theo tánh hủ bại thuyết mà ông Wesley đã cải chánh đó vậy.III. ĐẠI BIỂU THUYẾTĐại biểu thuyết do ông Cocceius (1603-1669), người Hà lan, giáo sư tại Leyden khởi xướng, về sau có ông Turretin (1623-1687) phụ họa và giải thuyết rõ ràng hơn. Hiện nay Giáo hội Réformée (Hội Trưởng lão) tán đồng lý thuyết ấy.1. PHÁP HUY ĐẠI BIỂU THUYÊTThuyết nầy chủ trương rằng Đức Chúa Trời theo ý chí cao cả của Ngài mà lập A-đam làm đại biểu của cả dòng giống loài người trải mọi đời. Đức Chúa Trời cũng lập giao ước với A-đam, và với cả dòng dõi người ở trong người, hứa sẽ ban sự sống đời đời cho họ; duy có một điều kiện là A-đam phải vâng phục Đức Chúa Trời. Bằng chẳng vâng phục thì sẽ hình phạt người, lấy tội người mà đổ lại cho hậu tự người, khiến cho họ bị hủ bại và bị chết. Vả, vì A-đam đã phạm tội, nên Đức Chúa Trời đã theo điều kiện của giao ước ấy mà định tội cho các hậu tự người, vì sự vi phạm của người mà đổ tội ấy cho họ, kể họ và đãi họ như tội nhơn cả.Đức Chúa Trời bèn thực hành cái án ấy mà trực tiếp dựng nên mọi linh hồn của hậu tự A-đam phải bị tâm tánh hư hỏng bại hoại. Chính tâm tánh ấy vốn gọi là tội, cũng hẳn có dẫn dắt người ta vào sự vi phạm. Vậy, chủ ý thuyết nầy là: Đức Chúa Trời trực tiếp đổ tội của A-đam cho hậu tự người, nhưng sự bại hoại tâm tánh của họ chẳng phải là nguyên nhơn của sự đổ tội ấy, duy là hiệu quả của nó thôi. Theo thuyết nầy câu “sự chết đã trải qua mọi người, vì hết thảy đều phạm tội” (Ro 5:12), chỉ dạy rằng sự chết của phần xác,phần hồn, và sự chết đời đời duy giáng trên mọi người bởi vì mọi người đều bị kể là tội nhơn đó thôi.2. SỰ DỊ NGHỊ CỦA THUYẾT NẦYThuyết nầy bị những phi nghị như sau đây:a) Ngoài Kinh Thánh:Lý thuyết nầy không do Kinh Thánh mà ra, vì trong đó chẳng có đoạn sách nào nói đến giao ước gì mà Đức Chúa Trời lập với A-đam để thí nghiệm loài người. Thuyết nầy thường viện lấy Os 6:7 để chứng cho ý kiến ấy; nhưng câu ấy chỉ nói đến “cách người ta… phạm lời giao ước”, chớ chẳng nói về A-đam phạm lời giao ước nào cả.b) Phản đối Kinh Thánh:Thuyết nầy chủ trương rằng cái hiệu quả đầu nhứt về tội lỗi của A-đam là Đức Chúa Trời kể và đãi loài người như kẻ có tội. Ấy phản đối Kinh Thánh, vì Kinh Thánh minh chứng rằng tội của A-đam khiến cho cả loài người mắc tội (Ro 5:19).Loài người chẳng phải là tội nhơn bởi vì Đức Chúa Trời kể và đãi họ bằng tội nhơn đâu, bèn là bởi vì họ quả là tội nhơn thực nghiệm vậy. Kinh Thánh nói rõ sự chết “đã trải qua mọi người”, chẳng phải vì ai nấy bị kể và đãi bằng kẻ có tội,nhưng bởi “vì hết thảy đều phạm tội” đó vậy (Ro 5:12).c) Nói hành sự công nghĩa của Đức Chúa Trời: Đại biểu thuyết nói hành sự công nghĩa của Đức Chúa Trời, vì chủ trương rằng:(1) Đức Chúa Trời định tội cho loài người bởi vì họ phạm giao ước mà họ chẳng có dự phần sáng lập với Ngài. Điều thuyết nầy gọi là giao ước, bất quá là mạng lịnh của Đức Chúa Trời, theo ý chí cao cả của Ngài ban bố ra cho nguyên tổ đó thôi. Kinh Thánh cũng chẳng nói gì đến A-đam lập giao ước gì với Đức Chúa Trời như thế đâu.(2) Cứ điều kiện của giao ước ấy Đức Chúa Trời kể mọi người vốn vô tội là tội nhơn. Dạy vậy, há chẳng nói hành sự công nghĩa của Đức Chúa Trời sao? Nhưng thật Đức Chúa Trời xử đoán theo lẽ thật,nên Ngài chỉ có thể coi những kẻ thực dự phần trong sự vi phạm của A-đam là tội nhơn đó thôi.(3) Sau khi Đức Chúa Trời kể những kẻ vốn không có tội là có tội, thì liền trực tiếp dựng nên mọi linh hồn bị tâm tánh hư hoại, để khiến cho họ bị tội hiệp với mạng lịnh của Ngài. Dạy vậy, không những là dạy tà giáo về căn nguyên của linh hồn, lại ám chỉ Đức Chúa Trời là nguồn gốc trực tiếp của tội lỗi nữa. Nói một lời, sự định tội cho loài người chẳng có trước sự bại hoại, cũng chẳng phải là gốc của nó; bèn là sự bại hoại có trước và là nguyên nhơn của sự định tội đó mới hiệp với Chánh giáo vậy.IV. ĐỒNG THỂ THUYẾTThuyết nầy do ông Augustin (354-430) khởi xướng, cốt để hết sức phản đối ý kiến của Pélage (xem tánh thiện thuyết). Dầu trước ông Augustin cũng đã có những Giáo phụ đề cập, như ông Tertullien (qua đời 220), ông Hilaire (qua đời 350), và ông Ambroise (qua đời 374). Tuy vậy, lịch sử thần đạo thường gọi thuyết nầy là thuyết Augustin. Các nhà Cải chánh đều tán đồng ý kiến nầy, duy ông Zivingle thì không. Hiện nay thuyết nầy cũng thường gọi là Chánh giáo thuyết, phần đông các nhà thần đạo trong Giáo hội Cải chánh đều tán đồng ý kiến nầy hết.1. PHÁT HUY ĐỒNG THỂ THUYẾTĐồng thể thuyết chủ trương rằng, cả dòng giống loài người đều đồng thể với A-đam trong lúc ông phạm tội lần thứ nhứt.Tuy lúc ấy giống loài người chưa chia ra từng cá nhơn, thì mọi người đều vốn thực tại ở trong lòng nguyên tổ; cả sự sống của dòng dõi người, với các thứ đặc tánh tư cách của họ cũng đều tiềm tàng ở nơi cá nhơn A-đam. Các tài năng hiện có ở trong cá nhơn, lúc bấy giờ duy có trong một mình A-đam, ý chí của A-đam khi ấy là ý chí của cả giống loài người vậy. Thành thử, khi A-đam tự ý tình nguyện phạm tội mà phản nghịch cùng Đức Chúa Trời, thì cả giống loài người đều đồng thể ở trong người mà phạm tội phản nghịch cùng Đức Chúa Trời, và bị tâm tánh hủ bại. Cái tâm tánh chúng ta hiện tại có là chính tâm tánh bị hủ bại trong A-đam lúc đó,chớ chẳng phải một thứ tâm tánh giống như nó, bèn là chính tâm tánh ấy từ A-đam cứ hằng di truyền lại chúng ta vậy.Ấy vậy, khi A-đam phạm tội thì Đức Chúa Trời trực tiếp đổ tội ấy cho loài người, vì cả loài người đều đồng thể ở trong A-đam, nên tội ấy cũng là tội của chính mình họ nữa vậy. Tội ấy tức thì kết quả tâm tánh chung của cả loài người ở trong A-đam hủ bại, thiếu sự yêu mến Đức Chúa Trời, xu hướng về tội ác, đến đỗi như Phao-lô dạy: “sự chết đã trải qua mọi người, vì hết thảy đều phạm tội” (Ro 5:12). Bất cứ là sự chết về phần xác, phần hồn hay là sự chết đời đời, thì đều giáng trên mọi người, vì mọi người đều đồng thể với A-đam mà phạm tội vậy. Thuyết nầy rõ hơn và dễ hiểu hơn các ý kiến khác dạy về nguyên tội. Sau đây xin kể những bằng cớ chứng thực cho.2. BẰNG CỚ CHỨNG THỰC CHO THUYẾT NẦYa) Vừa hiệp với Kinh Thánh:Kinh Thánh chắc dạy rằng vì loài người đồng thể với A-đam, nên chi cả loài người đều ở trong A-đam mà vi phạm và bị định tội. Ấy chắc là ý nghĩa của Ro 5:12-21.Phần nhiều nhà giải nghĩa Kinh Thánh đều hiệp ý mà dạy rằng câu “sự chết đã trải qua mọi người, vì hết thảy đều phạm tội”, chắc tỏ ra cả giống loài người đều liên hiệp với A-đam mà phạm tội. Các chỗ trong đoạn sách nầy nói về sự chết của xác thịt đã trải trên hết thảy mọi người, đến đỗi hoặc kẻ nào phạm tội cách cảm biết, hoặc kẻ không phạm kỷ tội nào cả, đều bị án chết ấy (Ro 5:14). Các ngôn từ trong đoạn sách nầy như “luật pháp”, “tội lỗi”, “phạm tội”, “đoán phạt”, “công nghĩa” “không vâng phục” (Ro 5:13, Ro 5:14, Ro 5:15, Ro 5:16, Ro 5:18), đều là những ngôn từ thuộc về sự tài phán cả, minh chứng rằng sự định tội cho loài người đó chẳng phải là do một lịnh độc đoán mà ra, bèn là gia hình do sự phán đoán công bình mà ra vậy. Khi minh giải về gia hình ấy, thì Phao-lô quả quyết là nhơn vì tội của một mình A-đam mà cả loài người đồng bị một gia hình như đã tỏ trong những câu kể sau nầy: “bởi một người mà tội lỗi vào thế gian” (Ro 5:12),“bởi sự vi phạm của một người” (câu 15), “nhơn một vi phạm mà mọi người bị định tội thể nào” (Ro 5:18). Các câu ấy đều hiệp ý minh giải rằng cả giống loài người đều đồng thể với A-đam khi người phạm tội lần thứ nhứt, nên cũng đồng thể với người mà bị hủ bại và định tội vậy.b) Giúp ta hiểu về tánh hủ bại: Thuyết nầy giúp đỡ ta hiểu tại cớ sao ta có trách nhiệm về tâm tánh hủ bại mà chính ta biết không phải do kỷ tội ta mà ra vậy.Bởi vì nếu chúng ta thực đồng thể với nguyên tổ mà phạm tội, đến đỗi kết liễu bị tâm tánh hủ bại thì gọi ta có trách nhiệm về nó cũng hữu lý và công bình lắm.c) He 7:9,10 làm chứng cho:Thuyết nầy cũng vừa hiệp với sự dạy dỗ trong He 7:9,10: “Như vậy, có thể nói rằng,chính Lê-vi là kẻ thâu một phần mười kia, cũng do Ápraham mà đóng một phần mười;vì lúc Mên-chi-xê-đéc đón Áp-ra-ham, thì Lê-vi còn ở trong lòng tổ phụ.” Câu ấy dạy rõ ràng loài người trước khi sanh ra vẫn ở trong thể tiền nhơn, bất luận ông ấy sống trước khi mình mấy muôn thế kỷ, thì mình cũng vẫn hiệp nhứt với ông mà chịu trách nhiệm trong việc làm của ông, theo như Ápraham đóng thuế một phần mười cho Mên-chi-xê-đéc, mà ông Lê-vi, dầu được sanh hạ đến hơn 500 năm về sau đi nữa, cũng vẫn dự phần trong việc đóng thuế ấy vậy.3. ĐÁP LẼ CÁC SỰ DỊ NGHỊCó kẻ không tán đồng ý kiến nầy thường đưa ra những câu dị nghị nầy nọ. Sau đây, xin thuật lại và đáp lẽ cho các câu dị nghị ấy.a) Trước khi chưa tự tri tự giác thì người ta không thể có tội.Ta phủ nhận câu ấy, vì rất phản đối với Kinh Thánh và luật đạo đức. Phần nhiều ác tập và xu hướng xấu của loài người đều không được cảm biết cho lắm, đến đỗi có việc xấu và sự khuynh hướng ác trong loài người mà họ chẳng tự cảm biết. Lại luật đạo đức không những là hành quyền trên chúng ta khi chúng ta cảm biết luật ấy, nhưng nó cũng hành quyền trên ta,định tội cho ta mỗi khi ta trái luật ấy, bất cứ ta tự cảm biết hay không cũng vậy.Lại mọi tội lỗi không phải đều là kỷ tội; Kinh Thánh dạy rõ lắm có tội thuộc về dòng giống, có tội lại thuộc riêng về cả dân tộc cả quốc gia và cả gia đình,v…v.; duy nguyên tội là thuộc chung cả dòng giống loài người vậy.b) Loài người chẳng tự tạo ra tánh tội ác nên cũng không có trách nhiệm về tánh ấy.Xin đáp: Lời dị nghị ấy không nhận lời chứng của Kinh Thánh và của lương tâm; vì hai cơ quan ấy đều chứng minh rằng tánh chất tội thể nào, là sở dĩ tại chính tội thể ấy mà thôi. Vì tánh tình tội ác của tôi chẳng ở ngoài tôi, bèn là ở trong chính bản ngã của tội. Tánh ấy không phải mới sa ngã lúc tôi phạm kỷ tội lần đầu nhứt, bèn đồng thể với A-đam mà sa ngã lúc ông ấy trái mạng Đức Chúa Trời lần thứ nhứt vậy. Kinh Thánh và lương tâm tôi minh chứng rằng tôi có trách nhiệm về bản tánh hủ bại ấy đến đỗi tôi không dám đổ thừa cho nguyên tổ hay kẻ khác, duy tự cáo mình là nguồn gốc của sự hủ bại gian ác đó thôi.c) Không thể đổ thừa tội của A-đam cho ta, vì ta không thể ăn năn tội ấy.Lời dị nghị ấy không phân biệt phạm tội bề ngoài với sự phản loạn bề trong. Trong nguyên tổ ta trước hết có sự phản loạn bề trong từ bản tánh của người, rồi mới hình ư ngoại trạng bằng việc ăn trái cấm đó. Chúng ta thật không thể ăn năn tội ăn trái cấm của cá nhân A-đam, vì ấy là việc riêng của người, hiệu quả của sự phản loạn bề trong. Nhưng ta có thể ăn năn tội phản loạn bề trong, vì tội ấy thành hình ở trong bản tánh của A-đam là bản tánh chung của nguyên tổ và chúng ta; ở nơi chúng ta thường cũng có ngoại trạng bằng sự phạm các kỷ tội vậy. Nói cho đúng, thì tín đồ hay ăn năn về bản tánh hủ bại ngỗ nghịch đó hơn hết; thậm chí được gần gũi cùng Đức Chúa Trời bao nhiêu thì gớm ghê, buồn bã, và thống hối về nó bấy nhiêu. Chúng ta biết Đức Chúa Trời chẳng tạo thành bản tánh hủ bại của ta như vốn có hiện bây giờ. Ta tự cảm biết sự hủ bại và lòng phản loạn cùng Đức Chúa Trời; cũng tự cảm biết sự hủ bại ấy chẳng tại Đức Chúa Trời đâu, bèn là tự cảm xúc minh bạch rằng duy tại bản tánh mình phạm tội đó thôi. Nhưng nếu sự hủ bại ấy không phải tự mình mà ra,thì cũng chẳng có thể cảm xúc gì về trách nhiệm đối với nó. A-đam phạm tội theo hai phương diện, là phương diện cá nhơn và phương diện bản tánh chung của cả loài người. Vả, vì cá nhơn và bản tánh chung của loài người lúc ấy không chia rẽ nhau ra, nên tội của cá nhơn A-đam tự nhiên can thiệp đến bản tánh chung của loài người, khiến cho nó mắc tội và bị hủ bại. Bản tánh ấy đã mất sự công nghĩa nguyên bản, bị mắc nợ nặng cùng Đức Chúa Trời, nhưng chẳng có gì trả lại được.Bản tánh hủ bại ấy A-đam di truyền cho hậu tự người, khiến cho họ cả thảy đều trở nên kẻ có tội. Nói một lời, trong A-đam, cá nhơn khiến cho bản tánh mắc tội;trong hậu tự người, bản tánh khiến cho cá nhơn mắc tội vậy.d) Nếu ta có trách nhiệm về tội thứ nhứt của A-đam thì cũng chắc phải có trách nhiệm về các tội khác của người và đến cả ông bà tổ tiên khác nữa.Xin đáp: Bản tánh loài người chỉ sa ngã một lần; nó sa ngã trong A-đam trước khi ông chưa ăn trái cấm, nhưng được tỏ ra trong sự ăn trái ấy. Các tội lỗi mà A-đam phạm sau việc ấy, và các tội lỗi của tổ tiên khác, chẳng có thể thay đổi bản tánh loài người nữa, duy tỏ rõ bản tánh ấy đã ra thể nào đó thôi. Kinh Thánh hạn chế cho lẽ đạo nầy minh bạch lắm mà rằng:“Con sẽ không mang sự gian ác của cha.” (Exe 18:20; Lu 13:2,3; Gi 9:2,3). Kỳ thực, ông bà tổ tiên có khi di truyền lại cho cháu chít những khuynh hướng xấu xa đặc biệt như sự ghiền rượu, sự tham lam, sự dâm dục v…v. Nhưng mà cá nhơn con cháu chẳng có trách nhiệm về cha ông, mặc dầu người đã lưu lại các khuynh hướng xấu ấy; cũng chẳng bị Đức Chúa Trời đổ tội ấy của tổ tiên lại cho. Song con cháu quả có trách nhiệm về cái nguyên tội vốn khiến cho cả giống loài người phản loạn cùng Đức Chúa Trời; cũng có trách nhiệm về tánh hủ bại, sự không vâng phục và sự phạm tội do đó mà ra.e) Nếu có thể di truyền lại nguyên tội và án phạt của A-đam cho con cháu, thì tín đồ chắc cũng có thể di truyền lại cho con cháu sự công nghĩa và đức tin nữa.Đáp: Nguyên tổ chỉ di truyền lại bản tánh hủ bại, chớ chẳng lưu lại những tư cách phẩm hạnh riêng hoặc tốt hoặc xấu.Sự sinh thực thiên nhiên chẳng di truyền kỷ tội lại, chỉ lưu lại cho mọi người cái tội thuộc về cả giống mà thôi. Sự công nghĩa và đức tin đều thuộc về tư cách và phẩm hạnh thuộc linh, nên không thể di thuyền bởi sự sinh thực được. Giả như người học thức cao thượng kia không thể lưu lại cho con cháu mình sự học thức của mình; nhưng chỉ lưu lại cho nó cái dốt nát đó thôi. Cũng vậy, tín đồ công nghĩa đạo đức không thể lưu lại cái phẩm cách quí ấy cho con cái mình; chỉ có thể lưu lại tánh hủ bại hay xu hướng về tội lỗi đó thôi.Chương 6: TỘI LỖI TRÀN LAN KHẮP NƠIKinh Thánh dạy đành rành tội lỗi đã lan tràn khắp vũ trụ, chẳng trừ một nơi nào cả.I. TỘI CAN HỆ VỚI TRỜITội lỗi chắc cũng can hệ đến cõi trời, bởi vì sự sa ngã của Sa-tan xảy ra ở cõi ấy. Trong sách Gióp, ta thấy Sa-tan có thể vào trên trời, yết kiến Đức Chúa Trời (Giop 1:6). Mà kỳ thực nơi nào nó có thể đụng đến, cũng chẳng khỏi bị ảnh hưởng của nó ít nhiều. Thiết tưởng dẫu trên trời chẳng bị tội như ở dưới đất, thì cũng chắc đã cảm xúc ảnh hưởng của nó. Xem Xa 3:1, Lu 10:18 và Kh 12:7-9, thì hình như cõi trời thật cũng phải bị sự vận động của Sa-tan, ít nữa vào lúc trước khi có sự chết và sự sống lại của Christ. Vả lại,hiện nay các nơi trên khoảng không trung đều đầy các quỉ sứ của Sa-tan, hằng chiến đấu mà làm khó cho tín đồ của Chúa (Eph 1:3; 2:6; Eph 6:11,12). Cũng chắc vì cớ ảnh hưởng tội đã hệ lụy đến cõi trời mà sau rốt Đức Chúa Trời sẽ phải thiêu hủy cả trời đất, rồi dựng nên một trời mới đất mới, là nơi chẳng có cảm biết ảnh hưởng của tội ác nữa vậy.II. TỘI TRÀN KHẮP TRÁI ĐẤTSự sa ngã của nguyên tội ta với nguyên tội do đó mà ra đã tràn khắp trái đất, trong sáu cõi chẳng cõi nào không cảm biết đến.Tội tràn lan ra bao nhiêu thì làm thiệt hại cho loài người bấy nhiêu, đến đỗi ta có thể nói rằng như chữ lớn ở trên trời là THÁNH, thì chữ lớn ở giữa thế gian là TỘI. Kê cứu Kinh Thánh thì thấy cả loài sống ở địa cầu đều bị tội.1. Loài thực vật bị rủa sả:Nguyên tổ ta mới phạm tội, thì Đức Chúa Trời bèn lên án cho trái đất phải bị rủa sả, sanh ra chông gai tật lê, kết cuộc là hoang vu son sẻ. Chỉ khi Christ tái lâm, lập Nước bình an Ngài trên đất nầy, thì loài thực vật mới được giải cứu khỏi sự rủa sả khốn nạn ấy. Kinh Thánh có câu: xem Sa 3:17,18; Es 55:132. Loài thú bị rủa sả: Tại cớ tội lỗi mà loài thú cũng bị rủa sả, phải ở trong phạm vi khốn nạn đau đớn.Khi Chúa Jesus trở lại, loài thú cũng sẽ được phóng thích khỏi sự khốn nạn đau đớn ấy. Kinh Thánh chép: xem Ro 8:22; Es 11:6-93. Loài người bị tội lỗi: Tội của nguyên tổ ta đã di truyền cho khắp cả giống loài người, khiến cho hết thảy đều bị tánh ác và tội hình. Mỗi người mới sanh ra đời nầy đều bị linh tánh hủ bại rồi, và nếu họ sống đến tuổi lớn khôn, biết phân biệt phải quấy thì ắt phạm tội riêng nữa. Kinh Thánh có câu chứng rằng: xem Lu 6:43-45; Ma 12:34; Thi 58:3. “Kẻ ác bị sai lầm từ trong tử cung. Chúng nó nói dối lầm lạc từ khi mới lọt lòng mẹ.”Tánh hủ bại ấy chẳng người nào có sức tự mình đổi được, cũng như Giêrêmi nói rằng: xem Gie 13:23.Linh tánh hủ bại ấy là địa vị hư mất của linh hồn đương bị “chết vì sự vi phạm và tội lỗi mình… vốn là con của sự thạnh nộ” (Eph 2:1-3).Luận về tội tràn khắp vũ trụ, có nhà thần đạo dạy rằng: “Bất luận là tội lỗi hay là sự cứu chuộc, cả hai đều bắt đầu ở trên trời, và từ trời xuống đất. Phần lớn trong chức vụ của Christ thì Ngài thi hành ở trên trời, và cũng vì cớ trên trời mà làm nữa (He 9:23). Sa 1:1 minh chứng rằng sự thông công trời đất vốn rất khắng khít, vì hai cõi ấy cùng được dựng nên một lần. Loài người vốn dự phần về trái đất, mà cũng dự phần về trên trời nữa (ICo 15:49). Christ từ trời giáng sanh, rồi trở lên trời, lại sẽ từ trời tái lâm.Trong Kinh Thánh khi nói đến trời đất, thường đặt chữ trời trước chữ đất, để chứng rằng theo ý chỉ Đức Chúa Trời, trời phải chủ trị đất. Trời đất mới sẽ là hiệu quả của công việc cứu chuộc của Jesus Christ, trong đó chẳng có ảnh hưởng của tội lỗi chút nào cả, vì sẽ là quê hương của sự công nghĩa thánh khiết đến vô cùng.”Kinh Thánh có chép rằng: xem Es 65:17; IIPhi 3:13; Kh 21:1Chương 7: HIỆU QUẢ CỦA TỘI LỖISự sa ngã phạm tội của nguyên tổ có hiệu quả rất buồn bã khốn nạn đối với cả loài người; không những là có ảnh hưởng tự nhiên hệ lụy đến thân thể và sự sanh hoạt của người, nhưng cũng có hiệu quả hệ lụy đến linh hồn người và họa hoạn trong đời sau, chuốc lấy cho người án phạt tội hình đời đời nữa vậy. Xin chia chương nầy ra ba đề, luận qua như sau đây:I. LOÀI NGƯỜI BỊ HỦ BẠINhư đã thấy, tội lỗi kết quả tánh hủ bại trong A-đam. Tánh A-đam di truyền tánh hủ bại ấy lại cho cả hậu tự người, khiến cho tánh của họ cũng bị hủ bại. Thành thử, mỗi người sanh ra trong đời đều có một bản tánh hủ bại từ lúc mới hoài thai trong lòng mẹ; tánh ấy gọi là “tội”, chỉ đợi cơ hội tâm trí phân biệt phải quấy được thì ắt lôi kéo người sa vào bao hành động gian ác mà phạm đủ thứ kỷ tội, can lụy đến Đức Chúa Trời, trái luật Ngài, làm thiệt hại cho kẻ lân cận và chính mình nữa.1. SỰ GIÃI BÀY TÁNH HỦ BẠISự hủ bại nầy được tỏ ra trong loài người theo sáu phương diện như luận sau đây:a) Thiếu lòng yêu mến Đức Chúa Trời: Mọi tội nhơn thiếu hẳn lòng yêu mến Đức Chúa Trời, mà phạm điều răn đầu nhứt của luật đạo đức. Luật ấy đòi: “Ngươi hãy hết lòng, hết linh hồn, hết trí ngộ mà yêu mến Chúa, là Đức Chúa Trời ngươi” (Ma 22:37). Song Chúa Jesus chứng cho loài người rằng: “Ta biết các ngươi rồi, chẳng có sự yêu thương Đức Chúa Trời ở trong các ngươi đâu” (Gi 5:42).b) Cố quyết đặt sự tự tư lợi trước Đức Chúa Trời: Mọi tội nhơn cố quyết trong mọi sự đều đặt sự tự tư tự lợi trước Đức Chúa Trời, cốt ý để làm thỏa lòng riêng, chẳng chút nào tìm cách làm thỏa lòng Đức Chúa Trời. Xem IITi 3:2-4c) Có lòng oán hận Đức Chúa Trời: Mọi tội nhơn hằng có lòng oán hận Đức Chúa Trời. Có lẽ ban đầu nó ẩn bí trong lòng,nhưng khi gặp cơ hội mà ý muốn mình phản đối với ý chí Đức Chúa Trời, thì lòng oán hận ấy liền tỏ ra rõ rệt trong hành vi ngỗ nghịch. Xem Ro 8:7d) Coi mình là quí hơn Đức Chúa Trời: Mọi tội nhơn vì lòng tư kỷ đã coi mình quí hơn Đức Chúa Trời, nên các tài năng của người đều bị hủ bại hỗn độn thập phần. Xem Eph 4:17,18; Tit 1:15IICo 7:1 Phao-lô cũng ngầm dạy rằng cả phần xác lẫn phần linh của ta đều bị dơ bẩn hết.e) Bất hiệp với Đức Chúa Trời mọi bề: Tội nhơn chẳng có một tư tưởng, một cảm xúc, hoặc một việc làm mà đức tánh thánh khiết của Đức Chúa Trời công nhận là xứng hiệp được. Đức Chúa Trời nghiêm chứng rằng: xem Ro 3:10-12. Phao-lô cũng chép rằng: xem Ro 7:18f) Tiệm tiến trong sự hủ bại mãi: Tội nhơn bị bắt phải phục một luật khiến cứ tiệm tiến trong sự hủ bại mãi, đến đỗi dẫu muốn chống cự quyền tiến hành của luật ấy, cũng chẳng có sức gì mà làm nổi.Trong thơ Rô-ma Phao-lô chứng rằng: xem Ro 7:18, Ro 7:19, Ro 7:232. SỰ KẾT QUẢ CỦA TÁNH HỦ BẠICó nhà thần đạo kia luận về sự hủ bại của tâm tánh loài người mà rằng: “Tội lỗi bịt lỗ tai loài người (Cong 28:27), làm mù mắt trí khôn họ (Eph 4:18), làm hủ bại ái tình họ (Ma 13:15), khiến cho chơn bước lạc đường chánh (Es 53:6), làm cho ý chí chăm về xác thịt (Ro 8:7), khiến cho lụt tài độn trí (IICo 2:9-14), làm thiệt hại linh hồn (Ch 8:36), khiến lưỡi ra độc hiểm (Ro 3:13,14), làm cho tay nên biếng nhác (Ch 21:25), giết chết cả thân thể lẫn tâm linh (Ro 5:12), cướp giựt khỏi nhà cha (Lu 15:17), rốt cuộc bị phú cho Sa-tan bắt phục áp chế (Eph 2:2).3. MƯỢN BIỆT LOẠI ĐỂ GIẢI THÍCH TÁNH HỦ BẠIKinh Thánh sánh tội nhơn với, (1) con rắn hổ,vì rất độc (Thi 140:3); (2) con lừa, vì rất cố chấp (Giop 11:12); (3) con gấu,vì rất hung dữ (Da 7:5); (4) sâu lột vỏ, vì hay cắn phá quá (Gio 2:25); (5) con chó, vì ô uế quá (Ch 26:11); (6) chó rừng, vì thích nơi hoang vu (Giop 30:29);(7) con chồn cáo, vì quỉ quyệt lắm (Lu 13:32); (8) con beo, vì độc dữ (Da 7:6);(9) con sư tử, vì hay gầm hét (Thi 22:13); (10) con chiên, vì ngu dại (Es 53:6); (11) màng nhện, vì rất mỏng mảnh (Es 59:5); (12) con heo, vì rất dơ dáy (IIPhi 2:22); (13) rắn lục, vì rất độc hiểm (Ma 23:33); (14) muông sói, vì hay cắn xé (Gi 10:12).Nói một lời, sự hủ bại của tâm tánh do tội mà ra tràn ra khắp cả cá nhơn, chẳng có phần nào trong người mà không toàn bị sự hủ bại ấy. Khi người không chịu vâng phục ý chí Đức Chúa Trời, thì trái lương tâm, khiến cho tâm trí đức dục bị tối tăm, ý dục bị yếu đuối, cảm tình bị lãnh đạm; lương tâm lần lần bị lì lợm, kết liễu là lìa bỏ Đức Chúa Trời hằng sống,mà bị hư mất đời đời vậy.Cảm tạ Đức Chúa Trời! Đối với sự hủ bại hoàn toàn lại có sự cứu rỗi trọn vẹn. Christ hằng thi ân cho tội nhơn để ngăn cản tội lỗi cứ bành trướng ra, khuyên lơn hãy ăn năn trở lại cùng Ngài. Vì “Ngài có thể cứu trọn vẹn những kẻ nhờ Ngài mà đến gần Đức Chúa Trời, vì Ngài hằng sống để cầu thay cho họ.” (He 7:25).II. TỘI TRÁCH CỦA LOÀI NGƯỜI1. CHÂN TÁNH CỦA TỘI TRÁCHVì cả giống loài người đã trái luật pháp thánh và công nghĩa của Đức Chúa Trời, nên phải chịu tội trách trước mặt Đức Chúa Trời. Luật pháp ấy đòi phải hình phạt tội nhơn để làm phu phỉ sự công nghĩa của Đức Chúa Trời và bảo vệ sự thánh khiết của Ngài. Sự đoán phạt ấy Kinh Thánh thường gọi là “sự thạnh nộ của Đức Chúa Trời” (Ro 1:18). Sự thạnh nộ ấy rất đáng kinh hãi khủng khiếp và mọi tội nhơn đều cảm xúc sự kinh khủng ấy, bởi vì ai nấy đều cảm biết mình là phạm nhơn. Hoặc là tâm tánh hủ bại, hoặc là các ác tập riêng, cả thảy đều gọi là tội, phản nghịch cùng Đức Chúa Trời, trái ý Ngài,và chuốc lấy cho phạm nhơn cơn thạnh nộ của Ngài. Kinh Thánh có câu chứng rằng:xem Thi 7:11; Gi 3:18,36Kinh Thánh cũng dạy rõ lắm rằng tội nhơn hẳn phải đền tội, hoặc là bởi sự chịu hình phạt, hoặc là bởi sinh tế. Xem He 9:22Tân Ước có chỗ tả sự mắc tội ví như mắc nợ:xem Ma 6:12; Lu 13:4;Nếu không ai trả nợ giùm cho, thì tội nhơn chẳng có gì mà trả, ắt phải bị bỏ trong ngục cho đến đời đời đó thôi. Cũng xem Ma 5:21; Ro 3:19; 6:23; Eph 2:3.2. ĐẲNG LƯỢNG CỦA TỘI TRÁCHKinh Thánh dạy rằng trong tội trách có đẳng lượng khác nhau, như tội nầy nặng hoặc nhẹ hơn tội kia. Các thứ hy sinh mà luật pháp Môi-se bảo dân Y-sơ-ra-ên phải đem dâng lên cũng vì các thứ tội khác nhau của họ, với các sự thưởng phạt khác nhau trong cuộc xét đoán của Đức Chúa Trời,thảy đều minh chứng cho lẽ thật ấy. Kinh Thánh dạy rằng: xem Lu 12:47,48; Ro 2:5,6; Gi 19:11; He 2:2,3. Cũng xem He 10:28,29.3. NHỮNG LOẠI TỘI LỖIKinh Thánh phân biệt các tội lỗi ra những loại đặc biệt như sau đây:a) Tâm tánh tội và công việc tội:Tâm tánh hủ bại của loài người tuy là tội, nhưng nhẹ hơn công việc tội do nó mà ra. Khi cá nhơn chưa làm theo sự xu hướng ác của tâm tánh ấy, thì chỉ mắc nguyên tội mà thôi; nhưng khi phạm kỷ tội, thì theo ý chí tự do mà cố quyết chiều tánh hủ bại đó mà phản nghịch cùng Đức Chúa Trời, khiến cho linh hồn bị hủ bại thêm nữa. Nói cho đúng, thì loài người chỉ có thể nhờ công việc tội mình mà cảm biết sự hủ bại hư hỏng của tâm tánh riêng. Nên chi trong khi giảng đạo Chúa,nhà truyền đạo nên chú trọng về các thứ kỷ tội và ác tập riêng của người ta, ứng dụng luật pháp Đức Chúa Trời cho các tội ấy, mới mong khiến cho họ tỉnh thức và ăn năn vậy.b) Sự không biết mà phạm tội. Sự biết rõ mà lại phạm tội: Đức Chúa Trời theo sự hiểu biết của phạm nhơn mà đoán định tội nặng hay nhẹ. Người sanh ra giữa xã hội có phong hóa, trong nhà có giáo dục, làm người biết luân thường đạo đức, rõ ý muốn Đức Chúa Trời mà lại sa vào tội, thì tội kẻ đó tất nhiên nặng hơn, vì dẫu biết rõ lẽ phải, mà lại cố ý làm điều quấy. Thế thì, sự định tội cho người nào rất có quan hệ với tài hiểu biết phải quấy của người ấy. Chính Chúa Jesus dạy rằng: xem Ma 10:15; Lu 12:47,48.Khi Ngài bị treo trên cây gỗ, thì cầu rằng:“Lạy Cha xin tha cho họ, vì họ không biết mình làm điều gì.” (Lu 23:34). Nếu kẻ đóng đinh Ngài vào cây gỗ đó đã biết rõ việc họ làm đó là tối cực kỳ nặng nề,thì chắc không thể được tha. Cũng xem Cong 17:30; Ro 1:32; Ro 2:12; ITi 1:13,ITi 1:15, ITi 1:16.c) Tội tình cờ phạm và tội hằng phạm: Hễ ai tình cờ sa sảy, ngã vào tội lỗi, thì mắc tội nhẹ hơn kẻ hằng phạm tội không chịu chừa. Tội hằng phạm lần lần khiến cho phạm nhơn lì lợm, kết cuộc lìa bỏ Đức Chúa Trời hằng sống (He 3:12).d) Tội của bực cao và bực thấp:Tra xét luật pháp về các của lễ chuộc tội, thì thấy thầy tế lễ phải dùng bò,còn con nhà bá tánh lại dùng dê. Vật tế lễ ấy chẳng đồng nhau, vì cốt ý phân biệt tội nặng với tội nhẹ. Bực thầy tế lễ phạm tội lại càng nặng hơn, vì là ngôi cao chức trọng, ảnh hưởng tội ấy quan hệ hơn sự vi phạm của thường dân nhiều lắm.Bao giờ cũng vậy, tội của ngôi cao chức trọng cũng nặng hơn tội của người bình thường, vì gương và ảnh hưởng của tội ấy rất quan trọng hơn, gây cho nhiều kẻ khác vấp phạm nữa.e) Tội cố phạm và tội yếu đuối phạm: Kẻ cố ý phạm tội lấy ý chí mình mà cố quyết làm quấy. Tội ấy nặng lắm. Nhưng kẻ nào vì yếu đuối mà phạm tội, tuy việc vi phạm ấy thật cũng là tội, nhưng là tội nhẹ hơn tội cố phạm. Đa-vít cầu nguyện rằng: “Xin Chúa tha các lỗi tôi không biết.Xin Chúa giữ kẻ tôi tớ Chúa khỏi cố ý phạm tội.” (Thi 19:12,13). Tiên tri Ê-sai nghiêm huấn rằng: “Khốn cho kẻ lấy sự dối trá làm giây kéo sự gian ác theo sau,và như dùng đõi xe kéo tội lỗi” (Es 5:18). Ý câu ấy là phạm nhơn không tình cờ hoặc ngộ phạm tội đâu, bèn là chuyên tâm cố ý làm sự gian ác, và bền đỗ làm mãi. Các thứ tội ấy rất nặng nề, thường gây nên lòng cứng cỏi, lương tâm lì lợm vậy.f) Tội phạm cùng Thánh Linh:Trong vòng các thứ tội mà Kinh Thánh tả ra, có một tội gớm ghê và đáng sợ hơn hết ấy là tội phạm cùng Thánh Linh. Về tội ấy Kinh Thánh dạy rằng:(1) Là tội cố ý kể công việc của Thánh Linh do ma quỉ mà ra: Tội phạm cùng Thánh Linh là việc cố ý kể công việc của Thánh Linh là do ma quỉ mà ra. Trong Ma 12:24 bọn Pha-ri-si đều coi công việc đuổi quỉ và các phép lạ của Chúa Jesus làm là việc của chúa quỉ.Trong Ma 12:31 và Ma 12:32 Chúa Jesus tỏ ra ai nói như vậy là lộng ngôn cùng Thánh Linh.(2) Là tội đời đời không thể được tha: Tội phạm cùng Thánh Linh là tội đời đời. Trong Mac 3:29 Jesus phán: “Ai lộng ngôn với Thánh Linh thì đến mãi mãi chẳng được tha, nhưng mắc tội đời đời.”Các thứ tội khác thì có thể được tha, nhưng ai phạm tội với Thánh Linh đến mãi mãi cũng chẳng hề được tha, vì phải mắc tội ấy đến đời đời. Tại sao tội ấy không được tha? Chắc tại vì hễ linh hồn nào phạm tội cùng Thánh Linh đã trở nên cứng cỏi và lì lợm, đến đỗi không còn thể nào nhận lãnh sự cảm hóa của Thánh Linh nữa, không còn thể nào cảm xúc hoặc tội lỗi hoặc ân điển; dầu Đức Chúa Trời hết sức dùng đạo Ngài để khích lệ tỉnh thức người ấy, cũng chẳng có ích gì. Phạm nhơn đã mất lương năng nhận ân điển của Đức Chúa Trời, nên không thể nào ăn năn, cũng không thể nào được tha thứ. Giả như người kia khoét cả hai con mắt mình, thì không thể nào thấy gì được, chẳng cách gì có thể khiến người được sáng mắt lại. Cũng vậy, nếu ai cố ý phạm tội luôn, thì lần lần tuyệt diệt lương năng tín nhận sự tha thứ của Đức Chúa Trời, đến đỗi kết cuộc phải đứng vào địa vị tuyệt vọng. Dầu Đức Chúa Trời vẫn là Đấng nhơn từ thương xót, sẵn lòng tha thứ, thì phạm nhơn ấy không thể được tha, vì không thể hiểu thấu Ngài thương xót, cũng chẳng có thể tín nhận sự tha tội được.(3) Là tội cố ý chối sự cứu chuộc của Christ: Tội phạm cùng Thánh Linh là cố ý chối bỏ sự cứu chuộc của Jesus Christ. Trong He 10:26 có câu rằng: “Vì nếu chúng ta đã nhận biết lẽ thật rồi, mà lại cố ý phạm tội, thì không còn có sinh tế chuộc tội nữa, duy có sự kinh khiếp chờ đợi sự phán xét, và lửa hừng sẽ thiêu đốt các cừu địch đó thôi.” Còn trong He 6:4-6 thì dạy rằng: “Vì chưng kẻ đã được soi sáng một lần (tức là đã được sự sáng bởi Chúa là ánh sáng đời đời)… nếu lại rời bỏ, thì không thể khiến cho họ đổi lại mà ăn năn nữa, vì họ lại tự đem Con Đức Chúa Trời mà đóng đinh trên thập tự giá nữa, bêu xấu Ngài tỏ tường.” Kẻ nào cố ý chối bỏ Christ, cũng như dân Do Thái xưa, chối bỏ sự cứu chuộc có một không hai của Đức Chúa Trời ban xuống; nên đối với người ấy không còn có hi vọng được cứu nữa,bởi vì cố ý chối bỏ phương pháp cứu rỗi mà Đức Chúa Trời đã ban trong Jesus Christ. Người dường ấy vẫn bình yên lắm, vì lòng đã chai đá, chẳng còn cảm xúc sự cắn rứt của lương tâm nữa. Kỳ thực, hễ ai ngại mình đã phạm tội cùng Thánh Linh và vì cớ ấy lo sợ buồn rầu, xác chứng rằng mình chưa phạm tội ấy; bởi vì nếu thật đã phạm tội ấy rồi, quả chẳng cảm xúc sự lo buồn gì cả, và chẳng bao giờ ước ao được tha thứ nữa.Giáo hoàng César Borgia (Alexandre VI) vốn là giáo hoàng đầy dâm dục, cử chỉ theo tánh hung ác tàn nhẫn cực điểm. Dầu vậy,lịch sử tả thuật ông ấy vẫn giữ nét vui vẻ hiền lành, tỏ ra tánh tình đa cảm và khiêm nhường. Tuy ông đã phạm đủ thứ tội rất trọng như gian dâm, loạn luân, cướp bóc, chém giết cha mẹ, đầu độc anh em, bán thầy, làm chứng dối,v…v., thì suốt đời ông chẳng bao giờ tỏ vẻ bị lương tâm cắn rứt chút nào, đến giờ qua đời ông vẫn cứ tin nữ đồng trinh Mari bảo hộ mình, ban cho mình được an nhiên vô sự trọn vẹn. Ông ấy chắc phạm tội cùng Thánh Linh, mới mất lương năng cảm xúc tội và ơn ăn năn vậy. Ông Jeremy Taylor tả ra thế nào tội tấn triển trong tội nhơn, mà rằng:“Lần đầu tội khiến cho tội nhơn kinh hoảng, sau thì thỏa thích, sau nữa lại khoái lạc; nếu cứ phạm mãi thì thành thói quen. Rốt lại phạm nhơn ghiền cụp,không thể ăn năn, rồi cố chấp quyết định không muốn ăn năn; kết cuộc là hư mất đời đời vậy.”Nói một lời, tội phạm cùng Thánh Linh chẳng phải là tội tình cờ mà phạm, bèn là sự kết quả của sự cố phạm trải qua nhiều năm, cố ý từ chối lẽ thật và ân điển của Đức Chúa Trời, tự làm lòng cứng cỏi và ngỗ nghịch cùng Đức Chúa Trời, đến đỗi không còn năng lực gì nữa có thể khiến người ấy ăn năn để cứu rỗi được (IGi 5:16,17).III. SỰ HÌNH PHẠT CỦA TỘI1. ĐỊNH NGHĨASự thánh khiết của Đức Chúa Trời hằng phản nghịch với tội lỗi hoài, đến đỗi kẻ trái luật phải bị đau đớn khổ sở cả về phần thuộc linh lẫn về phần thuộc thể nữa. Ấy là sự hình phạt tội. Mục đích về sự hình phạt tội chẳng phải là sửa lại phạm nhơn, cũng chẳng để ngăn ngừa kẻ khác trái luật Đức Chúa Trời, duy để bảo vệ đức thánh khiết của Đấng lập pháp đó thôi.2. HAI THỨ HÌNH PHẠTPhần nhiều nhà thần học đều phân biệt hai thứ hình phạt tội, là sự hình phạt gián tiếp và sự hình phạt trực tiếp.a) Hình phạt gián tiếp:Cái hiệu quả tự nhiên của tội lỗi ở trong cá phạm nhơn, như là sự hủ bại, bịnh hoạn, sự hỗn độn sanh ra trong tâm linh, tâm hồn và thân thể của con trai và con gái A-đam, đều thường gọi là sự hình phạt gián tiếp.Giả như người cha kia cấm không cho con mình leo lên cây, ngăm đe rằng nếu trái mạng, thì bị nhốt trong nhà ba ngày, mỗi ngày chỉ cho ăn một miếng bánh và uống một chén nước lạnh thôi. Nhưng đứa con ấy không vâng lời, cứ leo lên cây kia, rủi té xuống gãy tay, bị đau đớn khổ sở, phải nằm nhiều ngày mới lành được. Sự đau đớn và việc bị nằm nhiều ngày đó, gọi là hình phạt gián tiếp về tội của đứa con ấy. Nhưng khá nhớ rằng ấy chưa phải là sự hình phạt thật của tội đó đâu. Khi nó lành mạnh rồi, người cha phải theo lời răn he kia mà nhốt nó trong nhà ba ngày, mỗi ngày chỉ cho nó ăn một miếng bánh và uống một chén nước lạnh. Ấy gọi là sự hình phạt trực tiếp, do chính người lập pháp mà ra, để phạt tội chẳng vâng lời của đứa con đó. Nói đại khái, sự hình phạt tội trong đời nầy là thuộc về sự hình phạt gián tiếp vậy.b) Hình phạt trực tiếp: Sự hình phạt trực tiếp thuộc về cõi lai sanh, sẽ thi hành trên tội nhơn mà đã không khứng ăn năn trong buổi sanh tiền. Kinh Thánh thường mượn nhiều tư liệu khác nhau để tả vẽ cuộc hình phạt khốn nạn cực khổ dường nào. Sau đây xin kể lại ít từ liệu đó để làm chứng: (a) Sự sống lại để chịu xét đoán (Gi 5:28,29); (b)sự hình phạt diệt vong đời đời (IITe 1:9); (c) sự giận và cơn thạnh nộ, sự hoạn nạn khốn khổ (Ro 2:8,9); (d) sự ném xuống hồ lửa (Kh 20:15); (e) sự hình phạt của lửa đời đời (Giu 1:7); (f) lửa đời đời (Ma 25:41); (g) hồ lửa lưu hoàng cháy (Kh 19:20); (h) sự chết thứ hai (Kh 21:8); (i) vực sâu (nguyên văn: Tartarus)(IIPhi 2:4).Các từ liệu trên đây đều dự tả sự đoán phạt trực tiếp của tội nhơn không chịu ăn năn. Nhưng nếu kê cứu Kinh Thánh cho kỹ,thì có hai từ liệu Thánh Linh dùng nhiều hơn hết để dự tả cảnh trạng đáng ghê sợ ấy, tức là sự CHẾT và sự HƯ MẤT. Vậy, hễ ai muốn thấu rõ sự hình phạt tương lai của kẻ ác là thể nào, thì rất cần phải kê cứu hai danh từ ấy cho cặn kẽ mới mong hiểu thấu được.(1) Sự chết:Cái tổng qui của quả báo tội lỗi, tức là sự chết. Kinh Thánh thường dùng chữ chết (chữ Hilạp là thanatos) theo ba cách, tức là sự chết thuộc thể, sự chết thuộc linh, và sự chết vĩnh viễn.(a) Sự chết thuộc thể:Đương lúc tuyên án tội tại vườn Ê-đen, thì loài người nghe một lời phán rất sợ hãi rằng: “Ngươi sẽ làm đổ mồ hôi trán mới có mà ăn, cho đến ngày ngươi trở về đất, là nơi mà có ngươi ra; vì ngươi là bụi sẽ trở về bụi” (Sa 3:19). Từ A-đam trở đi, cả hậu tự người chẳng một ai thoát khỏi án ấy. Vả, sự chết thuộc thể là gì? Đáp: Ấy là linh hồn chia rẽ với xác thịt; linh hồn liền về hoặc với Chúa hoặc sa vào địa ngục; còn xác thịt tiêu tan ra tro bụi ở dưới đất. Lời cầu nguyện của Môi-se trong Thi 90:7-9,11, sự ngợi khen của Êxêchia trong Es 38:17,18, đều công nhận rõ ràng sự chết của xác thịt là sự trừng phạt của tội. Trong Tân Ước cũng dạy lẽ thật ấy, như trong Gi 8:44; Ro 5:12, Ro 5:14, Ro 5:16, Ro 5:17; Ro 6:33. Sứ đồ Phierơ gọi sự chết của xác thịt là sự đoán phạt của Đức Chúa Trời đối với tội (IPhi 4:6). Trong ICo 15:21,22 Phao-lô bày tỏ lẽ tương phản sự sống lại thân thể của tín đồ trong Christ với sự chết xác thịt của loài người trong A-đam. Ro 4:24, Ro 4:25; Ro 6:9, Ro 6:10; Ro 8:3, Ro 8:10, Ro 8:11; Ga 3:13 đều minh chứng rằng Christ cam chịu sự chết xác thịt là bị hình phạt vì tội của loài người, và nhờ sự từ kẻ chết sống lại mà chứng thực rằng tội ấy đã bị hình phạt rồi; loài người trong Ngài được kể là công nghĩa vậy. Như sự sống lại của xác thịt là một phần quan hệ trong sự cứu chuộc, cũng một thể ấy, sự chết xác thịt là một phần quan hệ trong cuộc hình phạt tội vậy.Nhưng nhờ sự chết và sự sống lại của Christ,nên sự chết chẳng còn gọi là sự hình phạt cho tín đồ nữa. Sự đau đớn khổ sở của nó chỉ là một cách Cha dùng để sửa trị con yêu dấu Ngài, một cửa Chúa mở cho tín đồ bước vào sự sống rộng rãi vinh hiển hơn đó thôi. Phao-lô chứng rằng: xem IICo 5:1-9; Phi 1:21,23(b) Sự chết thuộc linh: Sự chết thuộc linh là linh hồn người ta cách trở với Đức Chúa Trời mà tuyệt giao với nguồn phước thuộc linh. Người mới sanh ra, thì đã đứng trong địa vì chết ấy rồi,kết quả lương tâm cắn rứt, lòng mất bình yên, tâm linh buồn bã, và cả chỗ tương quan đức dục của linh hồn với Đức Chúa Trời đều hỗn độn trụy lạc mọi bề.Tuy sự chết xác thịt vốn một phần trong sự hình phạt tội, thì nó chẳng phải là phần quan hệ đâu, bèn là phần chết thuộc linh vậy. Kinh Thánh thường dùng danh từ “chết” theo nghĩa thuộc linh để minh giải về người nào phạm tội thì đã mất ân trạch và sự hiện diện của Đức Chúa Trời trong lòng. Khi nói về con hoang đàng ăn năn thì gọi nó là chết mà được sống (Lu 15:24). Tín đồ Êphêsô vốn thuộc trong hạng chết vì sự vi phạm và tội lỗi (Eph 2:1). Còn Hội thánh Sạtđe “có tiếng là sống nhưng mà là chết” (Kh 3:1); (Xem Gi 5:24; Gi 8:51; Ro 8:13; Eph 5:14; ITi 5:6; Gia 5:20; IGi 3:14, thì rõ hơn nữa).Khi A-đam vừa phạm tội tại Ê-đen, thì bị án chết nầy liền, linh tánh phải phân rẽ với Đức Chúa Trời, không còn được giao thông với Ngài như trước nữa. Chỉ có sự ăn năn tội, sự tái sanh bởi quyền năng của Thánh Linh có thể lập lại sự giao thông ấy, mà cứu linh hồn khỏi sự chết thuộc linh vậy.(c) Sự chết vĩnh viễn: Sự chết vĩnh viễn là sự chết thuộc linh hằng còn sau khi người đã chết thuộc thể rồi.Linh hồn vốn chết về phần thuộc linh, lìa khỏi phần thuộc thể thì cứ ở trong địa vị chết luôn luôn. Sự chết vĩnh viễn là sự chung kết của sự chết thuộc linh, một địa vị bề ngoài thích hiệp với cảnh trạng chết bề trong vậy.Vả, Kinh Thánh cũng gọi sự chết đời đời bằng sự chết thứ nhì (Kh 2:11; Kh 20:6, Kh 20:14; Kh 21:8). Sự chết thứ nhì ấy gọi là hồ lửa (Kh 20:14). Kẻ bị quăng vào nơi đó chẳng bị tuyệt diệt đâu, nhưng bị khổ sở cách tự cảm giác cho đến đời đời. Khi Thánh Linh tả vẽ sự hình phạt của Sa-tan, thì dự cáo rằng: xem Kh 20:10Câu ấy minh chứng rằng sự chết đời đời là ở một chốn mà kẻ nào bị quăng vào đó phải chịu khổ cả ngày lẫn đêm cho đến đời đời một cách tự cảm biết. Vì ta thấy con thú và tiên tri giả bị ném vào hồ lửa ấy trước, rồi một ngàn năm sau Sa-tan mới bị giam vào đó; nhưng con thú và tiên tri giả vẫn còn ở đó lúc ấy, đồng bị một thứ hình phạt với Sa-tan cả ngày lẫn đêm cho đến vĩnh viễn vậy.Tấn sĩ Torrey có luận về sự chết đời đời mà rằng: “Kinh Thánh thích nghĩa sự sống thì gọi sự sống chẳng những là sự thực hữu mà thôi, bèn là sự thực hữu xứng đáng, do sự hiểu biết Đức Chúa Trời chơn thật và bởi sự sống bày tỏ ra trong Jesus Christ. Trong Gi 17:3 Chúa Jesus phán: “Còn sự sống đời đời là nhận biết Cha, tức là Chơn Thần duy nhứt, cùng Jesus Christ,mà Cha đã sai đến.” Còn Giăng thì dạy rằng: “Luận đến Đạo của sự sống, là điều đã có từ ban đầu, là điều chúng tôi đã nghe, điều mắt chúng tôi đã thấy,đã ngắm và tay chúng tôi đã rờ (sự sống ấy đã được bày tỏ ra, chúng tôi đã thấy,và làm chứng cho, cũng truyền cho anh em sự sống ấy, tức là sự sống đời đời, vốn ở cùng Cha, và đã được tỏ ra cho chúng tôi rồi.” Ấy vậy, sự chết cũng chẳng phải là sự vô thực hữu đâu, bèn là sự thực hữu rất quấy quá, độc ác, đê hèn, khốn khổ.Còn sự chết thứ nhì là sự chung kết của đời tội lỗi, sự dự phần trong chốn cực khổ, là hổ lửa lưu hoàng cháy bừng bừng cả ngày lẫn đêm đó vậy.”(2) Sự hư mất:Kinh Thánh thường dùng chữ hư mất có hai cách, tức là theo nghĩa đen và nghĩa bóng.(a) Nghĩa đen: Trong Kinh Thánh thường dùng chữ “hư mất” (chữ Hilạp: apoleia) để tả ra vật gì bị hư,không còn thể nào lợi dụng nó về mục đích nguyên bản của nó nữa. Có thể quả quyết rằng chữ ấy chẳng có ý nghĩa tuyệt diệt; duy chỉ về cái gì bị hư, không dùng gì được nữa đó thôi.Trong Ma 9:17 chính Chúa dùng chữ ấy theo nghĩa đen mà rằng: “Cũng không ai đổ rượu mới vào bầu da cũ; nếu vậy thì bầu nứt, rượu chảy ra, và bầu hư mất.” Trong câu ấy ta thấy bầu đã bị nứt, nên cũng bị hư mất. Nhưng nó chẳng bị tuyệt diệt, vẫn còn, duy không còn có thể dùng nó để đựng rượu nữa. Trong Ma 26:8 cũng có dùng chữ ấy rằng: “Môn đồ thấy vậy, nổi giận, mà nói rằng: Sao uổng phí như vậy?” Bởi dầu trong bình bằng ngọc kia đã đổ ra trên đầu Chúa. Môn đồ thấy vậy thì trách, vì họ cho là sự uổng phí (nguyên văn: apoleia là hư mất). Theo nguyên văn nghĩa là dầu quí ấy bị hư mất,không còn có thể hốt lại để dùng xức cho ai nữa được, mặc dầu các hương liệu đó vẫn còn hoặc trên Chúa hoặc trên mặt đất.(b) Nghĩa bóng:Tân Ước cũng thường dùng từ liệu “hư mất” theo nghĩa bóng để tả ra sự hình phạt đời đời của kẻ ác. Trong những câu kể sau đây, nguyên văn đều dùng chữ apoleia cả:Ma 7:13. “… đường khoảng khoát dẫn đến sự hư mất.”Gi 17:12. “… chẳng một ai trong họ hư mất.”Ro 9:22. “… những bình đáng giận sắm sẵn cho sự hư mất.”Phi 1:28. “… đó là một chứng cớ rõ ràng họ phải hư mất.”Phi 3:19. “… kết cuộc họ là hư mất.”IITe 2:3. “… người đại tội, con của sự hư mất hiện ra.”ITi 6:9. “… khiến cho người ta đắm chìm trong sự bại hoại hư mất.”He 10:39. “Nhưng chúng ta nào phải là thuộc về kẻ rùn lại mà bị hư mất đâu.”IIPhi 2:3. “… sự hư mất của họ cũng chẳng ngủ.”IIPhi 3:16. “chuốc lấy sự hư mất cho mình.”Kh 17:8, Kh 17:11. “Con thú người đã thấy đó, trước có, rày không, sắp từ vực sâu lên, rồi đi đến chốn hư mất.”Vậy chữ “hư mất” theo mặt nghĩa bóng có nghĩa gì? Đáp: Khi dùng chữ ấy theo nghĩa bóng, thì cũng đồng nghĩa với nghĩa đen, tức là kẻ ác khi bị trừng phạt tương lai, thì chẳng bị tuyệt diệt, đến đỗi bản ngã nó phải tiêu mất, không còn thực tại nữa đâu; duy bị hư mất đối với mục đích nguyên bản mà Đức Chúa Trời đã dự định cho nó, tức là bị cách biệt Đức Chúa Trời và sự khoái lạc của nước Trời, trở nên vô ích cho Đức Chúa Trời, cho đồng loại, và cho chính mình nữa, phải ở trong chốn tối tăm cực khổ đến đời đời vô cùng vô tận vậy.Chữ “hư mất” cũng đồng nghĩa với từ liệu “sự chết đời đời” và “sự chết thứ hai”. Tại sao biết vậy? Đáp: Tham cứu Kh 17:8, Kh 17:11; Kh 19:20; Kh 20:14, thì rõ lắm sự chết thứ hai và hồ lửa là đồng nghĩa nhau, duy cùng tả ra một thứ hình phạt đó thôi.Lại hồ lửa ấy cũng gọi là chốn hư mất (Kh 17:11). Vậy, nếu sự hư mất cũng đồng nghĩa với hồ lửa, (Kh 17:8; Kh 19:20), thì tất nhiên sự hư mất và sự chết thứ hai cũng đồng nghĩa nhau. Thành thử, sự hư mất là sự chết thứ hai, mà sự chết thứ hai cũng là sự hư mất; cả hai đều là hồ lửa lưu hoàng cháy bừng bừng vậy.Đức Chúa Trời chẳng khải thị bao nhiêu về địa vị của kẻ bị hư mất ở đời sau, duy có vài chỗ nói đến sơ sơ, như truyện La-xa-rơ và người giàu có chép trong Lu 16:19-31 đó thôi. Có kẻ tưởng rằng truyện ấy chỉ là một giả thuyết thí dụ mà thôi; nhưng dám chắc là truyện tích thực đã xảy ra rồi. Chúa thuật lại cốt để cho ta hiểu biết vài điều quan hệ về cảnh trạng lai sanh của kẻ ác. Về người giàu có ở trong địa ngục, Chúa dạy rằng: (1) nó nhớ lại lúc sanh tiền (Lu 16:25); (2) cảm biết sự cực khổ quá đỗi (Lu 16:24); (3)kêu cầu cứu trợ (Lu 16:24); (4) lo sợ anh em còn sống trên đời cũng đến chỗ khốn khổ ấy (Lu 16:28); (5) thấy sự hạnh phước khoái lạc của kẻ được cứu (Lu 16:25);(6) cầu cứu trợ cũng vô ích, vì trong chốn hư mất không còn ân điển thương xót nữa (Lu 16:25, Lu 16:26); (7) ở giữa kẻ hư mất và người được cứu đã phân cách bằng một vực sâu rộng, không ai từ nơi nầy qua nơi kia được (Lu 16:26).Truyện tích trang nghiêm ấy dạy rõ rằng kẻ ác không khứng ăn năn chắc bị hình phạt ở trong hồ lửa một cách tự cảm biết đến đời đời vô cùng, là nơi lủa chẳng hề tắt, khổ chẳng hề thôi. Duy kẻ nào thật tình lìa bỏ tội lỗi, tín nhận Jesus Christ làm Cứu Chúa mình, mới thoát khỏi được địa vị khốn khổ đời đời ấy đó thôi. Vì chính Chúa Jesus dạy rằng: “Quả thật,quả thật ta nói cùng các ngươi: Ai nghe lời ta mà tin Đấng đã sai ta, thì có sự sống đời đời, không đến sự xét đoán, song đã vượt khỏi sự chết mà vào sự sống rồi”(Gi 5:24).

QUYỂN VI - LUẬN VỀ ĐẤNG CHRIST

PHẦN 1Chương 1: TỔNG LUẬN VỀ CHRIST LÀM CỨU CHÚAI. CHRIST LÀ SỰ BAN CHO CỦA ĐỨC CHÚA TRỜIĐức Chúa Trời và loài người vốn giao thông với nhau cách thân mật êm ái. Nhưng tiếc thay! Tội lỗi đã xen vào, khiến cho loài người sa ngã, mắc tội với Đức Chúa Trời, trở nên hủ bại. Sự phạm tội ấy đã gây nên một vực sâu thăm thẳm phân cách hai bên, loài người tự mình chẳng lấp bằng được, cũng không phương bắc cầu qua lại. Vậy, phải làm thế nào mà cứu rỗi loài người? Phải dùng cách nào bắc cầu qua vực sâu ấy mà lập lại sự giao thông giữa Đức Chúa Trời và loài người? Loài người đã không tự cứu mình được, thì rõ lắm nếu Đức Chúa Trời không động lòng thương xót mở rộng cửa ân điển, thì chẳng ai được cứu bao giờ, duy ai nấy đều phải bị hư mất trầm luân đời đời đó thôi.Cảm tạ Đức Chúa Trời! Điều loài người không thể tự làm được không thể tự làm được, thì Đức Chúa Trời đã làm rồi: Ngài đã ban Christ, Con độc sanh của Ngài, để làm Cứu Chúa cho loài người, làm cầu bắc qua vực sâu tội lỗi đó, hầu đem họ trở lại với Đức Chúa Trời mà lập lại sự giao thông thân mật êm ái như xưa. Xem Es 9:5; Ma 1:21; Lu 2:11II. ĐỘNG NHÂN BAN CHRIST LÀM CỨU CHÚAVậy, lấy động nhân gì mà khiến Đức Chúa Trời ban cho loài người Con độc sanh của Ngài làm Cứu Chúa của họ? Đại khái có bốn động nhân như sau đây:1. Lòng yêu thương của Đức Chúa Trời: Trù hoạch về phương pháp cứu rỗi do lòng yêu thương vô hạn vô lượng của Đức Chúa Trời. Đức tánh Ngài là sự yêu thương (IGi 4:8). Tình yêu thương ấy rất rộng rãi, cao sâu, chẳng ai dò lường được (Gi 15:13; Eph 3:8), đến đỗi không thể nào đành làm ngơ để mặc loài người bội nghịch mà bị hư mất đời đời; buộc lòng Đức Chúa Trời phải hi sinh Con yêu dấu của Ngài để cứu vớt họ. Chính Chúa Jesus có phán rằng: xem Gi 3:162. Đức thánh khiết của Đức Chúa Trời: Ta đã biết sự thánh khiết là đức tánh đầu nhứt của thể yếu Đức Chúa Trời; khi được tỏ ra cho chúng ta thì gọi là đức công nghĩa tuyệt đối. Vả, về phương diện nầy thì thể yếu của Đức Chúa Trời là yêu thương vô hạn; về phương diện kia, lại là công nghĩa tuyệt đối. Lòng yêu thương rất muốn cứu rỗi, tha thứ cho loài người. Nhưng đức công nghĩa không thể tha thứ cho loài người nếu không có sự đền tội trước đã. Bằng chưa có sự đền tội,mà lại tha thứ cho, ấy là phản nghịch hẳn với sự công nghĩa của Đức Chúa Trời.Nhưng nếu Ngài thực hành tội án trên loài người, thì loài người phải chịu trầm luân đời đời ở nơi địa ngục, và mục đích về sự tạo thành họ cũng hư mất luôn nữa.Ôi! Điều bi thảm ấy là điều lòng yêu thương của Đức Chúa Trời không thể chịu nổi.Thành thử, đức công nghĩa và lòng yêu thương của Đức Chúa Trời hiệp lại làm động nhân rất có năng lực khiến cho Ngài phải tạo ra phương pháp cứu rỗi bởi Jesus Christ, Đấng Thần nhân, nhờ ở trong thân thể Ngài mà đã vừa bảy tỏ ra lòng yêu thương tối thượng ấy, vừa theo sự công nghĩa tuyệt đối mà làm tế lễ đền tội, hầu cho nhờ đó bắc cầu qua vực sâu phân tách loài người với Đức Chúa Trời, đem họ trở lại, tái lập sự giao thông với Ngài như xưa. Nên Kinh Thánh có chép rằng: Xem Ro 5:8. Còn sự chết ấy Phao-lô lại chứng rằng là: xem Ro 3:263. Sự khôn ngoan của Đức Chúa Trời: Ân cứu rỗi của thập tự giá do sự khôn ngoan của Đức Chúa Trời trù hoạch, nhờ sự khôn ngoan của Đức Chúa Trời mà làm ra, cũng bởi sự khôn ngoan ấy mà được thành công trọn vẹn. Thực, chỉ sự khôn ngoan tuyệt đối của Đức Chúa Trời có thể trù hoạch một phương pháp cứu rỗi thần diệu dường ấy, có linh nghiệm đủ để vừa thỏa mãn lòng yêu thương của Đức Chúa Trời, vừa làm phu phỉ đức công nghĩa của Ngài. Phao-lô dạy rõ ràng một động nhân khiến cho Đức Chúa Trời ban Christ làm Cứu Chúa ta là sự khôn ngoan đời đời của Ngài, đến đỗi chính Christ là sự hiển hiện của sự khôn ngoan ấy. Xem ICo 1:21,23,244. Quyền năng của Đức Chúa Trời: Đức Chúa Trời không những là nhờ sự khôn ngoan Ngài mà trù hoạch sự cứu rỗi, Ngài lại dùng quyền năng vô đối của Ngài mà làm cho trù hoạch ấy thành công. Vì Christ nhờ quyền năng của Đức Chúa Trời mà được đầu thai (Lu 1:35), cũng nhờ quyền năng ấy mà được sống lại (Ro 1:4); nay Ngài dùng cả quyền năng ấy để áp dụng sự linh nghiệm của phương cứu rỗi đó cho ta (Ma 28:18). Sau đây Ngài lại sẽ lấy quyền ấy mà tái lâm đặng làm hoàn thành việc cứu rỗi (Lu 21:27). Xem Lu 1:35; Ro 1:4; Ma 28:18,19; Lu 21:27Thực, chính Jesus Christ là quyền năng của Đức Chúa Trời, hiện ra để phá hủy quyền phép của Sa-tan, tội lỗi, thế gian và xác thịt, trước ở trên thập tự giá, sau ở trong đời sống của cá nhơn tín đồ,rồi rốt lại sẽ còn toàn thắng thế lực của ma quỉ, quét sạch ảnh hưởng của cuộc chủ trị nó trong cả vũ trụ nữa. Xem ICo 1:24; Ro 1:16; IITe 2:8III. ĐỨC CHÚA TRỜI BAN CHRIST LÀM CỨU CHÚA THẬT RẤT CẦN YẾUMột phương pháp cứu rỗi có đủ linh nghiệm để toàn cứu loài người khỏi tội thật cần yếu vì hai cớ nầy:1. Sức người không thể tự cứu được: Loài người đã trái mạng lịnh Đức Chúa Trời,làm dơ bẩn nguyên tánh, sa vào tội lỗi, mắc lưới ma quỉ rồi. Dầu đã hết sức ước ao tu tâm dưỡng tánh để được cứu, song các công việc ấy thật vô ích cả: sức thiên nhiên của họ chẳng tự cứu mình được bao giờ. Trải qua các đời đã có nhiều nhà hiền triết hằng cẩn thận lời nói nết làm, chăm chỉ theo lành lánh dữ; song tu hành càng đắc đạo chừng nào, lại càng cảm biết tội chừng nấy. Nên từ xưa đến nay cả thảy đều than rằng: “Núi khó dời, tánh khó đổi!” Cho nên rất cần Đức Chúa Trời ban cho một Cứu Chúa toàn quyền toàn năng, để Ngài làm điều mà loài người không thể tự làm được.2. Sự khôn ngoan người không kịp: Muốn cứu vớt người tội lỗi, đem họ trở lại làm thánh làm nghĩa, chẳng những không nhờ sức người mà làm được, lại cũng chẳng có thể cậy sự khôn ngoan riêng mà đạt đến, hoặc dựa theo ngộ tánh mà làm nổi đâu bao giờ. Nếu Đức Chúa Trời không thương xót mà ban một Giáo sư thiên thượng để dạy người đời, chỉ đường cứu rỗi, dẫn lối trường sanh; nếu không ban cho một Cứu Chúa có đủ đại công nghiệp đại giá trị để chuộc tội họ giải cứu họ khỏi địa vị hủ bại của tội lỗi, thì loài người đành khoanh tay chờ chết, chớ biết tính làm sao?Trải đời có nhiều nhà hiền triết, lắm bực tôn giáo, đã từng xuất hiện, đem hết tài lực tâm ý để tìm phương cứu rỗi, nhưng chẳng ai tìm được. Sự khôn ngoan của họ không kịp, học thuyết của họ chẳng những không cứu rỗi ai, mà lại càng dắt họ xa cách Đức Chúa Trời và đường cứu rỗi càng hơn, đến nỗi chính sự khôn ngoan học thuyết họ ngăn cản họ nhận biết sự cứu rỗi do Christ mà ra, làm cho lòng tín ngưỡng họ bị mê muội, khiến cho họ đành chịu hạ mình phục thờ các vật thọ tạo thay vì Đấng Tạo hóa. Phao-lô chép rằng:xem ICo 1:21. Còn đạo Phao-lô giảng đó là: xem ICo 1:23,24IV. ĐỨC CHÚA TRỜI ĐÃ DỰ ĐỊNH BAN CHRIST LÀM CỨU CHÚATa biết trước khi chưa tạo thiên lập địa,thì Đức Chúa Trời đã dự trù mọi công việc, nào cuộc tạo hóa, nào việc bảo tồn,nào sự chuộc tội, thảy đều được bao hàm trong cái trù hoạch dự định gọi là nguyên chỉ của Ngài. Từ trước vô cùng Christ là Cứu Chúa của loài người; thập tự giá được dựng lên ở trên trời trước khi chưa được trồng trên mặt đất. Cuộc chuộc tội vốn từ lòng Ba Ngôi Đức Chúa Trời trù hoạch và làm nên ở cõi đời đời; kế sau mới được tỏ ra trong cõi lịch sử lúc Christ giáng sanh, chịu hình chịu chết trên thập tự giá; cũng được tỏ ra trong chúng ta, là kẻ tín nhận Ngài để được cứu rỗi nữa. Những câu viện dẫn đây làm chứng Đức Chúa Trời đã dự định việc cứu rỗi nầy từ trước vô cùng vậy.1. Christ phải làm việc cứu chuộc: xem Kh 13:8; Cong 2:232. Ban ơn cứu rỗi cho ta: xem IITi 1:93. Cho chúng ta do Jesus Christ được phận làm con: xem Eph 1:54. Chọn chúng ta trong Christ: xem Eph 1:45. Chúng ta nhờ Christ được làm cơ nghiệp của Đức Chúa Trời: xem Eph 1:11V. SỰ DỌN ĐƯỜNG CHO SỰ CỨU RỖINếu Đức Chúa Trời từ trước vô cùng, đã dự định cứu chuộc loài người, thì tại cớ sao lúc tổ tiên vừa trái mạng, bị đuổi ra khỏi vườn Ê-đen, Đức Chúa Trời không liền dựng thập tự giá ở cửa vườn mà chuộc tội cho loài người? Cớ sao bà Êva không được làm mẹ của Cứu Chúa đã hứa? Sao Đức Chúa Trời không làm ứng nghiệm lời hứa ấymà ban Christ xuống đời tức thì? Sao loài người còn phải chờ đợi đến bốn ngàn năm sau mới có Đấng ấy mở cửa ơn cứu rỗi?Kinh Thánh không đáp rõ cho vấn đề ấy, nhưng ám chỉ rằng cần phải có sự dọn đường trước, rồi sau Cứu Chúa mới hiện đến được, Kinh Thánh có câu: xem Ga 4:4Sự dọn đường ấy bắt đầu từ lúc loài người sa ngã, trải qua các đời Cựu Ước đến khi Chúa giáng sanh, gồm có hai phần thuật lại sau đây:1. SỰ DỌN ĐƯỜNG TRONG CÕI BÁI VẬT GIỚIXét lịch sử của bái vật giới, thì thấy sự dọn đường cho sự cứu rỗi theo hai phương diện: phản và chánh.a) Phản diện: Lịch sử bái vật giới xưa minh chứng rằng ở ngoài Đức Chúa Trời loài người bị đắm chìm trong bể tội lỗi, bị hư hỏng bại hoại không thể tả ra được. Trải đời nầy qua đời kia, tội ác càng lan tràn càng thêm, đạo đời ngày càng suy đồi, lòng người ngày càng ác tệ, đến đỗi cả giống loài người bị hủ bại cực điểm, dầu hiền nhơn quân tử cũng chẳng thoát khỏi, vì tội lỗi khác nào luồng sóng tràn ngập khắp nơi, chẳng có tài nào ngăn đón được.Loài người vốn là giống có lương năng thờ thần.Dầu tội lỗi khiến họ lìa bỏ Đức Chúa Trời, nhưng lòng thờ thần vẫn còn nguyên.Nên họ theo sự khôn ngoan của lòng hủ bại riêng mà tạo ra đạo nầy, đề xướng giáo nọ, phong thần kia lập chúa khác, hết sức thờ ma lạy quỉ. Song than ôi!Các đạo giáo ấy, cách thờ phượng kia thảy đều chỉ dẫn người ta càng cách xa Đức Chúa Trời càng hơn. Nào các bàn thờ, nào những sinh tế, nào đạo lý, nào triết học,nào mỹ thuật của họ chẳng môn nào có thể làm thỏa lòng kính thờ nguyên bản bao giờ, duy gây nên trong họ sự đói khát đau đớn và tuyệt vọng đó thôi. Kỳ thực,các bái vật giáo xưa vốn là nguồn suối của sự buông lung hủ bại của các dân tộc cổ đại, tự chứng rằng chẳng có sự linh nghiệm gì để cứu rỗi ai cả. Song dầu người ta tuyệt vọng về phương pháp cứu rỗi, thì vẫn có tấm lòng đau đớn, rên la trối chết, mong ước được cách nào giải cứu mình khỏi sự khốn đốn dường ấy. Mà thực,về phản diện, thì sự hủ bại tuyệt vọng ấy dọn đường cho sự cứu rỗi bởi Christ mà ra.b) Chánh diện:Trong vòng các nhà tôn giáo và triết lý xưa cũng có bậc có giá trị, vì trong sự dạy dỗ của họ cũng có ít tia sáng về lẽ thật, mà sự sáng ấy, tuy lờ mờ, cũng là do Christ soi ra (Gi 1:9; Thi 94:10). Giáo phụ Justin Martyr dạy rằng các dân ngoại bang chẳng phải là không có hột giống của Đạo (Logos) thật. Chữ Đạo ấy là chữ Đạo trong Gi 1:1, tức là Christ, xưa kia bày tỏ mình ra trong lương tâm và cõi lịch sử của loài người. Ông cũng nói sự dạy dỗ của nhà triết học Platon có chỗ giống đạo Christ, và các trước giả đời xưa nhờ hột giống Đạo thật gieo trong mình mà được thấy một tí ánh sáng như mờ như tỏ về lẽ thật. Clément ở Alexandrie gọi ông Platon là Môi-se của người Hi Lạp.Kinh Thánh cũng nhìn nhận ông Gióp,tiên tri Balaam, vua Mên-chi-xê-đéc, đều hành chức tư tế, và dầu ở ngoài tuyển dân Y-sơ-ra-ên, cũng nhận lãnh mạng lịnh của Đức Chúa Trời. Giáo phụ Tertullien gọi nhà triết học Socrates là giáo sư dạy dỗ “giống như chúng ta”. Phao-lô nói về người Cơ-rết có bậc tiên tri (Tit 1:12), có lẽ ông ám chỉ về Epiménides (596 T.C), mà Platon cũng gọi là “một người của Đức Chúa Trời”. Augustin chứng rằng:“Platon khiến tôi biết Chân Thần; còn Jesus Christ chỉ cho tôi đường dẫn đến Ngài.”Kìa, có ba đạo Nho, Thích và Lão, chẳng phải là vô ích cho đạo đời lòng người đâu. Tuy không cứu rỗi ai, nhưng các quan niệm về tội lỗi, sự ăn năn, sự quả báo, địa ngục, thiên đàng, v…v., đều tiềm tàng trong các đạo đó cả, và dọn đường cho đạo Christ hiện ra ở Đông phương.Nói tóm lại, các tôn giáo ngoài đều có chút ánh sáng về lẽ thật; nhưng rất lờ mờ chẳng đủ đem ai đến cùng Đức Chúa Trời,chỉ khiến người ta thất vọng đó thôi. Còn chính sự thất vọng ấy cũng dọn đường cho đạo Christ vậy.2. SỰ DỌN ĐƯỜNG TRONG VÒNG Y-SƠ-RA-ÊNBắt đầu từ đời Áp-ra-ham dân Y-sơ-ra-ên làm tuyển dân của Đức Chúa Trời, được Ngài dạy dỗ về ba lẽ thật quan trọng nhứt,tức là: a) Đức Chúa Trời duy nhứt, oai nghiêm, toàn năng, rất thánh khiết; b)loài người có tội lỗi, lòng đạo đức bị dơ bẩn yếu đuối, tự mình chẳng làm lành được; c) sự cứu rỗi chắc chắn sẽ hiện đến, như đạo Môi-se đã dự chứng cho. Từ đời Môi-se trở đi Đức Chúa Trời dùng ba cơ quan kể sau đây để dạy họ ba lẽ thật ấy.a) Luật pháp: cơ quan thứ nhứt Đức Chúa Trời dùng để dạy dỗ dân Y-sơ-ra-ên là luật pháp của Môi-se.Xét lịch sử thế gian và sự từng trải của cá nhơn, thì thấy Đức Chúa Trời thường dạy luật pháp trước để tỏ ra tội lỗi, mà dọn lòng người ta vui mừng tiếp rước Cứu Chúa. Dân Y-sơ-ra-ên nhờ luật pháp Môi-se mà học biết ba điều:(1) Biết Đức Chúa Trời:Nhờ Đức Chúa Trời hiện ra cùng các thánh tổ xưa, và nhờ các dấu kỳ phép lạ cặp theo, dân Y-sơ-ra-ên đào dưỡng đức tin mạnh đến một Đức Chúa Trời toàn năng có ngôi riêng, làm quan án của mọi người.(2) Biết tội lỗi:Đức Chúa Trời nhờ các điều răn, lời cảnh cáo, giọng răn he của luật pháp, mà khiến cho dân Y-sơ-ra-ên cảm giác tội lỗi trong mình, cảm biết rõ ràng Đức Chúa Trời rất thánh khiết, không bao giờ bỏ qua tội lỗi của ai; nếu không làm trọn điều răn của luật đạo đức, ắt phải bị luật ấy hình phạt chẳng sai.(3) Sự hi vọng:Nhờ chức tế lễ, nghi lễ và tế lễ của luật pháp, mà Đức Chúa Trời gây cho lòng dân Y-sơ-ra-ên có hi vọng rằng Đức Chúa Trời chắc sẽ mở đường cho loài người được tha tội, và được đến gần Ngài như sở nguyên vậy.b) Lời tiên tri:Cơ quan thứ hai mà Đức Chúa Trời dùng đặng dạy dỗ dân Y-sơ-ra-ên đạo lý của Ngài và dọn đường cho đạo cứu rỗi hiện ra, là lời tiên tri. Có hai thứ lời tiên tri:(1) Bằng lời phán:Sự dự ngôn về một Cứu Chúa bắt đầu truyền ra tại vườn Ê-đen, lúc tổ tiên ta vừa sa ngã (Sa 3:15), và trải qua các thời đại về sau. Trước khi Chúa chưa giáng sanh vẫn có các tiên tri nói trước về Cứu Chúa phải hiện đến.(2) Bằng hình bóng:Cũng có nhiều hình bóng dự ngôn về Cứu Chúa, như các nhân phẩm A-đam,Mên-chi-xê-đéc, Giô-sép, Môi-se, Giô-suê, Đa-vít, Sa-lô-môn, Giô-na; như việc dâng Y-sác làm sinh tế, sự treo con rắn bằng đồng lên ở trong đồng vắng, v.v…Các lời tiên tri và hình bóng ấy đào dưỡng đức tin trong lòng Y-sơ-ra-ên, khiến cho họ tin cậy lòng thương xót Đức Chúa Trời chắc sẽ dự bị phương pháp cứu rỗi. Nên đương khi dân ngoại bang còn đắm chìm trong bể bi quan tuyệt vọng, thì đuốc hi vọng và đèn đức tin lại chiếu diệu trong vòng dân Y-sơ-ra-ên, vì các thánh đồ đều tin chắc rằng: “Ánh sáng được bủa ra cho người công bình, và sự vui vẻ cho người có lòng ngay thẳng” (Thi 97:11).Nên họ có thể đồng thinh với Gióp mà chứng rằng: “Còn tôi, tôi biết rằng Đấng cứu chuộc tôi vẫn sống. Đến lúc cuối cùng Ngài sẽ đứng trên đất” (Giop 19:25). Hi vọng sáng sủa và đức tin mạnh mẽ ấy càng dọn đường cho Cứu Chúa càng thêm.c) Sự hình phạt:Các sự dọn đường cho Christ giáng lâm đó nhân vì lòng cứng của dân Do Thái trở nên sự ngăn ngừa việc ấy. Các lễ nghi của đạo Môi-se vốn chỉ làm hình bóng về chân tướng là Christ, nhưng lần lần chiếm đoạt chỗ của sự thờ phượng và đức tin thật, nên Đức Chúa Trời phải dùng một cơ quan thứ ba để dọn lòng họ về sự giáng lâm của Ngài. Cơ quan đó là sự sửa phạt. Lắm phen Đức Chúa Trời phải trừng phạt tuyển dân bởi vì họ hằng xu hướng về sự thờ hình tượng, kết cuộc là họ mất nước,bị bắt đem xa làm phu tù giữa dân ngoại bang. Sự viễn lưu ấy kết quả hai điều quan hệ:(1) Về phương diện tôn giáo:Dân Do Thái được giải cứu khỏi bái vật giáo, gỡ ra khỏi lòng họ sự xu hướng về cuộc thờ hình tượng, khiến cho rễ độc thần chủ nghĩa đâm rất sâu trong lòng họ.Sự viễn lưu đó cũng lần lần gây nên cuộc thờ phượng trong các nhà hội, là cơ quan Đức Chúa Trời dùng để bảo thủ và truyền bá đạo độc thần ở giữa các dân ngoại bang mà dọn đường cho Tin Lành hiện đến về sau;(2) Về phương diện dân sự:Sự tan tác dân Do Thái khắp mọi nơi khiến cho họ bỏ nghề canh mục mà theo nghề thương mãi, mở dịp cho họ học chữ Hi Lạp là tiếng phổ thông lúc bấy giờ, và tập theo luật pháp và sự tổ chức của chánh trị La Mã. Đến khi Tin Lành hiện ra, thì dân Do Thái nhân vì độc thần chủ nghĩa, sự tan tác khắp chốn, và sự thông biết tiếng Hi Lạp, được sẵn sàng để sử dụng đem Tin Lành truyền khắp bốn phương thiên hạ. Khi Đức Chúa Trời sửa soạn các điều ấy xong rồi, thì Christ, Cứu Chúa, mới ra đúng như Phao-lô chép rằng: xem Ga 4:4,5CHƯƠNG 2: LUẬN VỀ CÁC LÝ THUYẾT XƯA NAY DẠY VỀ PHẨM VỊ CỦA ĐẤNG CHRISTTHEN CHỐT của đạo Cứu rỗi chỉ cậy ở nơi một Đấng Trung bảo, đứng giữa Đức Chúa Trời và loài người, lấy nhân tánh hiệp với thần tánh mà làm nên Đấng Thần Nhân, có bản tánh thật của người, cũng có bản tánh thật của Đức Chúa Trời, hiện đến để giải hòa giữa Đức Chúa Trời và loài người, mà dẫn hai bên được gần gũi cùng nhau như lúc tổ tiên chưa phạm tội. Đấng ấy là Jesus Christ, Con Đức Chúa Trời, vô thỉ vô chung, sanh bởi Cha từ trước vô cùng, đầu thai bởi Thánh Linh, sanh ra làm người bởi nữ đồng trinh Ma-ri,thay vì cả hai Đức Chúa Trời và loài người mà làm trọn việc cứu chuộc.I. LỜI BÌNH LUẬN VỀ PHẨM VỊ CỦA ĐẤNG CHRISTVì Christ làm then chốt của đạo cứu rỗi,trung tâm Cơ đốc giáo, nền tảng về đức tin của tín đồ, nên theo lẽ tự nhiên thì vấn đề đầu nhứt nẩy ra trong tâm trí của tín đồ là: Christ là người thế nào? Phẩm vị Ngài là làm sao? Ta tin Ngài thì tin Đấng có giá trị thể nào? Vả, chỉ Kinh Thánh có thể đáp lời cho mấy câu hỏi ấy. Nhưng thiết tưởng nếu muốn hiểu thấu lẽ đạo Kinh Thánh dạy về vấn đề đó, thì lấy làm tiện trước hết khảo sát các ý kiến tà và chánh mà các nhà tôn giáo xưa nay đã chủ trương về phẩm vị của Christ, rồi sau sẽ khảo cứu Kinh Thánh để xem thử trong đó dạy thể nào.1. THUYẾT PHE EBONITESPhe Ebonites dấy lên nhằm cuối thế kỷ I và đầu thế kỷ II. Có kẻ tưởng rằng nguyên nhân của phe nầy là các tín đồ ở Jerusalem trốn qua Pella năm 66 S.C., ngay trước lúc quân La Mã diệt thành ấy.Phe Ebonites chủ trương rằng Christ chẳng có thần tánh, duy có nhân tánh mà thôi. Nhưng Ngài tương đối với Đức Chúa Trời khác thường mọi người, bởi vì lúc chịu báp têm thì Ngài nhận lãnh Thánh Linh một cách không chừng mực.Thuyết Ebonites chẳng qua là đạo Do Thái xen vào Hội Thánh. Họ sở dĩ chối thần tánh của Christ là vì họ coi lẽ đạo ấy trái với chủ nghĩa độc thần. Phe Ebonites chia ra hai nhánh:a) Nhánh người Na-xa-rét:Họ công nhận Christ giáng sanh cách siêu việt, song không nhận Ngài thực hữu trước lúc ra đời; cũng không nhận Ngài là Con độc sanh của Đức Chúa Trời từ trước vô cùng.b) Nhánh Cérinthe:Cérinthe, một nhà tà giáo, dấy lên nhằm đời Thánh Giăng, dạy rằng Christ không giáng sanh cách siêu việt, cũng chẳng được sanh bởi Nữ đồng trinh. Người phân biệt Đấng Christ với người Jesus, quyết rằng trong Ngài nhân tánh và thần tánh chẳng liên hiệp nhau mà thành một ngôi. Cũng dạy rằng khi Jesus chịu báp têm,thì Christ (Logos) mới giáng xuống đậu trên Ngài, ban cho Ngài được khác thường với loài người. Phe nầy giống như phe Pha-ri-si, chú trọng về luật pháp lắm, mà bỏ các thơ tín chú trọng về Christ của Phao-lô trước thuật. Thơ Hê-bơ-rơ chắc được trước thuật cốt để chống lại ảnh hưởng của thuyết nầy, và ngăn cản tín đồ quá trọng luật pháp mà khinh bỏ Christ.2. THUYẾT DOCETAEChữ docetae là chữ Hi Lạp, nghĩa đen là “hình như”, “giống như”, “giả mạo”. Thuyết nầy dấy lên nhằm cuối thế kỷ I, chủ trương rằng Christ chỉ có thần tánh, nhưng cũng chẳng có nhân tánh. Thân thể Ngài chẳng bằng xác thịt thật, chỉ là ảo tưởng mà thôi. Lý sự của tà thuyết nầy do sự thừa nhận vật chất là ác. Nên họ luận rằng nếu vật chất đã là ác, mà Christ lại là thánh, thì cố nhiên thân thể Ngài chỉ là ảo tượng thôi, và Ngài sanh chẳng phải là thật sanh, chết chẳng phải là thật chết, sống lại cũng chẳng thật sống lại. Nói cho đúng, thì thuyết Docetae bất quá là triết lý của bái vật giáo xen vào Hội Thánh đó thôi. Phái Ngộ đạo (Les Gnostiques) trong thế kỷ II,và phái Manichée trong thế kỷ III cũng theo tà thuyết nầy.3. THUYẾT ARIUSThuyết nầy bởi bậc trưởng lão Arius,quê ở Alexandrie thủ xướng vào đầu thế kỷ IV. Ông chủ trương rằng Christ chẳng có thần tánh, chẳng có đồng một thể yếu với Đức Chúa Trời, cũng chẳng bởi Đức Chúa Trời mà sanh ra từ trước vô cùng; bèn là một Vị thọ tạo, cao trọng hơn hết các vị thọ tạo khác, gọi là Đạo (Logos), giáng sanh hiệp với nhân tánh Jesus mà nên người Jesus Christ vậy.Thuyết nầy làm hiểu Kinh Thánh, giải nghĩa sai về sự Christ hạ mình xuống, lẫn lộn ý Ngài tạm đầu phục Cha với ý Ngài vĩnh bất bình đẳng với Cha, cố quyết rằng sự đầu phục Cha đó minh chứng rằng Ngài không được đồng thực hữu với Cha, cũng chẳng được bình đẳng với Cha nữa.Công giáo nghị hội tại Nicée năm 325 bài xích thuyết Arius cho là tà giáo, tái quyết rằng Christ đồng thực hữu với Đức Chúa Trời, đồng thể yếu với Cha, có thần tánh, thần quyền, thần dục trọn vẹn cũng như Cha vậy.4. THUYẾT APOLLINAIREThuyết nầy bởi giám mục Apollinaire thủ xướng vào cuối thế kỷ IV, chủ trương rằng Christ chẳng có nhân tánh trọn vẹn.Ông nhận rằng loài người có ba nguyên tố, là thần, hồn và linh. Song Christ chỉ có hai nguyên tố mà thôi, là thần và hồn, còn (Đạo) Logos thì thế cho tâm linh ở trong Ngài. Thành thử Christ chẳng có nhân tánh trọn vẹn. Apollinaire sai lầm như thế là bởi vì tin rằng tâm linh là trung khu của tội lỗi ở trong loài người;nên nếu Christ là vô tội, thì Ngài cố nhiên cũng không có tâm linh vậy.Công giáo nghị hội tại Constantinople năm 481 bài xích thuyết Apollinaire, cho là tà giáo, tái quyết đạo chánh thống rằng Christ quả có nhân tánh trọn vẹn, nghĩa là Vị cách Ngài có ba nguyên tố cũng như loài người, tức là thần, hồn, và linh vậy.5. THUYẾT NESTORIUSNestorius, giáo trưởng tại Constantinople (bị cách chức năm 431), kịch liệt phản kháng thuyết Apollinaire,quyết rằng Christ có cả hai thần tánh và nhân tánh trọn vẹn; nhưng hai tánh ấy chẳng liên hiệp cách hữu cơ mà làm nên một ngôi đặc biệt như thân thể và tâm hồn của ta hiệp nhứt đâu, bèn chỉ là hiệp lại theo cách luân lý như vợ chồng phối hiệp nhau vậy. Nestorius cho Đức Chúa Trời chỉ cư trú ở trong các sự thuộc tánh của người Jesus; tuy Đức Chúa Trời và người Jesus ăn ở rất thân mật nhau, nhưng chẳng được hiệp lại làm một ngôi. Thành thử, người Jesus chỉ là đền của Đức Chúa Trời ngự, chẳng khác gì tín đồ ngày nay làm đền thờ của Christ ngự trong đó vậy. Nói một lời, thuyết Nestorius chủ trương rằng Christ chẳng những có hai tánh, mà là có hai ngôi đặc biệt nữa, phủ nhận hẳn hai tánh ấy hiệp lại thành một ngôi ở trong Đấng Thần Nhân gọi là Jesus Christ vậy.6. THUYẾT DUY NHỨT TÁNHThuyết nầy bởi viện trưởng Eutyches,quê ở Constantinople đề xướng nhằm thế kỷ V, chủ trương rằng Christ chẳng có hai tánh đặc biệt, duy có một tánh do thần tánh và nhân tánh đồng hóa nên. Mà tánh ấy chẳng phải là nhân tánh, cũng chẳng phải là thần tánh, bèn là một tánh mới đặc biệt ở giữa hai tánh ấy.Công giáo hội nghị tại Chalcédoine năm 451 bài xích thuyết Eutyches, cho là tà giáo, tái quyết đạo chánh thống về hai tánh của Christ là đặc biệt nhưng hiệp lại thành một ngôi vậy.7. THUYẾT DUY NHỨT Ý DỤCThuyết nầy do thuyết duy nhứt tánh mà ra, chủ trương rằng nếu Christ đã chỉ có một tánh, thì cũng chỉ có một ý dục mà thôi.Công giáo hội nghị tại Constantinople năm 680 bài xích thuyết nầy, kể là tà giáo, tái quyết đạo chánh thống về Christ có hai ý dục, thần ý dục, và nhân ý dục, đồng hiệp với nhau cách rập ràng để làm việc. Nhưng nhân ý dục thường phụ thần ý dục trong khi Christ hành sự, đến đỗi đối với trí hiểu ta thì dường như chỉ có một mà thôi.8. THUYẾT CHÁNH THỐNGCông giáo nghị hội tại Chalcédoine năm 451 tái quyết thuyết chánh thống về Phẩm vị của Christ, chủ trương rằng trong Phẩm vị ấy có hai bản tánh, tức nhân tánh và thần tánh, cả hai đều được trọn vẹn,hiệp lại cách hữu cơ, không thể phân ly, cũng chẳng đồng hóa trở nên một tánh khác được. Nói cách khác, đạo chánh thống chẳng dám phân giải ngôi Christ, mà cũng chẳng dám hỗn hiệp hai tánh của Ngài nữa. Sau đây trong một phần khác, sẽ đem bằng cớ chứng rằng chánh thống là đúng đắn, thích hiệp với Kinh Thánh và sự lý mọi bề.CHƯƠNG 3: LUẬN VỀ CHRIST TIỀN TẠII. BẰNG CHỨNGKINH THÁNH dạy rõ ràng về Christ, Ngôi thứ hai trong Ba Ngôi Đức Chúa Trời, thực hữu trước khi Ngài chưa giáng sanh.Những câu viện dẫn sau đây làm chứng: xem Gi 1:1-2; Gi 8:58; Gi 17:5,24; Co 1:17. Cũng xem He 1:2,8; 2:10.II. ĐẶC TÍNH CỦA SỰ TIỀN TẠISự tiền tại của Christ có hai phương diện,là đối với Đức Chúa Trời và đối với muôn vật.1. Đối với Đức Chúa Trời:Đối với Đức Chúa Trời Christ thực hữu từ trước vô cùng, được gọi là Con độc sanh của Đức Chúa Trời (Gi 1:14,18; 3:16,18; IGi 4:9.); nhưng Ngài chẳng sanh trong khoảng thời gian, bèn sanh từ vĩnh viễn, vốn ở trong Ba Ngôi Đức Chúa Trời mà giữ phận làm Con độc sanh luôn vậy. Xem Gi 1:14,18; IGi 4:9. Cũng xem Gi 3:16,18.2. Đối với muôn vật:Christ thực hữu trước muôn vật, vì Ngài được gọi là “Đấng sanh đầu nhứt mọi vật dựng nên” (Co 1:15); cũng gọi là “ban đầu, sanh đầu nhứt từ trong kẻ chết” (Co 1:18). Thế thì, sự tiền tại của Christ tương đối với muôn vật theo hai mặt, tức là Ngài thực hữu trước muôn vật, và Ngài sống lại đầu nhứt từ trong kẻ chết.Khi Kinh Thánh xưng hô Ngài là Con độc sanh của Đức Chúa Trời, thì nói về Ngài là vĩnh tiền hữu ở nơi Ba Ngôi Đức Chúa Trời. Nhưng khi Kinh Thánh gọi Ngài là Con độc sanh đầu nhứt từ trong kẻ chết, thì nói về Ngài làm Con đầu lòng trong dòng dõi mới, mà Ngài nhờ chính sự chết và sự sống lại của Ngài mà dựng nên vậy.Tín đồ không thế nào dự phần trong danh hiệu Con độc sanh, vì ấy chỉ thuộc về Christ mà thôi; song họ nhờ sự tái sanh và sự sống lại từ trong kẻ chết mà được dự phần trong danh hiệu Con sanh đầu nhứt vậy (Ro 8:29; He 12:23).III. ĐỊA VỊ TIỀN TẠI CỦA ĐẤNG CHRISTTrước khi Christ chưa giáng sanh làm người, thì đứng trong địa vị nào? Vấn đề ấy khó giải quyết, vì Kinh Thánh chỉ nói đến sơ sơ mà thôi. Trong Gi 17:5, Gi 17:24 thì chính Chúa gọi địa vị ấy là “vinh hiển Con vốn có với Cha trước khi chưa có thế gian.” Trong Phil 2:6 Phao-lô gọi là “Ngài vốn có hình Đức Chúa Trời”, và “bình đẳng với Đức Chúa Trời”Giăng gọi là “ở trong lòng Cha”, và được Cha “yêu mến Con trước khi sáng thế”(Gi 1:18; Gi 17:24).Nhờ các câu ấy ta có thế gọi địa vị tiền tại của Christ bằng địa vị vinh hiển nguyên bản. Từ trước vô cùng Ngài ngự trong địa vị ấy, được bình đẳng với Cha, được giao thông với Cha rất thân mật,và được Cha yêu mến cách không xiết kể. Khi Christ giáng sanh thì tình nguyện lìa bỏ địa vị vinh hiển ấy, hiện ra như những tầm thường. Phao-lô chép rằng:xem Phil 2:6-8Ta khá nhớ rằng dầu Christ lìa bỏ địa vị vinh hiển nguyên bản ở trên trời, tự làm cho mình trống không, thì chẳng phải là bỏ thần tánh, thần cách, thần quyền đâu, bèn chỉ lấy hình trạng loài người mà che khuất các đức tánh ấy. Có một vài khi thần tánh và thần cách Ngài lộ ra chói lói; cũng có lắm lúc Ngài dùng thần quyền mà thi hành việc cả thể nữa.Nhưng sự vinh hiển chói lói mà Ngài vốn có ở với Cha, thì để lại ở trên trời.Ví thử Ngài lấy vinh hiển ấy mà hiện ra, thì chẳng người phàm nào ngắm xem Ngài nổi, trái lại chỉ bị ánh vinh quang cực kỳ ấy tiêu diệt đi mất chẳng sai. Nên lấy làm cần yếu lắm mà Chúa phải để lại vinh hiển ấy ở trên trời, và che khuất các thần tánh thần cách Ngài, mới có thể đến gần mà giúp đỡ loài người được.IV. CHỨC VỤ TRONG ĐỊA VỊ TIỀN TẠITrong địa vị tiền tại Christ có thực hành hai chức vụ đặc biệt kể như sau đây:1. Dựng nên muôn vật:Kinh Thánh dạy rõ ràng muôn vật đều được dựng nên bởi Christ. Vẫn biết rằng Sa 1:1 có chép “Ban đầu Đức Chúa Trời dựng nên trời đất.” Nhưng Đức Chúa Trời nhờ Christ, Ngôi thứ hai, làm cơ quan trực tiếp, để làm xong công việc ấy. Xem Gi 1:3; Co 1:16; He 11:3 (tức Đạo_ Logos_ của Đức Chúa Trời).2. Bảo tồn muôn vật:Kinh Thánh cũng tỏ ra Christ không những là dựng nên muôn vật, mà lại là Đấng bảo tồn muôn vật nữa. Từ lúc ban đầu Đức Chúa Trời nhờ Đạo (Logos), Ngôi thứ hai,mà gìn giữ, săn sóc vũ trụ được tồn tại khỏi bị băng hoại hư mất. Xem Co 1:17; He 1:3V. CHRIST HIỆN RA TRƯỚC KHI CHƯA GIÁNG SANHXem Cựu Ước, thì thấy Christ, trước khi chưa giáng sanh, lắm phen đã hiện ra trong thời đại Cựu Ước. Ngài hiện ra theo hai cách thức, tức là bằng tượng trưng vật chất, và bằng hình trạng loài người.1. Tượng trưng vật chất: Từ buổi tổ tiên ta ở vườn Ê-đen cho đến khi đền thờ Sa-lô-môn bị phá hủy, thì ở cõi nhân gian nầy thường có một cái tượng trưng bằng vật chất để tiêu biểu Đức Chúa Trời ở giữa loài người. Khi tổ tiên ta còn ở trong vườn Ê-đen, thì có thể giao thông thân mật với Giê-hô-va, được thấy mặt Ngài, và được nghe tiếng phán của Ngài (Sa 3:8).Từ khi tổ tiên sa ngã rồi, thì Đức Chúa Trời đặt tại cửa vườn Ê-đen vị chê-ru-bin cầm gươm chói lòa làm tượng trưng biểu dương Ngài hiện diện tại đó. Ca-in và A-bên chắc đem lễ vật mình dâng lên ở trước tượng trưng ấy; Ca-in cũng trốn khỏi tượng trưng đó sau khi đã giết em mình (Sa 4:4-16).Đức Chúa Trời cũng thường hiện ra cho các thánh tổ xưa, mắt họ được nhìn mặt Ngài, tai họ được nghe tiếng Ngài (Sa 17:1; Sa 18:1; Cong 7:2). Ngài hiện ra cho Môi-se tại bụi cây đang cháy, và phán bảo cùng người (Xu 3:1-6). Cũng năng hiện ra trong trụ mây và trụ lửa, trong vinh quang Schékina tại nhà trại và đền thờ, hay phán bảo các đầy tớ Ngài là Môi-se,Giô-suê, Sa-lô-môn, bày tỏ ra cho Y-sơ-ra-ên biết ý chỉ Ngài (Xu 13:21; Xu 14:15; Xu 19:24; Xu 20:1-26; Xu 40:34-38; IVua 8:10-11; IISu 5:13,14).Trong đền thờ mà Xê-ru-ba-bên và Hê-rốt xây cất, chẳng thấy có tượng trưng gì để tiêu biểu Đức Chúa Trời hiện diện tại đó;vì hòm giao ước đã bị mất trong đời tiên tri Giê-rê-mi.2. Christ hiện ra trong hình trạng loài người:Trong Cựu Ước thường nói đến một Vị thiên thượng rất oai nghiêm, hay nhân danh Giê-hô-va mà nói và làm. Vị ấy có khi được xưng bằng danh Giê-hô-va, chịu cho loài người thờ lạy mình; cũng được gọi bằng Thiên sứ, Thiên sứ của Giê-hô-va,Thiên sứ của giao ước, v.v… tham khảo các đoạn sách luận về Vị ấy, thì rất rõ ràng Ngài chẳng phải là Thiên sứ thường đâu, bèn là chính Giê-hô-va của Cựu Ước,tức là Christ của Tân Ước. Đạo (Logos) của Đức Chúa Trời, trước khi chưa giáng sanh, thì từng hồi từng lúc mượn hình trạng loài người mà hiện ra. (Xin xem Sa 16:10-13; Sa 23:20-25; Sa 32:34; Sa 33:21-23; Gios 5:13-15; Cac 13:3-20;Es 63:9; Da 10:13; Xa 1:11,12; Mal 3:1).VI. CÁC HÌNH BÓNG DỰ NGÔN VỀ ĐẤNG CHRISTTrong Cựu Ước cũng tỏ ra ba hình bóng đẹp đẽ, rõ ràng chỉ về Christ ở trong buổi tiền tại, rất đáng cho ta lưu ý đến.1. Con yêu dấu:Trong Cựu Ước chỉ nói lờ mờ về Con Đức Chúa Trời, đến Tân Ước mới tỏ ra đạo ấy rõ ràng. Dầu vậy, trong Cựu Ước cũng có vài chỗ ám chỉ về Christ là Con yêu dấu của Đức Chúa Trời. Xem Thi 2:7; Thi 89:26-29; IISa 7:14-16Tuy rằng nghĩa đen của Thi 89:26-29 và IISa 7:14-16 dự ngôn về Sa-lô-môn, con của Đa-vít, mà Đức Chúa Trời sắp ban cho vua ấy, thì cũng có nghĩa bóng sâu xa hơn, dự cáo về Christ, Con Đức Chúa Trời mà Ngài hứa ban xuống để cứu người rỗi đời. Khi Chúa Jesus chịu báp têm thì chính Cha nhận rằng lời dự ngôn ấy được ứng nghiệm, xưng hô Ngài là Con yêu dấu của Cha, đẹp lòng Cha mọi đường (Ma 3:17; Mac 1:11; Lu 3:22). Khi Ngài biến hình trên núi kia, thì Cha lại chứng nhận lần thứ hai rằng Ngài là Con yêu dấu của Cha (Ma 17:5; Mac 9:7; Lu 9:35). Cũng xem Eph 1:16; Es 42:1.2. Đầy tớ vâng phục:Thi 40:4-8 tả ra hình bóng về đầy tớ hay vâng phục. Trước giả thơ Hê-bơ-rơ dạy rằng hình bóng ấy được ứng nghiệm nơi Jesus Christ. Xem Thi 40:6-8; He 10:5-7Hình bóng nầy nhắc lại cho ta lời Đức Chúa Trời răn bảo Môi-se về đầy tớ (nô lệ) Hê-bơ-rơ: hễ có đầy tớ nào hầu việc chủ sáu năm, thì qua năm thứ bảy được phép đi ra tự do. Song nếu đầy tớ ấy không muốn ra tự do, bèn vì yêu thương chủ mà muốn ở lại hầu việc mãi, thì chủ phải dẫn nó đến trước mặt Đức Chúa Trời, xỏ tai nó, để làm chừng rằng nó tình nguyện hầu việc chủ luôn luôn (Xu 21:2-6).Christ từ trước vô cùng là Đầy tớ hay vâng phục của Đức Chúa Trời, tình nguyện nhận trách nhiệm trở nên người để cứu chuộc ta. Trong Tin Lành Mác ta thấy thế nào Christ ra đời làm ứng nghiệm hình bóng ấy, làm Đầy tớ của Đức Chúa Trời, vâng phục cho đến chết, thậm chí chết trên thập tự giá (Phil 2:5-8).3. Chiên Con bị giết:Cựu Ước cũng dự tả Christ bằng Chiên Con bị giếtl. Khải huyền xưng Ngài là “Chiên Con đã bị giết từ buổi sáng thế” (Kh 13:8). Trong ý định của Đức Chúa Trời,Christ bao giờ cũng là Chiên Con làm sinh tế, bị giết từ trước vô cùng, để chuộc tội loài người. Từ lúc loài người sa ngã trải qua các đời Cựu Ước, có chiên con chịu chết chuộc tội dân sự hằng làm tượng trưng chỉ bóng về Cứu Chúa sẽ đến,đem mạng sống làm tế lễ đền tội người ta (Xu 12:). Giăng Báp tít nhận biết Christ là Đấng làm ứng nghiệm các tượng trưng ấy. Vì ông chứng rằng: xem Gi 1:29. Cũng xem ICo 5:7; Kh 5:6.CHƯƠNG 4: LUẬN VỀ CHRIST THÀNH NHỤC THỂI. KINH THÁNH DỰ NGÔN VỀ CHRIST ĐẦU THAI VÀ TỎ RA SỰ ỨNG NGHIỆMKINH THÁNH dạy rõ ràng, đặc biệt lắm rằng Giê-hô-va của Cựu Ước nhập vào xác thịt trở nên Jesus ở Na-xa-rét, tức là Đấng Mê-si của Đức Chúa Trời. Cựu Ước đã dự ngôn về biến động huyền diệu ấy, còn Tân Ước thì thuật lại sự ứng nghiệm lời dự ngôn đó y như sau đây:1. Dự ngôn:Những câu dẫn sau đây dự ngôn về Christ được đầu thai trong lòng Nữ đồng trinh,sanh ra làm người. Xem Sa 3:15; Phu 18:18; Es 9:5; Es 7:142. Ứng nghiệm:Còn các câu sau đây lại chứng rằng những câu dự ngôn kia đã được ứng nghiệm trọn vẹn trong sự đầu thai và sự giáng sanh của Jesus Christ: xem Ma 1:18-25; Lu 1:26-35; Gi 1:14; Cong 10:36-38; Ro 8:3; Ga 4:4; ITi 3:16; He 2:14II. CHRIST CÓ HAI TÁNHKinh Thánh cũng tỏ rằng Christ có hai tánh, là nhân tánh và thần tánh. Khi Ngài được đầu thai, trở nên xác thịt, thì đem thần tánh hiệp với nhân tánh mà thành Đấng Thần nhân, gọi là Jesus Christ.Sau đây xin kể qua đạo về hai tánh của Christ.1. LUẬN VỀ NHÂN TÁNH CỦA CHRISTChrist có nhân tánh thực tại và hoàn toàn, ấy là điều Kinh Thánh dạy rõ ràng lắm. Có bằng cớ chứng minh như sau đây:a) Nhân tánh của Christ thực tại:Nhân tánh của Christ chẳng phải một sự ảo tưởng đâu, bèn là hiện thực, chứng minh rằng Ngài là người thật. Các bằng cớ kể sau đây làm chứng:(1) Có gia phổ loài người:Gia phổ của Christ được chép trong Ma 1:1-17 và Lu 3:23-38, làm chứng Ngài là người thật: Bởi trong Ma-thi-ơ thì biên danh liệt tổ đến Áp-ra-ham, chỉ tỏ Ngài thuộc dòng dõi nhà vua; còn trong Lu-ca lại biên danh liệt tổ đến nguyên tổ là A-đam, chỉ tỏ Ngài thật thuộc về giống loài người, bởi vì về mặt nhân tánh thì Ngài là hậu tự của A-đam.(2) Tự xưng là người, cũng được gọi là người:Chính Jesus Christ tự xưng là người; cũng thường được kẻ khác gọi Ngài là người nữa: xem Gi 8:40; Cong 2:22; Ro 5:15; ICo 15:21; ITi 2:5Jesus thường tự xưng mình là “Con Người” (Ma 20:28), tức là Đại biểu của cả giống loài người, có bản tánh thực tại của loài người. Giăng nói rằng “Đạo trở nên xác thịt.” Xác thịt ấy là xác thịt thật, chẳng phải một ảo tưởng như phái Docetae và phái Ngộ đạo chủ trương đâu.(3) Có các nguyên tố của nhân tánh:Christ cũng có các nguyên tố của bản tánh loài người, tức là thân thể, tâm hồn,và tâm linh. Tân Ước có nhiều câu làm chứng rõ cho thực sự ấy: xem Ma 26:38; Gi 11:33; Ma 26:26; Ma 26:38; Lu 24:39; He 2:14; IGi 1:1; IGi 4:2(4) Phát động như bản tánh loài người:Nhân tánh của Jesus Christ phát động chẳng khác gì loài người. Ngài vận dụng các bản năng loài người, từng trải mọi sự thường tình của người phàm. Nên Ngài cử động như người thường, có sự yếu đuối, đói khát, túng thiếu, mỏi mệt, nằm ngủ,thức canh. Phàm những tánh yêu đương, thương xót, vui vẻ, tức giận, buồn bực,lo lắng, sợ hãi, thì Ngài đều cảm xúc cả. Cũng thường cầu nguyện, thở than,khóc lóc như người đời vẫn có vậy. Các câu Kinh Thánh sau đây làm chứng: xem Ma 4:2; Gi 19:28; Gi 4:6; Ma 9:36; Mac 3:5; He 5:7; Gi 12:27; Gi 11:33, Gi 11:35;Ma 14:23(5) Lớn lên theo công lệ thiên nhiên:Jesus cũng lớn lên theo công lệ thiên nhiên chẳng khác gì người thường. Thân thể Ngài càng lớn lên, tâm linh càng minh mẫn, tài trí càng khôn ngoan. Ngài hay đòi hỏi, thọ giáo, học tập vâng phục, thường chịu thử thách, đau đớn, khổ nạn,mới trở nên trọn vẹn. Kinh Thánh chứng rằng: xem Lu 2:40; Lu 2:46,47; Lu 2:52; He 5:8; He 2:18; He 2:10(6) Mắc nạn chịu chết như người thường:Christ mắc nạn chịu chết cũng như người thường. Khi Ngài chịu thương khó, đổ mồ hôi, rơi giọt máu, bị giáo đâm thấu hông, và tắt hơi, thì hết thảy đều chẳng khác chi người thường, đủ biểu minh rằng Jesus Christ có nhân tánh thật. Kinh Thánh chứng rằng: xem Lu 22:44; Gi 19:30; Gi 19:34b) Nhân tánh của Christ hoàn toàn:Nhân tánh Christ chẳng những là thực tại, lại là hoàn toàn thiện hảo mọi bề.Các bằng cớ sau đây làm chứng:1) MẸ THỌ THAI NGÀI CÁCH SIÊU NHIÊN(a) Không có cha loài người:Ma-ri, mẹ của Chúa Jesus chịu thai cách siêu nhiên. Nên khi Ngài giáng sanh thì không noi theo sanh hóa thiên nhiên mà ra đời. Nghĩa là Ngài không có cha loài người, duy mượn thân thể Nữ đồng trinh mà sanh ra.Lu-ca thuật lại sự giáng sanh của Chúa mà rằng:xem Lu 1:34,35Ma-thi-ơ cũng đồng chứng rằng: xem Ma 1:18(b) Xác chứng Ngài được đầu thai cách siêu nhiên: Hai câu viện dẫn ở trên và nhiều đoạn sách khác của Tân Ước đều minh chứng rằng Christ quả được đầu thai trong lòng mẹ cách siêu nhiên.Câu Ma-thi-ơ nói: “Sự giáng sanh của Jesus Christ là như vầy”, ám chỉ rằng sự sanh ra của Ngài khác với lệ thường. Lu-ca cũng đồng quyết chứng rất rõ ràng như vậy.Vả, hễ ai hoài nghi Chúa giáng sanh bởi Nữ đồng trinh cũng hoài nghi sự trinh khiết của Ma-ri nữa. Chính Giô-sép, chồng bà, chối rằng mình chẳng phải là cha của Jesus (Ma 1:19,20). Vậy, nếu bà Ma-ri không chịu thai bởi Thánh Linh, thì cố nhiên bà là đờn bà xấu nết, phạm tội ngoại tình mà sanh Chúa, là Đấng thánh khiết vô cùng. Nhưng ý tưởng ấy cực kỳ ghê gớm, vô lý mọi bề, trái hẳn nết na của bà Ma-ri, và phản đối hẳn mọi bằng chứng về lịch sử giáng sanh của Christ! Hơn nữa, cũng chẳng có ai đã là hiền nhân mà lại dám lộng ngôn gớm ghiếc như thế đâu! Vả lại, lời dự ngôn đầu nhứt của Đức Chúa Trời nói về Ngài cũng gọi Ngài là “dòng dõi người nữ”, chớ chẳng gọi là của người nam đâu (Sa 3:15). Khi Jesus Christ giáng sanh thì Đức Chúa Trời nhờ một động tác tạo hóa mới, vượt quá công lệ sanh hóa thiên nhiên, mà đưa vào thế gian một Người siêu việt, vừa do thiên thượng mà đến, lại vừa thuộc thế hạ mà ra. Xem Ma 1:19,20; Sa 3:14,15Đạo luận về Nữ đồng trinh thọ thai bởi Thánh Linh mà sanh Chúa, chẳng phải là vô bằng đâu, cũng chẳng nên khiến ai ngạc nhiên mà hoài nghi làm gì. Vì bằng chứng bởi lịch sử về biến động phi thường ấy rất nhiều và minh bạch lắm, đủ khiến ai nấy phải công nhận đạo ấy là xác thực vậy.Các bản cổ sao nguyên văn Tân Ước, và các cổ bản phiên dịch ra tiếng Âu Á đều có biên thuật truyện tích ấy cả; sự khẩu truyền của Hội Thánh đầu tiên kể lại truyện ấy; các bài tín điều xưa hơn hết cũng đều luận đến (như bài tín điều của các Sứ đồ). Lý tánh ta cũng dạy rằng một Đấng ăn ở trong đời cực diệu kỳ, chết cực khốn khổ, sống lại cực lạ lùng, thăng thiên cực vinh quang như Christ, cũng rất cần được đầu thai và sanh hạ cách siêu việt, mới đáng gọi là hiệp nghi vậy.(c) Đạo đầu thai của Christ rất quan hệ: Đạo luận về Nữ đồng trinh sanh Cứu Chúa thật rất quan hệ. Bởi vì nếu Ngài nhờ công lệ sanh hóa mà ra đời như mọi người thường, thì Ngài chẳng đáng gọi là có nhân tánh trọn lành đâu, duy là một người bất toàn, bất khiết, bị ác tánh di truyền của tổ tiên cũng như mọi kẻ khác đó thôi. Mà nếu quả như vậy, thì chính Ngài đã có tội rồi; mà nếu có tội, thì làm sao làm Cứu Chúa được? Làm sao cứu rỗi ai,tha tội cho ai được ư?(d) Sự dị nghị:Song có kẻ bài bác rằng, Phi-e-rơ, Phao-lô và Giăng là sứ đồ của Chúa, chẳng hề nói đến lẽ đạo đó, ấy há chẳng biểu chứng rằng họ chẳng biết đạo ấy, hoặc chẳng coi là quan hệ hay sao?Xin đáp: Đời của Chúa kể từ lên một cho đến ba mươi tuổi, thì Mác và Giăng cũng chẳng nói gì đến. Vậy, chúng ta há nhân đó mà quyết đoán rằng khoảng đời của Chúa từ một đến ba mươi tuổi chẳng phải là thực hữu ư? Giăng tuy không biên thuật truyện tích về sự giáng sanh, thì cũng đã công nhận đạo ấy là nền tảng của Tin Lành. Vì ông dạy rằng “Đạo đã trở nên xác thịt, trú ngụ giữa chúng ta” (Gi 1:14). Còn Phao-lô luận về “Đức Chúa Trời… sai Con Ngài đến, sanh bởi người nữ” (Ga 4:4).Nếu chối bỏ đạo về Cứu Chúa giáng sanh bởi Nữ đồng trinh, thì sẽ giải nghĩa truyện tích Chúa giáng sanh chép trong Ma-thi-ơ và Lu-ca thể nào? Lại nữa lời truyền thừa về đạo ấy mà Hội Thánh đầu tiên đã công nhận và truyền lại cho các đời về sau, thì do nguồn gốc nào mà ra? Thật,chối bỏ lẽ đạo nầy lấy làm khó hơn là tín nhận; bởi vì việc chối từ ấy gây nên vô số nan đề khác không ai có thể giải quyết được; song nếu tin nhận thì nan đề ấy chẳng còn nữa, trái lại nó tiêu tán như sương mai gặp phải ánh nắng mặt trời vậy. Cho nên sau khi dò xét cạn lẽ vấn đề nầy, công nhận rằng Cứu Chúa ta quả được đầu thai bởi Thánh Linh, sanh ra bởi Nữ đồng trinh, có nhân tánh trọn lành, vì được thoát khỏi ác tánh di truyền của tổ tiên vậy.2) KHÔNG CÓ NGUYÊN TỘI VÀ KỶ TỘI:(a) Bằng chứng:Jesus Christ sanh ra thì chẳng có nguyên tội của tổ tiên di truyền, cũng chẳng từng phạm kỷ tội. Ngài thường lên đền thờ, nhưng chẳng từng dâng tế lễ đền tội.Cũng cầu nguyện: “Lạy Cha, xin tha cho họ” (Lu 23:34); song chẳng hề cầu xin rằng:“Lạy Cha, xin tha tội cho Con.” Ngài dạy rằng: “Các ngươi cần phải tái sanh”(Gi 3:7); nhưng lời ấy ám chỉ rằng: chính Ngài chẳng cần từng trải sự ấy.Trải qua cả đời sống Ngài chẳng có một sự bất toàn hay một khuyết điểm mảy may nào, nên cũng chẳng cần ăn năn, hoặc cải ác hoàn thiện, Ngài không những là làm theo ý chỉ Đức Chúa Trời sau khi đã rõ ý ấy thôi đâu, lại hằng tìm ý ấy để làm theo nữa (Gi 5:30). Ngài chẳng vì cớ ác cảm,hoặc vì muốn thù hằn oán giận mà nổi giận, bèn giận là vì đức tánh công nghĩa Ngài nổi lên nghịch cùng sự gia hình, sự tàn bạo của người ta. Sự nổi giận ấy cũng thường đi đôi với sự buồn bực thương hại. Như Mác chép: “Ngài giận liếc nhìn xung quanh họ, buồn vì sự cứng lòng của họ” (Mac 3:5). Ngài là Đấng toàn thánh (Lu 1:35), chẳng có chút gì gọi là nguyên tố của tội. Chính Ngài chứng quyết rằng “vua thế gian nầy hầu đến, nó chẳng có chi hết nơi ta” (Gi 14:30).Còn Sứ đồ Giăng tả rằng: “Trong Ngài chẳng có tội lỗi gì… chính Ngài là công nghĩa” (IGi 3:5,7).Trong Ngài chẳng chỗ nào xu hướng về sự quấy,dầu chịu cám dỗ, cũng chẳng từng chiều theo mà phạm tội. Nên chi trước giả thơ Hê-bơ-rơ chứng rằng: “Vì chúng ta… có một thầy tế lễ đã chịu thử thách (cám dỗ) trong mọi việc như chúng ta, song chẳng phạm tội” (He 4:15).Ngài chỉ lấy hình trạng của xác thịt tội lỗi mà hiện đến, chớ xác thịt Ngài chẳng bị tánh tội ác dính vào như xác thịt của mọi người khác. Phao-lô chép: “Vì điều luật pháp không làm nổi, tại nó nhân xác thịt ra yếu đuối, thì Đức Chúa Trời đã vì tội lỗi mà sai chính Con Ngài lấy hình trạng của xác thịt tội lỗi, và định tội cho tội lỗi ở trong xác thịt.” (Ro 8:3).Vì Ngài đã được đầu thai bởi Thánh Linh trong lòng Nữ đồng trinh, nên Kinh Thánh mới gọi Ngài là “Đấng vốn chẳng biết tội lỗi” (IICo 5:21), “thánh khiết, không tà ác, không ô uế, biệt khỏi kẻ có tội” (He 7:26). Ngài chẳng hề phạm kỷ tội nên Ngài mới dám đố rằng: “Trong các ngươi ai có thể chứng minh ta có tội ư?” (Gi 8:46). Phi-e-rơ cũng chứng: “Ngài không phạm tội, trong miệng Ngài cũng không có dối trá” (IPhi 2:22). Ngài không những là không phạm kỷ tội, mà lại chẳng có mảy may tội lỗi gì trong mình, đến đỗi trước giả thơ Hê-bơ-rơ quyết rằng: “Christ… nhờ Thánh Linh đời đời, dâng chính mình không tì vít cho Đức Chúa Trời” (He 9:14). Và Sứ đồ Phi-e-rơ xưng huyết Ngài là “huyết của chiên con không tì không vít” vậy (IPhi 1:19).(b) Sự vô tội do thần tánh và nhân tánh hiệp một:Vả, Christ vốn vô tội là tại vì Ngài có thần tánh đồng hiệp với nhân tánh mà thành vị. Giả như sự sống của bông sen trong hồ kia, tuy tu dưỡng bởi chất bùn lầy, mà chẳng hề nhiễm hôi tanh mùi bùn thế nào, thì cũng một thể ấy sự sống của Đức Chúa Trời trong Jesus Christ thực tại trong cả các nguyên tổ của loài người,mà chẳng hề mắc phải ác tánh của nó chút nào vậy. Ví thử Ngài chỉ có nhân tánh,thì chẳng được vô tội đâu, duy phải bị ác tánh di truyền như mọi người khác thôi.Mà nếu sự vô tội của Christ quả do thần tánh và nhân tánh đồng hiệp mà ra, thì đạo La Mã luận về Nữ đồng trinh Ma-ri không có nguyên tội thật vô lý. Ví thử mẹ Jesus Christ sanh ra toàn khiết toàn thánh,chẳng bị hủ bại của tổ tiên truyền lại, thì sự thánh khiết của Jesus Christ là do mẹ Ngài mà ra, và như thế thì cuộc tái sanh dòng giống loài người chẳng phải bắt đầu từ Ngài đâu, bèn khởi sự ở trong cuộc sanh hạ mẹ Ngài ra vậy. Đạo ấy cũng đoạn tuyệt sự quan hệ Ngài với giống loài người, đến đỗi không còn có thể gọi Ngài là do giống tội nhơn mà ra, bèn là nhận được nhân tánh từ trong một nhân cách khác hẳn mọi bề với nhân cách của chúng ta. Nói một lời, đạo ấy duy tiếm đoạt chỗ cao cả của Cứu Chúa Christ, mà giao cho nữ đồng trinh Ma-ri đó thôi!(c) Sự vô tội tương đối với sự bị cám dỗ thế nào? Có kẻ hỏi: Nếu Chúa Jesus Christ đã không có nguyên tội,cũng không có chỗ nào xu hướng về tội ác, thì thế nào lại bị cám dỗ?Đáp rằng: Nguyên tổ vốn vô tội mà cũng bị cám dỗ. Ma quỉ lợi dụng lòng thèm muốn của họ mà cám dỗ họ. Song sự cám dỗ đó chẳng phải là tội đâu. Nếu họ không từng nhường chỗ cho sự cám dỗ ấy để làm thỏa lòng thèm muốn mình trái ý chỉ Đức Chúa Trời, thì nó chẳng làm hại gì họ được đâu. Tội lỗi của tổ tiên ta chẳng phải là do ở nơi lòng thèm muốn ăn trái ngon kia, bèn là do ở trong việc làm thỏa lòng ấy trái với ý chỉ Đức Chúa Trời mà ăn trái Ngài đã cấm.Chúa Jesus cũng có những quan năng, lòng thị dục bởi Đức Chúa Trời dựng nên như mọi người khác đã có. Ma quỉ có thể cám dỗ Chúa vận dụng các quan năng ấy mà làm thỏa lòng thị dục đó cách trái với ý chỉ Đức Chúa Trời. Lòng thị dục thiên nhiên ấy chẳng phải là tội đâu, bèn là chánh đáng, xứng hiệp đạo đức cả. Song nếu Christ đã trái ý chỉ Đức Chúa Trời để làm thỏa thích nó, thì mới gọi là phạm tội.Trong Ma 4:1-11, ta thấy Chúa bị cám dỗ ba lần:lần thứ nhứt, vì khẩu phúc; lần thứ hai, vì thanh danh; lần thứ ba, vì quyền lợi;nói tóm lại, thì Chúa bị cám dỗ về danh, lợi, và dục. Vả, trong việc cám dỗ loài người, ma quỉ thường viện lấy hoặc lòng thèm muốn, hoặc lòng sợ hãi mà cám dỗ. Cho nên trong đồng vắng ma quỉ vin vào lòng thị dục của Chúa mà cám dỗ; còn trong vườn Ghết-sê-ma-nê, thì nó lại vin lấy lòng sợ hãi mà cám dỗ, cốt để nhân vì sự sợ hãi thập tự giá mà khiến Ngài lìa bỏ đường vâng phục Cha. Nhưng cảm tả Đức Chúa Trời, dầu ma quỉ hết sức dùng mưu nầy chước kia mà xâm lăng linh hồn thánh của Ngài, thì Ngài cũng chẳng sa ngã, bèn vẫn vô tội (He 4:15), chẳng từng làm theo gương nguyên tổ ta mà phạm tội chút nào. Chúa Jesus Christ ví như cây kia mọc nơi mé vực thẳm hiểm trở nọ, bị gió day dữ dội, thiếu đều trốc gốc,nhưng may thay! Nó châm rễ quá sâu, bám chặt vào chơn núi, nên không ngã được.Dầu tại đồng vắng hay là trong vườn Ghết-sê-ma-nê, Christ chịu cám dỗ đến cùng,nhưng chẳng sa ngã, vì gốc rễ lòng đạo đức Ngài đã đâm sâu trong chính thể yếu của Đức Chúa Trời vậy.3) NHÂN TÁNH ĐỒNG HIỆP VỚI THẦN TÁNH MỚI THÀNH VỊ:Trước khi Christ giáng sanh, thì nhân tánh Ngài chưa thành vị. Nhưng khi Đạo (là thần tánh) đồng hiệp với nhân tánh ở trong lòng Nữ đồng trinh, thì nhân tánh ấy mới thành vị. Nói cách khác, Đạo chẳng đồng hiệp với một nhân tánh đã thành vị, đã được trưởng dưỡng như nhân tánh của Gia-cơ, Phi-e-rơ và Giăng; bèn là đồng hiệp với nhân tánh trước khi tánh ấy chưa có ngôi riêng mà thành vị vậy. Thế thì, chúng ta chẳng nên nói Christ có hai ngôi, là ngôi Đức Chúa Trời và ngôi loài người, nhưng nên nói Ngài chỉ có một ngôi, mà ngôi ấy gồm đủ hai tánh, là nhân tánh và thần tánh vậy.4) NHÂN TÁNH LÝ TƯỞNG:Nhân tánh của Christ là một nhân tánh lý tưởng (nature idéale), làm mô phạm trọn vẹn cho loài người. Đa-vít tả ra người lý tưởng (homme idéal) của Đức Chúa Trời rằng: Thi 8:4-8Chỉ Christ làm ứng nghiệm lời dự tả ấy. Nên trước giả thơ Hê-bơ-rơ chép rằng: He 2:6-10A-đam thứ nhứt chẳng đạt đến bực lý tưởng ấy,bèn là đã phạm tội, mất mão miện vinh hiển của sự chủ trị muôn vật. Nhưng nhờ A-đam thứ nhì (ICo 15:45) làm mô phạm, loài người mới đạt đến bực lý tưởng vinh hiển ấy được. Nên Phao-lô nói: xem ICo 15:49Vinh hiển của Chúa là kiểu mẫu mà ta được biến hóa giống như hình trạng của Chúa (IICo 3:18); cho nên có câu dạy rằng: Phil 3:21; Co 1:18; IPhi 2:21Christ là Người siêu quần tuyệt đối, trong Ngài gồm tóm các thiện tánh, lương năng tuyệt trần, các mỹ đức ưu tú của loài người, vô luận là thuộc chủng nào, dân nào, nước nào, có thể chất gì, đứng trong trình độ nào mặc dầu đều không sao sanh kịp Ngài. Ngài không những là có sự vô tội nguyên bản, mà lại có sự thánh khiết thực nghiệm do sự đắc thắng các trận cám dỗ mà ra nữa. Ngài là Đối tượng rất xứng đáng cho lòng yêu thương thờ phượng của ta. Dầu ta có yêu thương Ngài đến ngằn nào cũng không quá, thờ phượng Ngài đến mực nào cũng chẳng vừa. Ngài là nguồn chánh thức của luân lý, gốc chân thật của thần đạo. Ngài là Người lý tưởng phổ thông, điển hình toàn vẹn vô song, chẳng ai sánh kịp. Thật như trước giả Nhã ca đã nói: Ngài là “hoa tường vi của Sa-rôn, Bông huệ của trũng”, “Đệ nhứt trong muôn người” vậy (Nha 2:1;5:10).5) CÓ QUYỀN PHÁT SANH:Nhân tánh trọn vẹn ấy có quyền phát sanh như hột giống tốt có sức lưu giống về sau. Christ sở dĩ được gọi là A-đam thứ hai là vì Ngài là tổ tiên của dòng dõi mới. Nhờ Ngài tội nhơn hưởng được linh mạng mới và thánh. Tiên tri Ê-sai gọi Ngài là “Cha đời đời” (Es 9:6). Cũng nói Ngài “sẽ thấy dòng dõi mình” (Es 53:10). Trong Kh 22:16 Ngài tự xưng là “gốc và hậu tự của Đa-vít”, ám chỉ rằng Ngài có quyền phát sanh. Ngài cũng phán cùng môn đồ rằng: “Vì như Cha… làm cho được sống thế nào, thì Con cũng làm cho kẻ mình muốn sống thể ấy”, và “Ta là cây nho thật” (Gi 5:21; 15:1). Gốc của cây ấy bởi Trời sanh ra, ăn dài dưới đất, và linh mạng mới của tuyển dân muôn đời cũng từ mầm gốc ấy mà nẩy nở ra, cũng khiến cho các nhánh khô héo của giống loài người cũ đã tháp vào đó được sống đời đời. Cho nên Chúa Jesus phán: “Cha ban cho Con quyền bính trên mọi xác thịt, hầu cho hễ ai Cha đã ban cho Con, thì Con ban cho họ sự sống đời đời.” (Gi 17:2). Phao-lô cũng dạy rằng: “A-đam sau hết thì nên thần linh ban sự sống” (ICo 15:45). Chữ “thần linh” đây chẳng chỉ về Thánh Linh,cũng chẳng những chỉ về thần tánh của Chúa thôi đâu, bèn là chỉ về cả bản ngã Thần nhân hoàn toàn của Ngài; mà chính bản ngã ấy là nguồn gốc thật của sự “sinh thực tác dụng” của dòng giống thuộc linh vậy.Phao-lô cũng gọi “Christ là Đầu Hội Thánh” (Eph 5:23). Trọn cả đoàn thể của Hội Thánh đều dính với Christ, do Ngài mà được linh mạng và quyền năng, chẳng khác nào các chi thể dính với đầu vậy (Eph 1:22).Ngài là Đầu của loài người mới, vì Ngài “sanh đầu nhứt từ trong kẻ chết” (Co 1:18). Ngài thường gọi môn đồ bằng “các con bé mọn” (Gi 13:33), và trong He 2:13 lại phán: “Đây nầy, tôi và các con cái mà Đức Chúa Trời đã ban cho tôi.”Khi lìa khỏi môn đồ thì gọi họ là “mồ côi” (Gi 14:18). Coi đó ta biết rằng Ngài nhận mình là Nguyên tổ của loài người. Như A-đam là nguồn gốc của mạng sống cũ,thì Christ là nguồn gốc của mạng sống mới, ban cho kẻ tín nhận Ngài được tái sanh, trở nên con cái của Đức Chúa Trời, và được thuộc trong dòng giống mới và thánh đó vậy.2. LUẬN VỀ THẦN TÁNH CỦA CHRISTKinh Thánh cũng dạy rằng Christ không những là có nhân tánh, mà lại có thần tánh thực hiện hoàn toàn nữa. Các bằng cớ kể sau đây các chứng cho.a) Ngài được xưng hô là Đức Chúa Trời:Trong Tân Ước Christ thường được xưng hô là Đức Chúa Trời rất rõ ràng, như những câu trưng giải sau đây:(1) Gi 1:1. “Đạo là Đức Chúa Trời.” Theo câu nầy, Đạo (Logos Christ) không những là ở cùng Đức Chúa Trời, nhưng chính Đạo ấy là Đức Chúa Trời.(2) Gi 20:28.Thô-ma chẳng phải là vì tình cờ kêu Đức Chúa Trời như thói thường gặp nguy biến hay kêu “Trời ơi” đâu; bèn là cố ý nhận và xưng Jesus là Chúa và Đức Chúa Trời của mình. Mà chính Chúa chẳng trách Thô-ma vì đã xưng hô Ngài như thế đâu, bèn ngầm nhận sự xưng hô ấy là xứng đáng vậy.(3) Ro 9:5.Trong phần đầu của câu nầy Phao-lô luận về nhân tánh của Chúa; rồi đến phần chót lại luận đến thần tánh Ngài, xưng Ngài là chính Đức Chúa Trời trên hết mọi sự, đáng ngợi khen đời đời.(4) Tit 2:13.Trong câu ấy Phao-lô trực tiếp tuyên cáo cách xác định rằng Cứu Chúa ta là chính Đức Chúa Trời. Vả lại, từ liệu “sự hiện ra vinh hiển” thường dùng để nói về Con, chớ chẳng khi nào dùng để nói về Cha. Thế thì, “Đức Chúa Trời lớn” đây quả chỉ về Jesus ở Na-xa-rét, Christ của Đức Chúa Trời vậy.(5) He 1:8,10. “Hỡi Đức Chúa Trời, ngôi Ngài còn đến đời đời… Hỡi Chúa, ban đầu Ngài lập nền trái đất,Các từng trời cũng là công việc của tay Ngài.” Câu ấy trước giả Hê-bơ-rơ dẫn ở Thi 45:6,7. Ông đem những điều thiện ấy vốn nói về Giê-hô-va (Đức Chúa Trời)của Cựu Ước mà ứng dụng cho Jesus Christ của Tân Ước. Ấy chứng thực rằng trong câu 8 trước giả cố ý dùng danh hiệu Đức Chúa Trời để chỉ định Christ thật có thần tánh trọn vẹn, được đồng đẳng, đồng quyền với Đức Chúa Trời vậy.(6) IGi 5:20.Trong câu ấy Giăng dạy rằng chúng ta đều ở trong Đức Chúa Trời chân thật và Đức Chúa Trời chân thật đó, tức là Jesus Christ vậy.b) Tân Ước xưng hô Jesus là Chúa:Tân Ước thường gọi Jesus là Chúa (xem Ma 22:43-45; Lu 2:11; Cong 4:33; 9:17; Cong 16:31). Nhằm đời Chúa Jesus, dân Do Thái hay dùng danh ấy mà xưng Đức Chúa Trời.Nhờ lịch sử học ta biết rằng đời bấy giờ các hoàng đế La Mã và các vua nhà Ptolémés (Ai-cập) đều dùng danh hiệu “chúa” (kurios) để tự xưng là thánh thần,buộc dân sự phải thờ lạy mình. Thế thì, khi các trước giả xưng hô Jesus là Chúa, thì họ cũng chắc cố ý dùng danh từ ấy theo nghĩa phổ thông để chứng quyết Ngài là Đức Chúa Trời.Tân Ước cũng viện dẫn nhiều câu của Cựu Ước để ứng dụng cho Chúa Jesus. Trong những câu ấy hễ Cựu Ước dùng danh hiệu Giê-hô-va, thì trước giả Tân Ước lại dùng danh hiệu Chúa. Ví như câu trong Ma 3:3, “Hãy dọn đường Chúa”, là câu dẫn ở trong Es 40:3, “Hãy mở đường… cho Giê-hô-va.” Câu trong IPhi 3:5: “Trong lòng anh em hãy tôn Christ là thánh để làm Chúa”, là câu dẫn ở trong Es 8:13, “Hãy tôn Giê-hô-va vạn quân là thánh.” Nếu ta bỏ chữ Chúa trong các câu ấy mà để lại chữ Giê-hô-va, thì minh bạch lắm.Jesus ở Na-xa-rét là Giê-hô-va. Jesus, tức là Giê-hô-va của Cựu Ước, Đấng tự hữu hằng hữu, Đức Chúa Trời đời đời vô cùng vậy. Cũng xem Xu 3:14 và Gi 8:58.c) Tân Ước dùng các lời mô tả Giê-hô-va mà ứng dụng cho Jesus: Các nhà trước thuật Tân Ước cũng thường mượn những câu của Cựu Ước vốn mô tả phẩm cách của Giê-hô-va, mà dùng để mô tả phẩm cách của Jesus. Ví như Phao-lô chép:Eph 4:7,8. Câu nầy dẫn ở Thi 68:18, vốn luận về Đức Chúa Trời mà đây Phao-lô lại dùng để minh chứng Christ là Đấng đã thăng thiên, ban ân điển hạnh phước cho dân sự Ngài.Còn Sứ đồ Giăng nói rằng: Gi 12:41. Câu nầy chắc chỉ về sự từng trải của chính mình tiên tri, chép trong Es 6:1. Cũng xem Thi 102:25-27 sánh với He 1:10-12; Gie 23:6 sánh với Ro 3:21-26.Coi các lẽ tỏ ra trên, ta có thể đoán chắc chắn rằng các nhà trước thuật Tân Ước đều thừa nhận Jesus Christ ở Na-xa-rét là Giê-hô-va của Cựu Ước, Đức Chúa Trời đời đời hiện ra trong xác thịt để cứu rỗi loài người vậy.d) Ngài có tánh đức của Đức Chúa Trời:Tân Ước cũng thường chứng rõ Jesus có các tánh đức của Đức Chúa Trời, như hằng sống, tự hữu, bất dịch, chân thật, yêu thương, thánh khiết, hằng hữu, vô sở bất tại, vô sở bất tri, vô sở bất năng. Các tánh đức ấy các trước thuật Tân Ước thường ứng dụng cho Christ để biểu dương Ngài là Đức Chúa Trời thật, chớ chẳng dùng như những khách từ (prédicats) để mô tả các tài năng đức hạnh cao thượng của vị thọ tạo nào đâu. Những câu viện dẫn ra sau đây làm chứng:(1) Hằng sống:Christ hằng sống vì Ngài có sự sống đời đời, và là nguồn của sự sống ấy: xem Gi 1:4; Gi 14:6(2) Tự hữu:Christ tự hữu cũng như Cha tự hữu, sự sống Ngài chẳng hề tiêu tan bao giờ. Xem Gi 5:26; He 7:14(3) Bất di bất dịch:Christ đến đời đời chẳng hề thay đổi: xem He 13:8(4) Chân thật:Christ là chân thật vì Ngài là chính lẽ thật: Gi 14:6; Kh 3:7(5) Thương yêu: Nhờ Christ vì chúng ta chịu chết thì chúng ta mới biết hề rộng, bề cao, bề dài, bề sâu của sự yêu thương ấy: xem IGi 3:16(6) Thánh khiết:Christ được thiên sứ và loài người xưng hô là Đấng Thánh của Đức Chúa Trời: Lu 1:35; Gi 6:69; He 7:26(7) Hằng hữu: Từ trước vô cùng cho đến đời đời Christ hằng có, đã tự hữu từ cõi vĩnh viễn, cũng sẽ còn lại cho đến đời đời vô cùng tận vậy: Gi 1:1; Gi 5:58; Co 1:17; He 1:11,12(8) Vô sở bất tại: Chỗ nào cũng có Ngài, Ngài làm đầy dẫy mọi việc trong mọi người: Ma 28:20; Ma 18:20; Eph 1:23Khi Christ lìa khỏi sứ đồ, thì về trên trời;dầu vậy Ngài quyết hứa sẽ ở với họ luôn, ở giữa họ mỗi khi hai ba người nhơn danh Ngài nhóm nhau lại. Chỉ một Đấng vô sở bất tại có thể làm ứng nghiệm lời hứa ấy. Mà Đấng vô sở bất tại ấy là Đức Chúa Trời. Vậy nếu Jesus Christ thật là vô sở bất tại, thì Ngài há chẳng phải là Đức Chúa Trời sao?(9) Vô sở bất tri:Christ cũng vô sở bất tri. Ngài biết mọi sự, hoặc thuộc về quá khứ, hiện tại hay tương lai. Cũng biết mọi người, thấy rõ mọi điều giấu kín tận đáy lòng của họ. Thực ra thì việc kín đáo hơn hết cũng vẫn được bày tỏ ra trước mặt Ngài như chánh ngọ vậy: Ma 9:4; Gi 2:24,25; Gi 16:30; Cong 1:24 vả môn đồ cầu nguyện lời ấy trước lễ Ngũ Tuần, biểu chứng rằng lúc ấy họ đã thừa nhận Ngài là Đấng vô sở bất tri rồi. ICo 5:5; Co 2:3Chúa Jesus chẳng nhờ học vấn mà thông biết mọi sự, bèn từ trước vô cùng tự mình mà biết, hoặc là việc cao thấp, khó dễ, thuộc thể hay thuộc linh, thì Ngài đều biết hết, thảy đều ở trước mặt Ngài như quyển sách mở ra vậy.(10) Vô sở bất năng:Christ lại cũng vô sở bất năng, mọi quyền bính thế lực đều ở trong tay Ngài cả:Ma 28:18; Kh 1:8. Cũng xem Gi 17:2; Eph 1:20-22.Ngài có quyền trên chứng bịnh (Lu 4:38-41),trên sự chết (Gi 11), trên cõi thiên nhiên (Gi 2: và Ma 8:), trên cõi ác quỉ (Lu 4:35, Lu 4:36, Lu 4:41), trên nước của Sa-tan (Eph 1:20-22). Nói tóm một lời,Ngài có quyền trên mọi sự muôn vật vậy (He 1:3; He 2:8).e) Ngài làm công việc của Đức Chúa Trời:Kinh Thánh cũng dạy rằng Christ đã làm và đương làm công việc mà chỉ Đức Chúa Trời có thể làm được thôi. Đây chẳng nói về các dấu kỳ phép lạ, vì việc ấy người ta nhờ quyền năng của Đức Chúa Trời ban cho cũng có thể làm được. Nhưng nói về việc tạo hóa, việc bảo tồn, sự tha tội, sự khiến kẻ chết sống lại, sự xét đoán mọi người đều là công việc mà loài người chẳng ai làm được, duy thuộc về Đức Chúa Trời Toàn năng tuyệt đối mà thôi. Các câu trưng dẫn ra sau đây chứng cho:(1) Việc tạo hóa:Tuy Kinh Thánh dạy rằng Đức Chúa Trời là Đấng Tạo hóa, nhưng cũng tỏ ra Christ là Cơ quan Ngài dùng để làm thành cuộc ấy: Gi 1:3; ICo 8:6; Co 1:16; He 1:10; He 3:3,4 nghĩa là Christ là Đấng xây dựng nhà Y-sơ-ra-ên xưa, cũng vốn là Đức Chúa Trời dựng nên muôn vật vậy. Kh 3:14(2) Việc bảo tồn muôn vật: Vũ trụ chẳng tự bảo tồn được, bèn là nhờ Christ mà được kết hợp, bảo tồn để cho sự kết hiệp khỏi băng hoại: Co 1:17; He 1:3(3) Tha tội:Trong Mac 2:5-10 có thuật chuyện về sự chữa người bại. Khi Chúa Jesus phán cùng người nầy: “Hỡi con, tội lỗi con đã được tha”, thì các văn sĩ ngồi đó lúc bấy giờ bài bác rằng Chúa nói lộng ngôn, vì chỉ Đức Chúa Trời có quyền tha tội được thôi. Chúa bèn chữa bịnh cho kẻ bại đó, cốt để chứng minh cho họ biết rằng Ngài có quyền bính tha tội, bởi vì chính Ngài là Đức Chúa Trời vậy. Mac 2:8-10. Cũng xem Lu 7:48; 24:47.(4) Kêu kẻ chết sống lại:Chúa Jesus quả quyết rằng Ngài có quyền khiến người ta sống lại: Gi 6:39. Cũng xem câu 40,54. Gi 5:28,29Dầu có kẻ khác đã kêu kẻ chết sống lại (như Ê-li, Ê-li-sê và các sứ đồ), thì họ đều nhận quyền thi hành việc ấy ở nơi Đức Chúa Trời (Cong 9:34); song Christ thì vốn có quyền ấy, chỉ một mình Ngài sẽ thi hành quyền đó nơi ngày sau rốt, vì chính Ngài là Đức Chúa Trời, động nhân của sự sống lại vậy.(5) Xét đoán mọi người:Tân Ước dạy rõ ràng rằng Người xưa chịu treo trên cây gỗ khổ nhục kia cũng là Đấng về sau sẽ ngự trên ngôi vinh hiển, cầm quyền bính xét đoán mọi người mọi sự, và chẳng còn có tòa thượng thẩm nào đổi đoán ngữ Ngài được bao giờ. Gi 5:22; Ma 25:31,32. Cũng xem Ma 25:31-46; Cong 17:31; IITi 4:1.f) Ngài chịu loài người tôn kính thờ lạy mình:(1) Sứ đồ chỉ chịu thờ phượng Đức Chúa Trời:Kinh Thánh răn dạy loài người chỉ nên thờ phượng một mình Đức Chúa Trời, chẳng nên thờ lạy vị thọ tạo nào, dầu cao trọng đến đâu cũng vậy. Trong lúc chịu cám dỗ, Chúa phán cùng ma quỉ rằng: “Ngươi hãy thờ lạy Chúa là Đức Chúa Trời ngươi,chỉ hầu việc một mình Ngài mà thôi” (Ma 4:10). Trong Kh 22:8,9 ta thấy Thánh Giăng muốn thờ lạy thiên sứ, nhưng thiên sứ nghiêm cấm mà phán rằng: “Coi, chớ làm vậy!… Hãy thờ lạy Đức Chúa Trời!” Khi Phi-e-rơ vào nhà Cọt-nây, thì Cọt nây bèn muốn thờ lạy Phi-e-rơ, nhưng ông không cho và nói rằng: “Ông hãy đứng dậy,chính tôi cũng là người” (Cong 10:25,26; cũng xem Cong 14:14,15). Coi đó ta hiểu rõ các sứ đồ đều nhận rằng ở ngoài Đức Chúa Trời chẳng nên thờ phượng ai cả.Khi vua Hêrốt sanh lòng kiêu ngạo, chịu để cho người ta sùng bái mình, thì Đức Chúa Trời liền đánh vua bị trùng đục mà chết rất gớm ghê. Dầu vậy, các sứ đồ thường thờ phượng Christ, cũng răn bảo người khác phải thờ lạy Ngài nữa. Thực sự ấy há chẳng chứng rằng họ nhận Ngài là Đức Chúa Trời sao? (Cong 12:20-25)(2) Chúa Jesus dạy bảo người ta thờ phượng Ngài: Chúa Jesus chẳng những thường chịu cho người ta thờ phượng mình, không khi nào từ chối hay ngăn cấm; hơn nữa, Ngài lại còn dạy bảo ai nấy đều phải tôn kính Con cũng như tôn kính Cha vậy. Gi 5:23; Gi 14:14; Ma 14:33;Lu 5:8; Gi 20:28Các câu ấy chứng minh rằng Chúa Jesus tự xưng là Đức Chúa Trời, vì chịu cho người ta thờ lạy mình và cũng dạy bảo họ làm như vậy nữa.(3) Sứ đồ và tín đồ đầu tiên nhận sự thờ phượng Christ là chánh đáng: Tân Ước và lịch sử Hội Thánh đều chứng nhận rằng các sứ đồ và tín đồ đầu tiên đều nhận sự thờ phượng Christ là việc chánh đáng, vì họ đều coi Ngài là Đức Chúa Trời thật. Tân Ước chứng rằng: Lu 24:52; Cong 7:59; Phil 2:10,11; Kh 5:12-14; IIPhi 3:18; IITi 4:18 và He 13:21. Cũng xem ICo 1:2; IICo 12:8-10Khảo cứu lịch sử Giáo hội đầu tiên, cũng dễ thấy tín đồ lúc bấy giờ đều thành tâm tận ý thờ phượng Chúa Jesus như họ vẫn thờ phượng Đức Chúa Trời vậy. Sách “Sự dạy dỗ của Sứ đồ” (thế kỷ I) xưng hô Ngài là “Đức Chúa Trời của Đa-vít” Giáo phụ Ignace thường gọi Ngài là “Đức Chúa Trời hiện ra trong xác thịt”, xưng huyết Ngài là “huyết của Đức Chúa Trời” (Cong 20:28);cũng gọi Ngài là “kiến trúc sư đã sáng thiên lập địa”. Giáo phụ Hermas luận về Ngài là “Linh thánh tiên hữu đã tạo thành muôn vật”. Giáo phụ Justin Martyr, Clément (130-160), và lắm trước giả khác của giáo hội đầu tiên cũng đều đồng thanh xưng hô Ngài là Đức Chúa Trời thật.Coi đó ta thấy rõ nào sứ đồ, nào tín đồ, nào Giáo hội đầu tiên, đều thờ phượng Jesus Christ như họ thờ phượng Đức Chúa Trời.Mà nếu Jesus Christ chỉ là người, thì các người ấy há chẳng phạm tội thờ tà thần sao? Còn chính Chúa Jesus là Đấng đã nhận chịu và dạy bảo họ phải làm vậy, há chẳng mắc tội phạm thượng mà khiến cho người ta phạm tội trọng đại đấy ư? Dường ấy, nếu Christ chẳng phải là Đức Chúa Trời, thì Ngài hẳn là một đứa dối trời gạt người đó thôi. Nhưng xem xét đời sống Ngài, công việc và đức tánh Ngài, thì biết chắc chắn rằng Ngài không phải là đứa hay dỗ dành lừa dối đâu, bèn là một Đấng đạo đức thánh khiết tuyệt đối, buộc ta phải công nhận Ngài là Đức Chúa Trời hoàn toàn, xứng đáng cho ta thờ phượng Ngài vậy.g) Danh Ngài ngang bằng với danh Đức Chúa Trời:Tân Ước có những câu dùng cả danh Đức Chúa Trời lẫn danh Jesus Christ cùng trong một việc một lúc, ám chỉ rằng hai danh ấy ngang bằng với nhau, vì sự sống đời đời và các ân tứ thuộc linh đều do cả Đức Chúa Trời lẫn Jesus Christ mà ra.Hai câu sau đây minh chứng:(1) Dụng ngữ lễ báp têm:trong dụng ngữ lễ báp têm ta thấy danh của Con và Thánh Linh đều ngang bằng với danh của Cha.Ma 28:19. “Hãy nhân danh Cha, Con và Thánh Linh mà làm báp têm cho họ.” (Sánh câu ấy với Cong 2:28 “Ai nấy phải nhân danh Jesus Christ chịu báp têm; ” và Ro 6:3. “… chịu báp têm trong Jesus Christ.”)(2) Lời chúc phước của sứ đồ: Ân điển trong các lời chúc phước dẫn sau đây do cả Đức Chúa Trời lẫn Jesus Christ mà lưu đến loài người, chứng rằng Ngài đồng quyền với Cha vậy. ICo 1:3; IICo 13:14. Cũng xem Gi 5:23; 14:1; 17:3; Ma 11:27; ICo 12:4-6; Ro 10:17; Co 3:15; IITe 2:16,17; Eph 5:5; Co 3:1; Kh 20:6; 22:3,16.h) Tự xưng mình là bình đẳng với Đức Chúa Trời:Chính Jesus Christ thường tự xưng mình là bình đẳng với Đức Chúa Trời. Gi 5:18;Phil 2:6Nghĩa câu sau đó là Ngài không coi sự bình đẳng với Đức Chúa Trời là sự Ngài cần phải dùng cường quyền mà giữ lấy. Lời nói việc làm của Christ ấn tượng cho tâm trí người đồng thời rằng Ngài tự xưng mình là Đức Chúa Trời. Mà hôm nay phần nhiều kẻ khảo cứu Tân Ước cũng khó thoát khỏi cái ấn tượng ấy.i) Ngài được gọi là Con Đức Chúa Trời:Trong ba sách Tin Lành đầu có lắm chỗ gọi Ngài là Con Đức Chúa Trời (Ma 16:16,Ma 16:17; Ma 8:29; Ma 14:33; Mac 1:1; Mac 14:61; Lu 1:35; Lu 4:41). Chính Ngài chẳng trách ai gọi Ngài như thế, bèn ngầm nhận danh hiệu ấy là chánh đáng. Khi Ngài đứng trước thầy tế lễ thượng phẩm Cai-phe, thì ông ấy hỏi: “Ấy chính ngươi là Christ, Con Đức Chúa Trời đáng ngợi khen phải không?” Chúa Jesus đáp: “Ta chính phải đó” (Mac 14:61,62; Lu 22:70).Trong sách Tin Lành Giăng thì chính Ngài trực tiếp tự xưng mình là Con Đức Chúa Trời, chẳng giấu gì cả (Gi 5:25; Gi 10:36; Gi 11:4). Mà sách Tin Lành ấy cũng được chép cốt để minh chứng rằng Jesus ở Na-xa-rét là Con Đức Chúa Trời, Đạo (Logos) hiện ra trong xác thịt để cứu chuộc loài người. Nên chi Giăng khởi chứng rằng: “Đạo là Đức Chúa Trời”, và kết luận rằng: “Lạy Chúa tôi và Đức Chúa Trời tôi!”j) Ngài tự cảm biết mình là Đức Chúa Trời: Bốn sách Tin Lành cũng chứng rõ chính Chúa Jesus tự cảm biết mình không những là người mà lại là Đức Chúa Trời nữa. Ngài phán cùng Ni-cô-đem rằng: Gi 3:13Lời ấy chứng rõ ràng Chúa Jesus ở đời nầy thường cảm biết Ngài không những là thuộc về đất, mà lại là thuộc về trời nữa.Ngài cũng quyết rằng: Gi 8:58. “Trước khi chưa có Áp-ra-ham, ta vẫn hằng hữu.”Ấy là Ngài nói rõ Ngài là Đấng vô thỉ vô chung, tự hữu hằng hữu như chính Đức Chúa Trời vậy. Ngài cũng phán cùng Phi-líp rằng: Gi 14:9,10Có khi Chúa Jesus kêu Đức Chúa Trời là Cha ta, hoặc là Cha của các ngươi; nhưng chưa hề kêu Ngài bằng Cha của chúng ta; ấy là Chúa Jesus biết mình có quan hệ với Cha là khác hẳn với người đời, được xứng đáng trong địa vị cao siêu, có quyền gọi Đức Chúa Trời là Cha của mình một cách đặc biệt. Cũng vì Ngài là Con, nên chỉ một mình Ngài thông biết Cha và có thể bày tỏ Cha cho người ta vậy. Ma 11:27; Gi 1:18k) Sự từng trải của tín đồ chứng rằng Christ là Đức Chúa Trời: Sự từng trải của tín đồ cũng đồng hiệp với Tân Ước mà chứng cho Christ có thần tánh, thừa nhận Ngài là Cứu Chúa hoàn toàn tuyệt đối, đã bày tỏ ra Đức Chúa Trời cách trọn vẹn, đặng cho người đời kính mến thờ phượng cũng như họ kính mến thờ phượng Đức Chúa Trời vậy. Sự từng trải ấy cũng phân biệt Đức Chúa Trời với Jesus Christ, nhận Ngài là Đấng Trung bảo giữa Đức Chúa Trời và loài người, nhờ Ngài tội nhơn được giải hòa mà đến gần Đức Chúa Trời. Nói cách khác, tuy chúng thừa nhận Christ là Đức Chúa Trời, thì cũng phân biệt ngôi Ngài với ngôi Cha, vì Con là Ngôi thứ hai, Đấng bày tỏ Cha và đem ta đến gần Cha vậy.Tuy thế, sự từng trải của tín đồ có lẽ không thể gọi là bằng cớ độc lập để chứng minh cho thần tánh của Christ, bởi vì sự từng trải ấy chỉ thực nghiệm lẽ thật đã khải thị trong Kinh Thánh rồi. Dầu vậy, ta thường thấy mọi người đã nhờ Christ mà được cứu rỗi, đều rất muốn tôn vinh Cứu Chúa mình, nhắc Ngài lên bực cao cả, khiêm nhường sấp mình xuống thờ phượng Ngài, vui lòng xưng hô Ngài là Đức Chúa Trời của mình. Mà sự từng trải ấy, dầu không thế gọi là bằng cớ độc lập chứng minh về thần tánh của Christ, thì cũng quả hẳn là một lý do rất mạnh làm chứng rằng duy sự giải nghĩa Kinh Thánh của kẻ tín nhận Christ là Đức Chúa Trời trọn vẹn mới đáng gọi là sự giải nghĩa đúng đắn vậy. Nói cho đúng, Giáo hội phổ thông, chẳng hề nhờ sự suy luận mà thừa nhận Christ là Đức Chúa Trời bao giờ, bèn là nhờ sự tri thức trực tiếp bởi Thánh Linh ban cho mà nhận biết vậy. Thế thì, hễ ai giải nghĩa Kinh Thánh cách phản đối đạo ấy, chẳng qua là phản đối cả lương tri trực tiếp của Giáo hội phổ thông,luôn sự từng trải của toàn thể tín đồ nữa. Vì từ đời các sứ đồ cho đến giờ lòng của Giáo hội phổ thông bao giờ cũng cảm biết rằng Christ quả có thần tánh, xứng đáng gọi là Đức Chúa Trời hoàn toàn. Thành thử, các sách vở, các bài tín điều,các lễ nghi, các bài ca hát của Giáo hội xưa nay, thảy đều đồng chứng rằng Jesus Christ là Đức Chúa Trời trọn vẹn vậy.Nhưng lẽ tỏ ra ở trên cũng đủ mà cải lại tà thuyết Arius và tà thuyết Phe Ebonites, chứng nghiệm Christ thật có thần tánh,đồng thể yếu với Đức Chúa Trời, thực hữu từ trước vô cùng vậy.III. HAI TÁNH CỦA CHRIST HIỆP NHAU TRỞ NÊN MỘT NGÔIChúng ta đã biết Kinh Thánh dạy rằng Christ có cả hai thần tánh và nhân tánh, nhưng mà thể yếu của mỗi tánh chẳng thay đổi,cũng chẳng lẫn lộn nhau, bèn cứ giữ vẹn các bản năng tư cách của mình. Song Kinh Thánh cũng minh huấn rằng Jesus Christ chỉ có một ngôi; thần tánh và nhân tánh đều hiệp nhau ở trên ngôi ấy, đến đỗi Ngài không phải là Đức Chúa Trời và loài người, bèn là Đấng Thần nhân vậy. Vả, hai tánh của Ngài hiệp nhau chẳng như bạn hữu đồng chí đồng ý, cũng chẳng như tín đồ liên hiệp với Chúa, bèn là nhờ dây liên lạc rất mầu nhiệm, kẻ phàm không thể hiểu thấu được, mà hiệp lại kết thành một Ngôi có một ý, một chí, và có đủ lương năng, tánh đức của cả hai.1. CHỨNG CỚ VỀ SỰ HIỆP NHAU ẤYSau đây xin kể lược bốn bằng cớ chứng cho sự hiệp nhau ấy:a) Sự xưng gọi làm chứng: Kê cứu Tân Ước về sự xưng gọi Christ, thì thấy bất câu là Ngài tự xưng hay là người khác xưng Ngài, thì đều dùng đại danh từ đơn số “Ta” hay là “Ngài”, mà kêu.Chính Chúa chẳng khi nào dùng đại danh từ đa số “chúng ta” mà tự xưng, trừ ra trong Gi 3:11. Nhưng trong câu ấy Chúa chắc dùng danh từ “chúng ta” là hiệp cả môn đồ mà nói, chớ chẳng phải là chỉ về một mình Ngài mà nói đó đâu.b) Mọi tánh đức và bản năng của hai tánh đều dồn về một mình ngôi Ngài làm chứng: Luận về mặt nầy, thì mọi tánh đức, mọi bản năng của cả hai thần tánh và nhân tánh đều tập hiệp trên một mình Christ. Thế mà nói về mặt kia, thì cả phẩm vị và công việc của một mình ngôi Christ đều kể là vừa thuộc về thần tánh vừa thuộc về nhân tánh của Ngài.Cái lý do về thực sự ấy rất khó giải nghĩa, miễn là chúng ta nhận rằng nhân tánh và thần tánh đều hiệp nhau khắng khít không chia lìa được ở trên một ngôi Christ là đủ. Ro 1:3 và IPhi 3:18 làm chứng cho mặt nầy; còn ITi 2:5 và He 1:2,3 thì làm chứng cho mặt kia.Thành thử, về mặt nầy chúng ta nói rằng, Đấng Thần nhân thực hữu trước khi chưa có Áp-ra-ham, mà lại là sanh ra nhằm đời hoàng đế Auguste; cũng nói Jesus Christ khóc lóc, mệt mỏi, chịu khổ và chết, mà lại là Đấng “hôm qua, hôm nay, và đến đời đời vẫn y nguyên”. Còn về mặt kia,chúng ta lại nói rằng, Thần Cứu Chúa chuộc chúng ta trên thập tự giá, và Người gọi là Christ vẫn ở với chúng ta cho đến tận thế vậy. Eph 1:23; Eph 4:10; Ma 28:20c) Công việc Christ đã làm nên làm chứng: Chức vụ lớn của Christ là đem mạng sống mình làm giá rất cao để cứu chuộc loài người;Ngài đứng giữa Đức Chúa Trời và loài người, làm Trung bảo mà giải hòa hai bên,mở đường cho loài người trở lại với Đức Chúa Trời. Thế thì, nếu Ngài chỉ là một người của Đức Chúa Trời, thì chẳng có thể làm việc ấy được, duy có thể thay mặt loài người đối với Đức Chúa Trời mà hành chức, chớ chẳng có đủ cao giá mà thay mặt Đức Chúa Trời hành chức đối với loài người đâu. Nhưng nếu Ngài là Đấng Thần nhân, có tánh Đức Chúa Trời và tánh loài người hiệp nhau trên ngôi Ngài, đến đỗi tánh nầy hưởng được giá trị của tánh kia, thì mới chắc rằng Ngài có cao giá vô hạn vô lượng để thay mặt cả hai bên mà làm xong việc cứu chuộc, giải hòa ở trong trời đất vậy. Kinh Thánh chứng rằng: IGi 2:2Như trong sách Tin Lành thứ tư, Giăng chứng minh Jesus là Con Đức Chúa Trời, tức là Đạo, là Đức Chúa Trời thế nào, thì trong thơ thứ nhứt ông lại chứng minh Con Đức Chúa Trời là Đạo, là Đức Chúa Trời đã trở nên người cũng thể ấy. Eph 2:16-18; Eph 2:21,22d) Ý kiến công đồng của tín đồ làm chứng: Ý kiến của tín đồ xưa nay đều nhìn nhận Christ là môt ngôi duy nhứt. Nên trong khi cầu nguyện, lúc ca tụng, ai ai cũng thừa nhận Ngài bằng chỉ một ngôi có hai tánh hiệp nhau làm Cứu Chúa của mình.Các lẽ tỏ ra trên đây đủ bài kích những tà thuyết Nestorius và Eutyche (duy nhứt tánh thuyết), vì biểu chứng rằng thần tánh và nhân tánh của Christ là hoàn toàn cả, chẳng bị hỗn hóa ra tánh mới, bèn hiệp thành ở trên một mình Ngài mà nên một Vị cách (personnalité) gọi là Thần nhân vậy.2. CHÂN TÁNH CỦA SỰ HIỆP THÀNH ẤY.Vả, chân tánh của sự hiệp thành ấy là thể nào? Xin đáp:a) Cốt yếu của sự hiệp thành ấy:Kinh Thánh quyết huấn phẩm vị của Christ là sự mầu nhiệm vô song của đạo Đức Chúa Trời, như những câu dẫn chứng sau đây: Ma 11:27Câu ấy ám chỉ rằng đạo về Con càng mầu nhiệm hơn đạo về Cha. Thực, lý tánh ta hiểu phẩm vị của Christ khó hơn là hiểu đạo Ba Ngôi nữa. Co 1:27; Co 2:2,3; ITi 3:16Kinh Thánh hằng giục giã lòng ta, và các sứ đồ cũng thường treo gương cho ta phải chuyên tâm kê cứu về phẩm vị mầu nhiệm do sự hiệp thành của hai tánh ấy. Vì Christ có đủ cả hai thần tánh và nhân tánh hoàn toàn, ấy là then chốt của đạo cứu rỗi. Nếu Christ chẳng phải một ngôi gồm đủ cả tánh Đức Chúa Trời lẫn tánh loài người hiệp thành, thì công cứu chuộc việc giải hòa đều là hư không cả. Nếu Christ không có tánh người, thì không thể chết;mà nếu không có tánh Đức Chúa Trời, dẫu chết cũng luống công, và các trang lịch sử nói về Ngài đều là hoang đàng, không gốc tích, không bằng cớ gì cả. Những câu sau đây làm chứng: Gi 17:3; Gi 20:27; Lu 24:39; Phil 3:8,10Ta nên tận tâm tận lực kê cứu lẽ mầu nhiệm về phẩm vị huyền diệu của Christ, vì Ngài không những là trung tâm của đạo Đức Chúa Trời, mà chính Ngài là đạo ấy. Có kẻ nói: “Tôn giáo chỉ nói đến phẩm vị của Đức Chúa Trời; còn Cơ đốc giáo biểu dương phẩm vị của Christ.” Pascal nói:“Jesus Christ là trung tâm của muôn vật, đối tượng của mọi sự; kẻ nào không nhận biết Ngài, thì chẳng biết gì hết, hoặc về trật tự của cõi thiên nhiên, hoặc về chính mình cũng vậy.” Có kẻ khác luận rằng: “Ta hãy đến cùng Jesus, vì ngôi Christ là trung tâm của thần đạo.”b) Vấn đề khó giải: Phẩm vị của Christ thật là một sự mầu nhiệm trong các sự mầu nhiệm, suy nghĩ chẳng đến,dò lường chẳng thấu; nếu thử rán hết trí khôn mà xét kỹ đến đâu đi nữa, e cũng vẫn tối tăm không sao hiểu nổi được (Giop 38:2; ICo 1:21). Đạo ấy vốn đã giấu kín ở các đời trước, mà nay đã tỏ ra cho các tín đồ (Co 1:26; Eph 3:9; ITi 3:16), nhưng vẫn còn có vấn đề khó giải, xin luận qua sau đây.(1) Hai tánh một ngôi:Hai tánh hiệp nhau làm một ngôi thật khó giải nghĩa. Có kẻ lấy hai vòng tròn có cùng một trung tâm điểm (cereles concentriques) để ví dụ lẽ ấy: nếu đem vòng nhỏ mà để ở giữa trung tâm của vòng lớn. Cũng vậy, hai tánh của Christ hiệp nhau mà nên chỉ một ngôi đó thôi.(2) Nhân tánh không ngôi:Suy nghĩ về nhân tánh không thành vị, thì khó hiểu thấu. Nhưng mà chúng ta khá nhớ rằng thế thường hai vợ chồng ăn ở với nhau, mà sanh ra con, thì đứa con ấy chỉ có một ngôi. Cũng vậy, Đức Chúa Trời che phủ nữ đồng trinh Ma-ri, chịu thai và sanh Jesus Christ duy có một ngôi đó thôi. Ta khá cẩn thận, chớ lẫn lộn tánh với sự thành vị. Kinh Thánh dạy rõ Đạo (Logos) trở nên người, chớ chẳng phải Đạo hiệp với một nhân tánh đã thành vị rồi; bèn là Đạo và nhân tánh hiệp nhau, rồi nhân tánh mới thành vị vậy.(3) Sự quan hệ giữa Đạo với nhân tánh đương khi ở thế gian: Khi Christ còn ở thế gian thì có thần tánh vô sở bất tri, vô sở bất năng. Nhưng nhân tánh Ngài hạn chế các bản năng tư cách của thần tánh, không được tỏ ra như ở trên trời. Dầu vậy, Đạo lấy mọi lương năng mỹ đức của thần tánh mà đổ lại cho nhân tánh, đến đỗi nhân tánh cũng có khi dường như toàn tri toàn năng vậy. Vả, khi Christ ở đời, thì lời nói việc làm Ngài theo ý của Thánh Linh chỉ bảo cả (Ma 3:16; Gi 3:34; Cong 1:2; Cong 10:38; He 9:14); song năng lực làm việc thì chẳng bởi bề ngoài mà đến, bèn từ trong chính Ngài mà ra, vì Ngài vẫn có đủ thần quyền thần năng để làm mọi sự vậy (Ma 17:2; Lu 5:20,21; 6:19; Gi 2:11,24,25; 3:13; 20:19).(4) Sự quan hệ giữa Đạo với nhân tánh ở trên trời: Khi Christ thăng thiên, thì chẳng phải bỏ nhân tánh lại ở dưới đất, bèn ngự lên cao có đủ cả hai tánh Đức Chúa Trời và loài người. Kinh Thánh dạy rõ khi Ngài sống lại thăng thiên thì có đủ thể linh, vào ngay chỗ chí thánh để làm Trung bảo và Thầy tế lễ thượng phẩm cho ta. Khi Ngài còn ở dưới đời nầy đã có nhân tánh hoàn toàn thể nào, thì khi ngự lên ngôi bên hữu Đức Chúa Trời vẫn còn có nhân tánh hoàn toàn thể ấy. Hiện nay Ngài có đủ phẩm cách Đức Chúa Trời mà làm người, cũng có đủ tư cách loài người mà làm Đức Chúa Trời; nhân đó Ngài mới làm trọn ý chỉ của Đức Chúa Trời mà cũng làm thỏa được sự ước ao của loài người (Lu 24:13-32, Lu 24:36-42; Gi 20:27; Cong 7:55; He 8:1; He 8:2; He 9:12; Kh 1:13). Nhân tánh của Ngài hiện tại không còn phục định lệ cõi vật chất nữa, bèn phục định luật cõi thuộc linh nên không còn bị hoặc cảnh giới hoặc thời gian ràng buộc nữa, song được vô sở và vô thời bất tại như thần tánh của Ngài vậy.c) Thí dụ sự mầu nhiệm: Sự hiệp nhau hai tánh trên ngôi Christ thật huyền diệu vô cùng, không trí ngộ phàm nào hiểu thấu được, bởi vì sự từng trải ta chẳng có gì tương tợ với sự ấy. Thực,đạo nầy càng cao xa hơn đạo về Ba Ngôi hiệp một nữa, nên lấy sự lý tầm thường hoặc thí dụ phàm tục mà giải nghĩa thì cũng không được rõ ràng cho mấy.Có kẻ lấy sự hiệp nhứt của thân thể và linh hồn, hoặc sắt với nóng, mà làm thí dụ. Kẻ khác lại dùng sự hiệp nhứt của tín đồ với Chúa, Con với Cha, mà biểu minh sự mầu nhiệm ấy. Nhưng xét qua mấy thí dụ đó, thì thấy đều thiên về một bên cả, không đủ tỏ ra lẽ mầu nhiệm về thần tánh và nhân tánh hiệp nhau kết thành một ngôi trên Christ được. Vì thân thể và linh hồn, dầu là một ngôi, song chẳng phải là hai tánh; sắt và nóng cũng chẳng phải là một thể yếu, bèn là hai rõ ràng; quả như thí dụ ấy, thì cũng đi lạc như phe Eutyche (duy nhứt tánh thuyết) vậy. Về tín đồ hiệp nhứt với Chúa, Con với Cha thì cũng chẳng phải một ngôi đâu, bèn là hai; quả như lời đó, thì cũng đi lạc như phe Nestorius mà phân biệt thể yếu của Con với thể yếu của Cha vậy.Nếu đem cả bốn thí dụ ấy mà luận thì có thể dùng hai thí dụ đầu mà tỏ ra hai tánh của Christ; còn hai thí dụ sau lại giải nghĩa về hai tánh ấy hiệp nhau làm một; song thí dụ như thế cũng chỉ biểu minh được cái ý mà thôi, chớ không sao đụng đến chính lẽ mầu nhiệm đó nổi. Kỳ thực,đạo hai tánh của Christ hiệp nhau làm một ngôi vốn một thực sự duy nhứt vô song, cũng như đạo Ba Ngôi Đức Chúa Trời, chẳng một điều tương tợ phàm nào có thể biểu minh lý do của nó được.d) Căn cứ hai tánh hiệp một ngôi: Có kẻ hỏi: Đức Chúa Trời là Đấng Thần Linh vô hạn lượng, làm sao hiệp nhứt với loài người, là vị thọ tạo hữu hạn lượng được? Đáp: Đức Chúa Trời hiệp nhứt với loài người hẳn căn cứ ở nơi nguyên thỉ của loài người được dựng nên chiếu theo hình tượng của Đức Chúa Trời đó vậy. Vì loài người có lý tánh và linh tánh giống như Đức Chúa Trời, nên cũng tại đó mà Đao (Logos) có thể đầu thai trong nhục thể của họ. Loài người cầm thú chẳng có lý tánh và linh tánh, nên cũng chẳng có thể hiệp nhứt với Đức Chúa Trời. Loài người không những là có thể giao thông với linh giới, lại có thể hiệp nhứt với chính Đức Chúa Trời một cách không phân ly,hưởng được ở nơi Ngài các thần quyền thần năng, mà không cần phải mất một nguyên tổ nào thuộc nhân tánh cả. Tiếc thay, vì cớ tội lỗi người đời phải mất hình tượng đạo đức của Đức Chúa Trời mình mà mình vốn có, đành bị phân rẽ với Ngài. Nhưng may thay, Christ vốn là hình trạng hoàn toàn của Đức Chúa Trời, bởi sự đầu thai làm người, có thể lập lại hình tượng đạo đức ấy ở trong họ, ban cho họ được dự phần thần tánh, được đầy dẫy sự sống và tình yêu thương của Đức Chúa Trời. IIPhi 1:4; Thi 42:7 Ấy nghĩa là sự giàu có của Đức Chúa Trời như vực sâu vô hạn vô lượng; còn sự nghèo thiếu của loài người cũng chẳng khác vực sâu, nào ai dò lường được. Hai bên đối nhau, bên này kêu bên kia: “Hỡi ôi!” Bên Đức Chúa Trời đầy đủ vô cùng đối với bên loài người thiếu thốn không ngằn. Bên Ngài có sắm sửa mọi sự cần dùng cho bên kia; nhưng chẳng may giữa hai bên có vực sâu tội lỗi phân rẽ, cần phải bắc cầu cứu rỗi, mới làm cho sự đầy đủ của bên nầy có thể cung cấp cho sự thiếu thốn của bên kia được. Câu ấy là Christ đầu thai trở nên xác thịt, lấy thần tánh đầy dẫy sự giàu có của Đức Chúa Trời, liên hiệp với nhân tánh nghèo thiếu của loài người mà làm thỏa nguyện sự ước ao của họ, khiến cho họ chẳng những là được gần gũi cùng Đức Chúa Trời, bèn đãi họ như đồ dùng trống không mà lại được đựng đầy mọi sự phong phú của nguồn suối vô hạn vô lượng của Đức Chúa Trời, bởi hai tánh trời người của Christ hiệp nhau mà đổ vào vậy.e) Chẳng có hai ngôi:Christ có hai tánh, nhưng chẳng có hai ngôi, bèn chỉ có một ngôi mà thôi. Ấy vì Đạo (Logos) trở nên xác thịt, nhận lấy nhân tánh chưa thành vị mà hiệp nhau, chớ chẳng phải hiệp nhau với nhân tánh đã thành vị có nhân cách rồi. Ta có thể gọi nhân tánh của Christ là phi nhân cách (impersonnelle) cho đến khi hiệp với Đạo;khi ấy nhờ ngôi của Thần nhân, nhân tánh mới có quyền tự giác, tự chủ vậy. Ta khá phân biệt tánh với ngôi; tánh là thể yếu chung, như Ba Ngôi Đức Chúa Trời đồng chung một tánh. Nhưng ngôi là tánh đã nên người riêng, thực hữu đặc biệt, có các tư cách loài người, có tự giác, ý dục và tự chủ. Cho nên vì nhân tánh của Christ chẳng hề thực hữu riêng trước khi chưa được đầu thai thì Đạo (Logos) mới đem nguyên tố ngôi mà phú cho nhân tánh được thành vị trở nên ngôi Thần nhân vậy.Cũng quan hệ lắm mà hiểu rằng quan năng tự giác tự chủ vốn chẳng thuộc về bản tánh, bèn là thuộc về ngôi. Vì vậy cho nên Christ chẳng có hai tự giác, hai tự chủ, bèn chỉ có một tự giác, một tự chủ mà thôi. Sự tự giác Ngài chẳng phải chỉ thuộc nhân tánh, mà cũng thuộc thần tánh nữa, gọi bằng một vận động của ngôi duy nhứt do nhân tánh, và thần tánh hiệp nhau mà nên vậy. Giả như hai vợ chồng vốn là hai ngôi đặc biệt, mà hễ sanh con thì cả hai đều di truyền cho con bản tánh của mình; dầu vậy, kết quả họ chẳng sanh một con có hai ngôi đâu, bèn sanh con chỉ có một ngôi, có một tự giác, một tự chủ đó thôi. Cũng vậy, Thần Phụ là Đức Chúa Trời và nhân mẫu là Ma-ri chẳng sanh Jesus Christ có hai ngôi đâu, bèn sanh Ngài chỉ có một ngôi đó thôi (xem Mac 13:32; Lu 22:42; Gi 8:58; 10:30).f) Công hiệu nơi nhân tánh: Vả,thần tánh và nhân tánh hiệp nhứt như thế, có công hiệu gì ở nơi nhân tánh không? Đáp: Nhờ sự hiệp nhau ấy nhân tánh hưởng được các lương năng mỹ đức của thần tánh. Nói cách khác, Đạo (Logos) truyền cho nhân tánh các thần cách, thần quyền, thần đức của mình, mà chẳng lẫn lộn thể yếu của hai tánh, đến đỗi Người Christ ở thế gian cũng có quyền cảm biết và làm lụng như chính Đức Chúa Trời vậy.Nếu có khi quyền ấy chẳng được tỏ ra mười phần rõ mười, thì ấy tại vì Đấng Thần nhân đã tự ti tự chế, tình nguyện lấy xác thịt mà che khuất vinh hiển của Đức Chúa Trời ở nơi mình. Lại trong khi Đấng Thần nhân lấy hình trạng đầy tớ mà hiện ra, thì thường nhờ Thánh Linh chỉ dẫn và cai trị trong mọi sự, đến nỗi Ngài chỉ biết dạy và làm những điều Thánh Linh răn bảo như thế nào đó thôi (Ma 3:16; Gi 3:34; Cong 1:2; 10:33; He 9:14). Song mỗi khi Ngài được Thánh Linh răn bảo như thế, thì Ngài biết, dạy và làm, chẳng như các tiên tri xưa nhờ năng lực ở bên ngoài mình truyền thụ cho, bèn là nhờ thần quyền lực ở trong mình mà biết, dạy và làm đó vậy (Ma 17:2; Mac 5:41; Lu 5:20,21; 6:19; Gi 2:11,24,25; 3:13;20:19).g) Công hiệu nơi thần tánh:Trong sự thông đồng hai tánh của Christ, chẳng những nhân tánh chịu ảnh hưởng của thần tánh, nhưng thần tánh cũng chịu ảnh hưởng của nhân tánh nữa. Thần tánh vốn không thể bị yếu đuối, cám dỗ, đau đớn và chết. Thế mà, Đấng Thần nhân là Jesus Christ, có thể từng trải những sự ấy, bởi vì ở trong Ngài thần tánh liên hiệp với nhân tánh vậy. Như Nhân Cứu Chúa nhân vì thần tánh có thể vận hành các lương năng mỹ đức của Đức Chúa Trời thể nào, thì Thần Cứu Chúa nhân vì nhân tánh cũng có thể bị yếu đuối, thử thách và đau đớn như mọi người cũng thể ấy. Ví như thân thể liên hiệp với linh hồn, hễ thân thể đau đớn thì linh hồn cũng cảm xúc. Nếu linh hồn lìa bỏ thân thể, thì thân thể chẳng biết đến sự đau đớn ấy nữa. Trong Đấng Thần nhân cũng vậy, tuy thần tánh vốn không cảm biết sự đau đớn của loài người, song nhân vì sự hiệp nhứt với loài người, nên cũng có thể chịu đau đớn không dò lường được. Bởi vì Christ là Đức Chúa Trời, nên cũng có thể chịu đau đớn vô hạn vô lượng, còn sự chết Ngài cũng nhân cớ ấy mà có giá trị không xiết kể.h) Hai tánh hiệp nhau cần yếu:Hai tánh Christ hiệp nhau rất cần yếu để thiết lập Ngài làm Đấng Trung bảo giữa loài người và Đức Chúa Trời, Ngài có hai bản tánh, nên được đồng đẳng với Đức Chúa Trời, cũng được đồng cảm với loài người, có giao thông với cả hai bên.Kinh Thánh có chép: He 2:17,18; He 4:15,16Vả lại, nhờ có hai tánh, Ngài cũng có thể đem đủ điều kiện tất yếu mà giải hòa giữa Đức Chúa Trời và loài người: Ngài là người, nên có thể thế mạng họ mà chuộc tội; Ngài là Đức Chúa Trời, nên sự chuộc tội đó có giá trị vô cùng. Còn cả hai thần tánh và nhân tánh hiệp tác mà chịu hình chịu chết đó có đủ năng lực cảm động tội nhơn ăn năn trở lại, đầu phục và yêu thương Đức Chúa Trời. ITi 2:5; He 7:25i) Hai tánh hiệp nhau đến đời đời:Hai tánh của Christ chẳng phải tạm hiệp nhau đâu, bèn là hiệp nhau đến vĩnh viễn,sẽ chẳng hề phân ly bao giờ. Khi Christ được đầu thai, thì nhận lấy nhân tánh để kết hiệp với thần tánh đến vô cùng. Lúc thăng thiên giống loài người ở trong Ngài lấy lại được mão miện vinh hiển mà xưa kia họ đã mất, và đạt đến ngôi của vũ trụ. Hiện nay Cứu Chúa Thần nhân ấy nhờ Thánh Linh mà vô sở bất tại, hằng làm việc để cứu rỗi tuyển dân và gây dựng cho nước Ngài mau đến. Đoạn, sau khi muôn vật đã đầu phục Christ, thì chính Christ cũng sẽ phục Cha, và trở lại vào trong nguyên trạng mà Ngài đã có trong cõi đời đời trước buổi sáng tạo vậy. Có câu chứng rằng: ICo 15:28; Gi 17:5; He 1:8; He 7:24TỔNG ĐOÁNNhờ các lẽ tỏ ra trên, ta dạn dĩ đoán rằng Jesus Christ Chúa chúng ta, thật là Con Đức Chúa Trời, mà cũng là Con người, có thần tánh hoàn toàn, mà cũng có nhân tánh trọn vẹn nữa. Ngài là Đức Chúa Trời thật, đồng đẳng, đồng quyền, đồng đức với Ngài; cũng là người thật, có cả bản năng tư cách của loài người. Hai tánh thần, nhân chẳng phải là hỗn hòa với nhau, cũng không khi nào phân rẽ mà không nương dựa lẫn nhau bao giờ. Dầu là có đủ hai tánh hoàn toàn, nhưng chỉ có một Ngôi; Ngôi ấy duy nhứt có một tâm trí,một tự giác, một tự chủ mà thôi. Ấy là sự mầu nhiệm vô cùng về phẩm vị của Jesus Christ, là Đạo của Đức Chúa Trời đã đầu thai trong lòng nữ đồng trinh Ma-ri mà khiến trở nên xác thịt vậy.CHƯƠNG 5: HAI CẢNH TRẠNG CỦA CHRISTKINH THÁNH tả thuật Jesus Christ, Đạo Đức Chúa Trời, đã từng trải hai cảnh trạng hạ xuống và cảnh trạng nhắc lên. Cảnh trạng thứ nhứt bắt đầu ở nơi sự đầu thai của Ngài, và trải đến sự chết và chôn. Cảnh trạng thứ hai khởi sự ở nơi sự sống lại Ngài, và trải đến đời đời.I. CẢNH TRẠNG HẠ XUỐNGThánh Phao-lô dạy về cảnh trạng hạ xuống rằng:Phil 2:6-8.Jesus Christ vốn là Đức Chúa Trời vô thủy vô chung, làm đầy dẫy trong bầu trời trái đất, ngự lên trên các từng trời ở chốn chí cao, có quyền năng vô hạn vô lượng. Kịp khi giáng sanh làm người, thì lấy hình trạng tôi tớ mà hiện ra rất khác với nguyên trạng của Ngài. Phao-lô gọi cảnh trạng hạ xuống ấy là “tự làm cho mình trống không.” Vậy, chúng ta muốn biết cảnh trạng ấy có nghĩa lý gì. Sau đây xin lược luận qua đôi lẽ về vấn đề ấy.1. LUẬN VỀ CẢNH TRẠNG HẠ XUỐNGa) Những lời cắt nghĩa sai lầm: Có nhiều nhà tôn giáo cắt nghĩa cảnh tượng hạ xuống của Christ sai lầm như kể lược sau đây:(1) Chia hai phần linh: Có kẻ nói Christ giáng sanh, bèn chia hai phần linh ra, một nửa xuống thế gian nương dựa xác thịt, một nửa cứ ở trên trời. Thành thử, dầu Christ đã giáng sanh, cư trú nơi thế hạ, thì nửa phần linh của Ngài vẫn cứ ở thiên thượng mà chủ trị muôn vật.(2) Thần linh giấu kín: Có kẻ khác chủ trương rằng khi thần linh của Con Đức Chúa Trời giáng sanh, thì cư trú trong Jesus Christ, nhưng kín giấu không rõ, lặng mà không động, nhờ quyền năng của Thánh Linh mà bó buộc ở trong nhân tánh Ngài vậy.(3) Từ giã mọi đức cao hơn nhân tánh:Cũng có kẻ chủ trương rằng Christ “tự làm cho mình trống không”, ấy là Ngài từ giã các đức cao hơn nhân tánh, như những đức vô lượng vô biên của Đức Chúa Trời.Còn những tâm đức mà cả Đức Chúa Trời lẫn loài người có thể có, thì Ngài đều giữ vẹn.(4) Tạm lìa những tài năng siêu việt: Có người khác giải nghĩa về cảnh trạng tự ti của Christ, chủ trương rằng khi Ngài “tự làm cho mình trống không”, thì từ giã các tài năng siêu việt ở trên trời,như là quyền bính gây dựng, chủ trị muôn vật trong bầu trời trái đất, và những phẩm cách vô sở bất tri, vô sở bất năng, tức là quyền biết mọi sự, tài làm mọi việc ở khắp mọi nơi. Còn các đức yêu thương, thánh khiết, công nghĩa, v…v.,thì lúc làm người Ngài có trọn vẹn cả.(5) Tuyệt diệt cả kiếp tiền sanh:Cũng có người chủ trương rằng khi Christ được đầu thai, thì tuyệt diệt cả kiếp tiền sanh, bèn nhờ sự sanh trưởng khải phát, biến hóa như người thường, mà Ngài lần lần tiến đến địa vị cao cả của Đấng Thần nhân. Cho nên các tâm đức và quyền siêu việt mà Ngài có lúc thành nhơn thì chẳng phải trực tiếp do thần tánh, bèn là do sự canh tân biến hóa mà nên vậy. Thành thử, theo ý kiến ấy, Christ lúc đầu thai chẳng phải là Đức Chúa Trời, bèn phải nhờ sự biến hóa tấn bộ mà lần lần đạt đến bực Thánh Thần vậy.Những lời luận về cảnh trạng tự ti của Christ như trên đây đều không đúng cả. Nào lời luận về Ngài chia đôi phần linh mà giáng sanh, nào là thần linh bị giấu kín, những ý đó chẳng thích hiệp với Kinh Thánh chút nào, mà lại khiến cho thần tánh của Ngài phải chia rẽ ra làm hai, là một điều phản đối với lẽ đạo thần tánh hoàn toàn của Ngài vậy.Đến như luận về Christ từ giã mọi tâm đức cao hơn nhân tánh, hoặc là tạm lìa những tài năng siêu việt, cũng đều trái ngược với Kinh Thánh cả. Vì Kinh Thánh dạy rõ Jesus Christ có đủ mọi tâm đức, mọi tài năng siêu việt, đến đỗi biết mọi sự, làm được mọi việc, chỗ nào cũng có Ngài cả.Bởi vì nếu Christ thật đã từ giã các thần đức, tạm lìa các thần năng, ắt không còn có thể gọi Ngài là Đức Chúa Trời nữa.Còn ý kiến cho cả kiếp tiền sanh của Ngài đều bị tuyệt diệt lúc Ngài giáng sanh, rồi nhờ sự khải phát biến hóa mà lần lần đạt đến bực Thánh Thần, các nhà thần đạo chánh thống xưa nay ai cũng bài xích, cho là sai quấy, vì làm cho Ngài không có thần tánh gì cả, duy là một bực hiền thánh đạt đến chỗ cao thượng hơn hết đó thôi. Vậy thì cảnh trạng tự ti của Christ là như thể nào?b) Lời cắt nghĩa đúng:Christ “tự làm cho mình trống không” chẳng phải là lìa bỏ thần tánh, thần quyền,thần đức mà Ngài vốn có từ trước vô cùng, bèn là tình nguyện phục ý muốn của Thánh Linh dẫn dắt mà vận dụng các thần cách ấy. Kinh Thánh dạy rằng cảnh trạng tự ti của Christ vốn tại các điều kể sau đây:(1) Lìa bỏ vinh hiển nguyên bản: Đạo (Logos) tình nguyện lìa bỏ sự vinh hiển mà trong cõi từ trước vô cùng Ngài vốn có ở nơi Cha, chịu đầu thai trong lòng người nữ, sanh hạ xuống chốn trần gian.Song lúc giáng sanh thì Ngài vẫn có thần tánh, thần đức, thần quyền hoàn toàn luôn, chẳng lúc nào từ giã cái nào cả. Có câu chứng: Gi 17:5; IICo 8:9. – Phil 2:6,7 dẫn ở trên.(2) Lìa bỏ hình trạng Đức Chúa Trời: Linh, đức,tánh, và hình của Christ nguyên không khác chi Đức Chúa Trời.Song khi Ngài giáng sanh làm người, dầu vẫn còn có linh, đức, và tánh của Đức Chúa Trời, thì hình trạng Đức Chúa Trời Ngài tạm để lại ở trên trời. (Xem Phil 2:6 dẫn ở trên)(3) Lấy hình thể tôi tớ:Christ chẳng những là tạm lìa vinh hiển nguyên bản, về hình trạng của Đức Chúa Trời thôi đâu, bèn là hạ mình xuống, lấy hình thể tôi tớ, trở nên giống như loài người, ở vào nghịch cảnh, chịu khó khăn, nghèo khổ và đau đớn đến cùng.Nguyên là Đạo Đức Chúa Trời trở nên xác thịt đành thuận phục các cảnh khốn đốn của loài người vậy. Kinh Thánh chép: Es 53:2,3; Phil 2:7 dẫn ở trên. Cũng xem Thi 8:4-6.(4) Thuận theo Thánh Linh dẫn dắt: Đạo (Logos) hạ mình xuống chẳng hề từ bỏ thần tánh, thần đức, thần quyền đâu, nhưng tình nguyện tự hạn chế, thuận phục Thánh Linh để vận dụng các thần cách ấy y theo ý Ngài muốn, đến đỗi mọi tư tưởng, lời nói, việc làm của Ngài đều do Thánh Linh dẫn dắt chỉ bảo cả. Có câu Kinh Thánh chứng: Cong 1:2; Cong 10:38; He 9:14(5) Chịu nhục và chết trên thập tự giá:Trong mọi sự Ngài vui lòng vâng mạng Cha, chịu thử thách khổ nạn, thương khó,thậm chí chịu nhục và chết trên thập tự giá cũng chẳng chối từ đâu. Phil 2:8.2. LÝ LỊCH CỦA CHRIST TỰ HẠ MÌNH XUỐNGKê cứu Kinh Thánh về lý lịch của Christ tự hạ mình xuống, thì thấy có chứng 9 bực như tỏ sau đây:a) Tạm lìa sự vinh hiển vốn có ở với Cha, để hình trạng của Đức Chúa Trời ở trên trời, hạn chế quyền vận dụng các thần cách tự do, và vui lòng tạm từ bỏ cả sự giàu có ở chốn thiên cung.b) Thuận phục công lệ sanh hóa mà trở nên người, nhận lấy nhân tánh từ trong dòng giống tội lỗi do A-đam nguyên tổ loài người mà ra. Nhân tánh ấy thoát khỏi ác tánh di truyền đó, chỉ là tại vì Ngài được đầu thai bởi Thánh Linh ở trong lòng Nữ đồng trinh vậy. Lu 1:35.c) Phục tùng lẽ sanh trưởng như người thường,lần lần mở mang tấn bộ đến bực thành nhơn (Lu 2:52). Vì Christ đã là người thật, nên phải chịu nhân tánh hạn chế sự vận dụng các thần năng thần cách. Dường như đến khi 12 tuổi mới biết rõ mình là Con Đức Chúa Trời (Lu 2:49). Kịp đến khi chịu báp-têm mới tỏ thần quyền mà làm phép lạ thứ nhứt vậy.Lu 2:49,52.d) Phục tùng Thánh Linh trong mọi sự, đến đỗi nào sự hay biết, nào tư tưởng, nào lời nói, nào việc làm, nào sự dạy dỗ, hết thảy đều do Thánh Linh chỉ bảo mà thành công cả.Cách ăn nết ở của Ngài thật chẳng phải như một người chủ, bèn như một tôi tớ vậy.(Xem câu Kinh Thánh dẫn trong phần (4) ở trên).e) Nếm trải đủ thứ yếu đuối, thử thách, dạy dỗ và thương khó của đời nầy. Es 53:3; He 2:18; – cũng xem He 4:15.f) Tình nguyện mang tội lỗi người ta, chịu hính phạt của luật pháp, uống hết chén đầy sự thạnh nộ của Đức Chúa Trời.Ma 27:46; Lu 22:44.g) Tình nguyện hi sinh mình mà chịu chết trên thập tự giá Ga 3:13; Cũng xem Phil 2:8 dẫn ở trên.h) Bị đem chôn trong mồ mả, tạm chịu núp dưới quyền của sự chết. ICo 15:3,4; Lu 23:53; Cũng xem Ma 12:40.i) Xuống âm phủ, là địa vị thấp hơn hết.IPhi 3:18-20.Bản tóm tắt, Christ “tự làm cho mình trống không”, hạ mình xuống, chịu cảnh trạng khuất phục, tự ti tự chế nhiều cách, thật một sự mầu nhiệm, khó giải nghĩa cho cạn lý, vì chẳng có lời nào thí dụ cái cảnh thật cao mà thấp, vinh mà nhục của Ngài dường ấy được. Nhưng có kẻ lấy ba thí dụ thuật sau đây mà biểu minh lẽ đạo nầy.(1) Áng mây che mặt trời:Đương lúc mặt trời bị mây che khuất, dầu ở dưới đất không thấy rõ hình thể và ánh sáng của nó, thì cũng biết mặt trời vẫn còn, ánh sáng nó cứ bủa ra ở phía trên áng mây, vẫn còn chói lói trong vũ trụ, muôn ngàn tinh cầu kia đều y nguyên và chịu ánh sáng nó luôn. Cũng vậy, Christ ở đời nầy lấy hình trạng loài người mà che khuất thể yếu vinh hiển của Đức Chúa Trời ở nơi mình; nhưng dầu mắt phàm không thấy được vinh hiển ấy, thì nó cũng vẫn còn luôn vậy.(2) Nhắm con mắt:khi chúng ta mở mắt, thì thấy trời đất muôn vật một cách rõ ràng. Nhưng trong khi nhắm tít hai con mắt lại, thì thật mù mịt chẳng thấy gì cả; song con mắt vẫn còn, chẳng hề thay đổi gì hết. Cũng một lẽ ấy, Con Đức Chúa Trời mượn xác thịt,tạm che giấu thần thể yếu mình. Dầu vậy, thể yếu ấy vẫn còn y nguyên ở nơi Ngài luôn.(3) Ống nước: Mạng sống và ơn cứu rỗi của Đức Chúa Trời ban cho, chẳng khác gì nguồn vực sâu thẳm.Cả thế gian rất cần ân điển ấy, nhưng chẳng có phương pháp nào đem ân điển ấy lưu thông cho mọi người. Song nhờ nhân tánh và thần tánh của Christ hiệp nhau,loài người ở dưới thấp nầy được giao thông với Đức Chúa Trời ở trên cao kia;Ngài chẳng khác gì một ống nước từ trên trời cao thả xuống mặt đất, lưu mạng sống và ân cứu rỗi vô hạn vô lượng của Đức Chúa Trời tràn khắp thế gian, làm đầy lòng mọi kẻ tin cậy Ngài.Nói một lời, những thí dụ ấy chẳng có thể minh giải được sự mầu nhiệm về việc Christ tự hạ mình xuống, chỉ có thể giúp đỡ ta hiểu rõ hơn đôi phần đó thôi. Vì chẳng có thí dụ nào thuộc trần giới có đủ lý sự bày tỏ hết ý nghĩa của sự huyền diệu ấy được.II. CẢNH TRẠNG NHẮC LÊN CAOKhi Christ đã trải qua các bực tự ti, đến đỗi chịu chết trên thập tự giá và chôn trong mồ mả, thì lại được từng trải các bực trong sự nhắc lên cao. Trong thơ Phi-líp Phao-lô cứ dạy thêm rằng: Phil 2:9-111. CHÂN TÁNH CỦA SỰ NHẮC LÊN CAOCái chân tánh của sự tôn cao như sau nầy:a) Lấy lại vinh hiển nguyên bản: Khi Christ sống lại và thăng thiên, thì lấy lại vinh hiển nguyên bản, hình trạng, sự sang trọng và giàu có mà Ngài vốn có ở với Đức Chúa Trời lúc xưa. Cũng lấy lại quyền tự do vận dụng các thần năng thần cách mà lúc Ngài sống dưới đời chẳng vận dụng ở ngoài ý chỉ Thánh Linh chỉ bảo cho. (Xem Gi 17:5 dẫn ở trên)b) Thần tánh đầy dẫy trong nhân tánh:Đương khi Christ làm người ở thế gian, thì nhân tánh hạn chế thần tánh lấy các thần quyền, thần đức mà đổ lại cho nhân tánh ấy trọn vẹn. Cho nên Christ được tôn cao, nghĩa là Ngài đem cả thần đức, thần vinh mà phú cho nhân tánh cách đầy dẫy, đến đỗi tâm đức, quyền năng trọn vẹn của thần tánh cũng đều thuộc về nhân tánh một cách vô lượng vô biên. Nhân tánh bèn bày tỏ thần tánh trọn vẹn không còn hạn chế hay ngăn trở Ngài vận dụng các thần năng, thần cách nữa. He 2:8,9.Cũng xem Thi 8c) Nhân tánh thi hành cách mới:Khi Christ được nhắc lên cao, thì nhân tánh Ngài khởi thi hành cách mới, vận dụng các bản năng do thần tánh phú cho. Trước sự sống lại thì thân thể Ngài phục tòng công lệ vật chất trong sự hành động. Nhưng sau biến động ấy thân thể Ngài không còn cần phục tùng luật ấy nữa, có thể đi ngang qua nơi kín cổng cao tường,bay lên khỏi luật hấp lực, mới ở đây trong giây phút nầy, mà giây phút sau lại ở chỗ khác cách xa; luật thời gian, không gian, và vật chất chẳng còn bó buộc nhân tánh của Ngài nữa. Quả sự chết và sự hư nát cũng chẳng có quyền trên Ngài,vì cớ thần tánh nên tất nhiên phải sống lại. Ấy cũng là điều Phi-e-rơ dạy rằng:Cong 2:24,31. Cũng xem Lu 24:31,36,51; Gi 20:19; Cong 1:9.2. CHÂN CẢNH CỦA SỰ NHẮC LÊN CAOa) Từ kẻ chết sống lại: Bước thứ nhứt trong sự Christ được nhắc lên cao là sự sống lại. Nếu Ngài chỉ chịu chết mà không sống lại, thì Ngài chẳng đáng gọi là Đấng siêu việt, đời sống Ngài,công việc Ngài, sự chết Ngài cũng chẳng khác gì của một tiên tri hay là bậc anh hùng đời xưa. Nhưng sự sống lại của Ngài là bằng cớ quan hệ nhứt chứng rằng Ngài quả là Con Đức Chúa Trời, Cứu Chúa của thế gian. Những bằng cớ kể ra sau đây minh chứng rằng Christ thật đã từ kẻ chết sống lại.1) BẰNG CHỨNG VỀ SỰ SỐNG LẠI(a) Cựu Ước dự ngôn:Trong Cựu Ước có nhiều câu dự ngôn về sự phục sanh của Christ. Như: Thi 2:7.Khi Phao-lô giảng tại An-ti-ốt, thì đã chứng quyết rằng lời ấy được ứng nghiệm khi Christ từ kẻ chết sống lại (Cong 13:33).Cũng có lời của Đa-vít dự ngôn rằng: Thi 16:8-11.Nhằm ngày lễ Ngũ tuần Phi-e-rơ viện dẫn lời ấy để chứng thực cho sự phục sanh của Chúa (Cong 2:25-28). Vả, các lời dự ngôn khác nói về sự giáng sanh, đời sống, và sự chết của Chúa đã được ứng nghiệm hết;nên lấy làm hữu lý lắm mà tín nhận rằng lời dự ngôn về sự phục sanh Ngài cũng đã được ứng nghiệm như thế cả.(b) Chính Jesus Christ nói trước là sẽ sống lại:trước khi Chúa Jesus chịu khổ và chết, thì thường nói trước rằng Ngài phải chịu chết, rồi đến ngày thứ ba thì sống lại (Ma 16:21; 20:19; Gi 10:18). Lời ấy được ứng nghiệm hoàn toàn như Ngài đã nói.(c) Sự hiển hiện của Christ:Tân Ước ký thuật rất rõ và đặc biệt rằng trong khoảng giữa ngày phục sanh và sự thăng thiên thì Chúa Jesus Christ từng hiển hiện với các môn đồ ước chừng 11 lần.Trong các lần hiển hiện đó Ngài đã từng nói chuyện với họ, ăn bữa với họ, dạy dỗ họ; còn họ đã nhìn biết Ngài, từng rờ đến Ngài, thọ giáo Ngài, mục kích Ngài thăng thiên. Ngài hiện ra với (a) Ma-ri Ma-đơ-len, Gi 20:11-16; (b) Phi-e-rơ,Lu 24:34; ICo 15:5; (c) các nữ đồ thăm mộ, Ma 28:8-10; (d) Hai môn đồ trên đường Emmaut, Lu 24:13-32; (e) Mười sứ đồ, Gi 20:19-23; ICo 15:5; (f) Mười một sứ đồ,Gi 20:26-29; (g) Bảy sứ đồ tại biển Ga-li-lê, Gi 21:4-14; (h) Năm trăm anh em, ICo 15:5; (i) Gia-cơ, ICo 15:7; (j) Các môn đồ lúc Ngài thăng thiên, Cong 1:9-11;(k) Phao-lô trên đường Đa-mách, Cong 9:1-9; ICo 15:8. Các lần hiển hiện đó đủ bằng cớ chứng thực chắc chắn rằng Jesus Christ đã từ kẻ chết sống lại rồi. Dầu vậy,vẫn còn có bằng chứng khác nữa.(d) Sự lo sợ kẻ cừu địch:(1) Sự canh giữ mộ: Cừu địch Chúa lo sợ các môn đồ Ngài sẽ đến cướp thi thể Chúa, rồi ngoa truyền rằng Ngài sống lại để lừa gạt thiên hạ; nên họ cắt lính canh giữ mộ Chúa cách cẩn mật. Ma 27:62-66.(2) Đút lót lính canh: Nhưng Chúa thật sống lại, khiến bọn lính kia kinh hồn khiếp vía từ mộ chạy về thuật lại rằng Ngài đã từ kẻ chết sống lại, bước ra khỏi mồ mả rồi. Những cừu địch Chúa bèn đút lót lính canh, và nghiêm cấm không cho đồn tin ấy ra, lại bảo nói ban đêm đương lúc họ ngủ, thì môn đồ đến cướp xác. Cũng hứa rằng nếu quan tổng đốc nghe đến, thì họ sẽ che chở cho khỏi bị hại gì. Ma 28:11-13,15.(3) Lời phao ngôn tuy lừa được dân chúng,song không lừa được môn đồ: Lời phao ngôn kia tuy có thể đánh lừa dân chúng ít nhiều, nhưng chẳng có thể đánh lừa môn đồ nổi đâu; vì họ đã biết Chúa thật đã sống lại. Sự biết ấy chắc chắn, khiến họ sẵn lòng làm chứng cho thiên hạ, đến đỗi dầu phải chết cũng không chịu làm thinh. Huống chi, nếu quả có như quân lính đã phao truyền đó, thì bề trên há chẳng chiếu luật mà trị tội họ sao? Đó quả là họ thảy cùng âm mưu để phao ngôn hoặc chúng, lời ấy chỉ hiệp với lỗ miệng kẻ kinh hoàng thất thố đó thôi.(4) Sứ đồ truyền đạo phục sanh: Đến sau các sứ đồ truyền đạo thường dùng sự phục sanh của Jesus Christ làm đề mục lớn, đồn khắp bốn phương thiên hạ rằng Đấng chịu chết trên thập tự giá, chôn ở trong huyệt mả của Giô-sép kia, thật đã sống lại. Nếu họ không nói thật, tại sao các thù nghịch không hề công nhiên trực xích lời rao giảng ấy là dối ư? Năm mươi ngày sau sự phục sanh, Phi-e-rơ đứng trước dân chúng Giê-ru-sa-lem mà chứng quyết rằng Christ quả đã sống lại, nhưng chẳng thấy ai phản đối hoặc đem bằng cớ gì để chứng quyết rằng sứ đồ ấy nói dối đâu. Cong 2:24.(e) Sự đổi tánh của môn đồ:Trước khi Chúa Jesus chưa sống lại, thì môn đồ đều phách lạc hồn xiêu, yếu như sứa, nhát như thỏ, lịt lịt chối Chúa và tránh xa, không dám nhận mình là môn đồ của Ngài; thậm chí khi Ngài chết rồi, thì đóng cửa gài then, không dám ló đầu ra ngoài, đến đỗi có người lui về nghề cũ, để cầu lấy an thân. Thế mà bỗng chúc đổi hẳn tâm tánh, hết sợ hãi, đầy bình an, can đảm, hăng hái đến giữa đám đô hội,trực tiếp cáo tố cừu địch Chúa là kẻ đã giết Ngài, khăng khăng làm chứng về danh Ngài, đến đỗi phải bị bỏ mạng cũng không từ chối. Ấy vì sao? Há chẳng phải vì họ đã biết chắc chắn rằng Chúa Jesus Christ quả đã sống lại đấy ư!(f) Hội Thánh được tấn bộ: Nhằm lễ Ngũ tuần sứ đồ giảng đạo, có 3.000 người tin theo. Những kẻ tin đó là kẻ đã thấy Chúa Jesus Christ ở trên thập tự giá (Cong 2:36,37); còn cái cốt yếu của đạo họ tín nhận đó, là chính Người họ đã thấy chết kia, nay đã sống lại rồi. Vả, nếu Christ sống lại chẳng phải là một sự thực, thì cả 3000 người ấy há phải là kẻ khờ khạo, kém trí, nhẹ dạ, mau nghe mà vội tin tiếng đồn bậy đó sao? Chắc không phải vậy đâu; bèn là họ đã nghe và xét rõ có đủ bằng cớ minh chứng rằng Christ quả đã sống lại, nên mới tín nhận vậy. Sau đó có vô số người khác nghe lời chứng của các sứ đồ, cũng tin theo, và Hội Thánh càng ngày càng tấn bộ, mở rộng ra trong thiên hạ, lần lần lan tràn ra khắp thế gian. Tại sao vậy? Há chẳng vì Chúa mà họ thờ đó chẳng phải một người chết mãi đâu, bèn là đã sống lại, và còn sống cho đến đời đời đấy hay sao?2) LUẬN THUYẾT SAI LẦM VỀ SỰ SỐNG LẠITrải qua các đời có nhiều kẻ vô tín phản đối lẽ đạo Chúa Jesus Christ sống lại, và đề xướng nhiều ý kiến như sau đây:(a) Jesus không chết, chỉ bất tỉnh nhân sự:Ông Strauss, người Đức (1808-1874), chủ trương rằng Jesus Christ chẳng chết đâu, chỉ nhân vì sự khảo kẹp đau đớn của thập tự giá mà bất tỉnh nhân sự. Đoạn,sau khi hạ xuống khỏi mộc hình, đem chôn, thì khí mát của huyệt mả với thuốc xông khiến cho Ngài tỉnh lại.Ta bác lại rằng: Huyết và nước từ hông Ngài chảy ra, và lời chứng kiến của đội trưởng, đều chứng thực rằng Chúa Jesus thật đã tắt hơi và chết rồi (Mac 12:45). Sự lăn hòn đá chặn cửa huyệt mả, và lực lượng lạ lùng của Chúa Jesus về sau đều không thích hiệp với ý kiến bất tỉnh nhân sự:vì nếu thân thể đã bị thương tích yếu đuối, đến đỗi chết giấc thì làm sao khi vừa tỉnh dậy, lại có thể liền đi ra hành động cách lạ lùng như Chúa đã làm đó ư?(b) Ảo tưởng:Ông Renan, nhà triết học Pháp (1823-1892), chủ trương rằng sự sống của Christ bất quá là ảo tưởng của môn đồ. Ông luận rằng môn đồ đã thấy Thầy mình bị treo trên thập tự giá mà chết, chi cho khỏi buồn bực quá lẽ, tâm linh rối loạn, lòng mến tiếc tưởng nhớ Ngài triền miên đêm ngày, những mong sao Ngài sẽ sống lại. Cái tâm chí và thái độ ấy lần lần trở nên ảo tưởng lạ lùng, mường tượng như mắt đã xem thấy. Đến khi làm chứng về ảo tượng ấy, thì họ vốn chẳng phải cố ý lừa gạt người ta đâu, bèn là lầm lạc bởi tâm lý mình phát ra vậy, khiến cho họ tin rằng mình quả đã thấy Jesus sống lại.Đối với ý kiến ấy, ta đáp rằng: Khi chôn Chúa Jesus, môn đồ chẳng có chút gì tỏ vẻ hi vọng Ngài sẽ sống lại. Các nữ đồ đi thăm mộ chẳng phải vì mong gặp Chúa sống lại, bèn vì nhớ thương Ngài, muốn xông thuốc thơm cho thi thể Ngài để tỏ lòng mến tiếc đó thôi. Kịp khi có kẻ chứng rằng đã thấy Chúa sống, thì môn đồ lại nghi ngờ, và khi chính Chúa Jesus hiện ra giữa họ, thì vẫn có kẻ tin mình thấy một “linh vị”: Chúa phải hết sức giải nghi cho họ, đặng họ vững tin rằng điều họ thấy đó chẳng phải là bóng dáng, chẳng phải là “linh vị”, bèn là thân thể thật của Christ đã sống lại vậy (Lu 24:37-40).(c) Thần linh của Christ hiện ra:Ông Theodore Keim dạy rằng Chúa Jesus thật chết trên thập tự giá, nhưng thần linh Ngài hiện ra với môn đồ, để giục giã họ tin rằng Ngài vẫn còn sống; cũng để chỉ dạy họ phải làm cách nào để truyền bá đạo Ngài ra khắp thế gian.Đối với ý kiến ấy, ta bác lại rằng: Chính Chúa chối hẳn Ngài là thần linh, vì Ngài phán rằng: “Hãy xem tay và chơn ta, thật chính ta. Hãy rờ ta xem; vì thần thì không có thịt xương như các ngươi thấy ta có đây” (Lu 24:39). Lại nếu thân thể Chúa không sống lại, thì chính Ngài dối gạt môn đồ, cho họ tin rằng Ngài thật sống lại. Ý kiến nầy cũng rất phản đối với mồ mả trống không; bởi vì khi sứ đồ khởi giảng dạy về Chúa sống lại, thì dễ cho thù nghịch đem xác chết của Ngài mà chứng rằng họ nói dối. Nhưng ta chẳng thấy một ai làm điều ấy bao giờ; dường ấy há chẳng chứng rằng Ngài đã sống lại sao?(d) Truyện thần tiên:Cũng có kẻ cho sự sống lại của Christ chẳng qua là truyện thần tiên, như truyện Sơn tinh và Thủy tinh vậy. Họ chủ trương rằng truyện tích về đời sống và công việc của Jesus ở Na-xa-rét đồn khắp nơi, người nầy thuật cho kẻ kia, lần lần thêm lắm ý lạ lùng, chẳng khác “vẽ rắn thêm chơn” đến đỗi trở nên một truyện thần tiên vậy thôi.Ta đáp: Chúa vừa chịu chết chưa hơn hai tháng, thì môn đồ đã khởi sự làm chứng Ngài đã sống lại. Các chuyện hoang đàng đều cần phải trải một thời gian rất dài mới thành truyện thần tiên được. Lại truyện thần tiên chẳng hề có linh lực khiến cho người ta vui lòng hi sinh tất cả,nào tài sản, an nhàn, danh giá, quyền lợi, thậm chí chính tánh mạng mình nữa,chỉ mong sao được dịp làm chứng cho truyện ấy là thỏa nguyện. Mà sự sống lại của Chúa thật đã khiến cho môn đồ làm như vậy, đến đỗi phần nhiều trong họ đều lấy huyết mình mà ấn chứng cho đạo ấy. Cũng dám chắc rằng chẳng có truyện thần tiên nào có thể gây nên lễ Ngũ tuần, hoặc đổi tánh môn đồ vốn yếu đuối nhát sợ ra mạnh mẻ can đảm bao giờ, duy sự sống lại thật của Chúa có thể làm được như vậy thôi.3) CỐT YẾU VỀ SỰ SỐNG LẠIKê cứu Kinh Thánh dễ thấy đạo Chúa Jesus sống lại rất quan hệ đối với sự cứu rỗi ta. Xin nói lược vài điều như sau đây:(a) Then chốt của đạo cứu rỗi:Phao-lô dạy rõ ràng sự sống lại của Jesus Christ là then chốt của đạo cứu rỗi.Trong thơ ICô-rinh-tô ông chép rằng: ICo 15:17,18(b) Thực nghiệm của lẽ thật: Sự sống lại của Chúa lại là sự thực nghiệm lẽ đạo cứu rỗi. Nếu Ngài đã chẳng sống lại thì đạo Tin Lành là giả dối cả. Phao-lô chép thêm rằng: ICo 15:14,15.(c) Nền móng của sự tín ngưỡng: Sự sống lại là nền móng của sự tín ngưỡng của tín đồ. Ví thử Chúa chẳng sống lại,thì dầu sốt sắng tín nhận cả Tin Lành cũng vô ích… Phao-lô dạy nữa rằng: ICo 15:14; Ro 4:24,25; Ro 10:9.(d) Chứng minh Ngài là Con Đức Chúa Trời: Sự sống lại chứng minh rằng Chúa Jesus thật là Con Đức Chúa Trời, cũng như Phao-lô chép: Ro 1:4.Sự sống lại vốn là việc của Đức Chúa Trời (Ro 8:11; ICo 4:14; 6:14); mà cũng là từ chính mình Jesus Christ mà thành công, làm chứng chắc rằng Ngài là Con Đức Chúa Trời vậy. (Gi 10:17,18; Ma 28:7; Gi 21:14).(e) Đặc sắc của Tin Lành: Đạo Christ được xưng là Tin Lành cốt bởi vì Chủ giáo của đạo ấy đã toàn thắng Sa-tan, tội lỗi, và sự chết mà sống lại. Sự sống lại là ấn chứng xác thực rằng Christ là Cứu Chúa của thế gian, đã vì tội nhơn mà đắc thắng các thù nghịch ấy.Sự sống lại của Ngài cũng là sự bảo chứng về sự sống lại của tín đồ, vì chính Chúa là trái đầu mùa của họ. Phao-lô chép: ICo 15:23.Thực, nếu Christ không sống lại, thì kẻ tin theo Ngài chỉ bị lừa gạt và là người khốn nạn hơn hết, vì chẳng có hi vọng gì hoặc trong đời nầy hay trong đời sau cũng vậy.b) Sự thăng thiên: Sự sống lại chứng minh rằng Jesus Christ là người hoàn toàn, được tôn vinh trước mặt cả giống loài người, xưng hô là Đấng đã toàn thắng ma quỉ, chuộc tội lỗi, chủ trị sự chết. Còn sự thăng thiên tuyên bố cho cả vũ trụ rằng Ngài là Đức Chúa Trời,được phục sanh, cầm quyền thống trị muôn vật, và là Đấng mà mọi vị thọ tạo đáng nên thờ phượng. Ngài làm xong công việc cứu chuộc rồi trở lên trên trời, chẳng khác gì hoàng đế được thắng trận khải hoàn. Còn trên trời thì trùng trùng điệp điệp thiên sứ trần thiết nghi lễ hoan nghinh Ngài, khâm tôn, sùng bái Ngài đến đời đời. Cong 1:9; Cong 2:33; ITi 3:16c) Ngồi bên hữu Đức Chúa Trời:Christ được cất lên trời, được ngồi bên hữu Đức Chúa Trời, là chốn quyền bính chí cao. Tại đó Ngài thay mặt tín đồ mà biện hộ và cầu thay cho họ, sai Thánh Linh xuống trên họ để ứng dụng linh nghiệm của sự cứu rỗi cho muôn dân. Mac 16:19; Ro 8:34; cũng xem Thi 110:1; Eph 1:20-22; Co 3:1; He 1:3,4; 10:12; IPhi 3:12.d) Cầm cả quyền trời đất:Christ thăng thiên, ngự trên ngai cao sang, thống trị muôn vật, vì cả quyền bính trên trời dưới đất đều giao nơi tay Ngài. Kinh Thánh chứng rằng: Ma 28:18;Gi 3:35. Cũng xem 13:3 và 17:2. Eph 1:22; He 1:2; He 2:8Vả, Christ sẽ cứ cầm giữ quyền ấy cho đến khi các thù nghịch bị làm bệ dưới chân Ngài. Kế đó, Ngài sẽ đem quyền nước giao lại cho Đức Chúa Trời, rồi chính Con cũng sẽ phục Cha, và Ba Ngôi Đức Chúa Trời hiệp nhứt để ngự trên muôn vật mà làm mọi sự trong mọi sự. Phao-lô chép: ICo 15:28.PHẦN IICHỨC VỤ CỦA CHRISTLỜI MỞ ĐƯỜNGKINH THÁNH bày tỏ chức vụ của Christ theo ba mặt, tức là tiên tri, tế lễ và vua. Ba chức ấy Kinh Thánh mượn cõi nhơn sự để làm hình bóng chỉ về công việc của Christ ở trong buổi quá khứ, hiện tại và tương lai. Trong đời Cựu Ước, chẳng ai được phép kiêm lãnh cả ba chức ấy; hoặc tiên tri, hoặc tế lễ, hoặc vua, người nào giữ chức ấy thôi. Song chúng ta thấy cả ba chức ấy đều được gồm lại ở trên một mình Christ, là Đấng làm ứng nghiệm trọn vẹn các hình bóng bất toàn ấy. Phao-lô chép: “Nhưng ấy là nhờ Ngài mà anh em được ở trong Christ Jesus, là Đấng mà Đức Chúa Trời đã làm nên sự khôn ngoan, sự công nghĩa, sự nên thánh, và sự cứu chuộc cho chúng ta” (ICo 1:30).Trong câu ấy chắc Phao-lô ám chỉ về ba chức của Christ: “sự khôn ngoan” chỉ về chức tiên tri, “sự công nghĩa” chỉ về chức tế lễ, “sự nên thánh và sự cứu chuộc” chỉ về chức vua của Ngài. Có nhà thần đạo luận rằng: “Christ cần phải hành chức tiên tri mới cứu ta khỏi sự ngu muội của tội lỗi;cần phải hành chức tế lễ, mới cứu ta khỏi hình phạt của tội lỗi; cần phải hành chức vua mới cứu ta khỏi quyền thế của tội lỗi.” Đức tin hay cứu rỗi cần phải vin lấy công nghiệp của cả ba chức ấy mới đứng vững được, cũng như cái bàn cân phải có ít nữa là ba chơn mới khỏi ngã vậy.CHƯƠNG 6: LUẬN VỀ CHỨC TIÊN TRII. BẰNG CHỨNG VỀ CHỨC TIÊN TRI CỦA CHRIST1. CỰU ƯỚC DỰ NGÔNCỰU ƯỚC có lời dự ngôn rằng Christ sẽ làm chức tiên tri. Trong Phu 18:18,19 có ký thuật lời Đức Chúa Trời phán cùng Môi-se rằng:“Ta sẽ lập lên cho chúng một Đấng tiên tri như ngươi, thuộc trong anh em chúng,ta sẽ lấy lời ta để trong miệng ngươi, thì ngươi sẽ nói cho chúng mọi điều ta phán dặn ngươi” (xin so sánh câu ấy với Cong 3:22; 7:37).2. CHRIST TỰ XƯNG LÀ TIÊN TRIChrist thường tự xưng mình là tiên tri.Khi người đồng hương mình vấp phạm vì cớ Ngài, thì Ngài phán rằng: “Tiên tri không được tôn trọng chăng trừ ra trong quê hương và nhà mình thôi” (Ma 13:57).3. NGƯỜI TA CŨNG NHẬN NGÀI LÀ TIÊN TRINgười đồng thời nghe Chúa Jesus giảng và dạy đều công nhận Ngài là tiên tri thật (Gi 7:40). Khi Chúa hỏi môn đồ về mọi điều người ta nói Con người là ai, thì họ đáp: Người thì nói, Giăng Báptít; kẻ thì nói, Ê-li; kẻ khác lại nói, Giê-rê-mi, hay là một tiên tri nào đó.” (Ma 16:14). Khi Ngài và