14 bài Giải nghĩa Thư Tín Phi-líp

ĐẤNG ĐÃ KHỞI LÀM VIỆC LÀNH (1:1-11 )

1 Phao-lô và Ti-mô-thê, tôi tớ của Đức Chúa Giê-xu Christ, gởi cho hết thảy các thánh đồ trong Đức Chúa Giê-xu Christ, ở thành Phi-líp, cùng cho các giám mục và các chấp sự. 2 Nguyền xin anh em được ân điển và sự bình an ban cho bởi Đức Chúa Trời, Cha chúng ta và bởi Đức Chúa Giê-xu Christ!

3 Mỗi khi tôi nhớ đến anh em, thì cảm tạ Đức Chúa Trời tôi 4 và mỗi khi cầu nguyện, tôi hằng cầu cho hết thảy anh em cách hớn hở, 5 vì cớ từ buổi ban đầu cho đến bây giờ, anh em đã được thông công trong sự tấn tới của đạo Tin Lành. 6 Tôi tin chắc rằng Đấng đã khởi làm việc lành trong anh em, sẽ làm trọn hết cho đến ngày của Đức Chúa Giê-xu  Christ.

7 Tôi nghĩ đến hết thảy anh em dường ấy, là phải lắm vì anh em ở trong lòng tôi, dầu trong vòng xiềng xích tôi, hoặc trong khi binh vực và làm chứng đạo Tin lành, thì anh em cũng có dự phần ân điển đã ban cho tôi. 8 Đức Chúa Trời cũng chứng rằng tôi lấy lòng yêu dấu của Đức Chúa Giê-xu Christ mà tríu mến anh em. 9 Lại, điều tôi xin trong khi cầu nguyện, ấy là lòng thương yêu của anh em càng ngày càng chan chứa hơn, trong sự thông biết và sự suy hiểu, 10để nghiệm thử những sự tốt lành hơn, hầu cho anh em được tinh sạch không chỗ trách được, cho đến ngày Đấng Christ, 11 được đầy trái công bình đến bởi Đức Chúa Giê-xu Christ, làm cho sáng danh và khen ngợi Đức Chúa Trời.

 

  1. Tác giả Thư Phi-líp là sứ đồ Phao-lô, tại sao ông thêm tên Ti-mô-thê trong lời mở đầu (c. 1)?
  2. Phao-lô xưng mình là “tôi tớ của Đức Chúa Giê-xu Christ” (c. 1). Xin giải thích cụm từ nầy.
  3. Phao-lô cho thấy có ba thành phần trong Hội Thánh Phi-líp: thánh đồ, giám mục và chấp sự (c. 1). Xin cho biết ý nghĩa và nhiệm vụ của mỗi nhóm.
  4. Xin giải thích hai từ “ân điển” và “bình an” trong lời chào đầu thư (c. 2).
  5. Sứ đồ Phao-lô làm gì mỗi khi ông nhớ đến các tín hữu tại Phi-líp (c. 3)? Tại sao?
  6. “Được thông công trong sự tấn tới của đạo Tin Lành” (c. 5b) nói đến điều gì?
  7. Câu 6 dạy chúng ta điều gì?
  8. Phao-lô hàm ý điều gì khi ông nói: “Anh em cũng có dự phần ân điển đã ban cho tôi” (c. 7b)?
  9. Phao-lô cầu nguyện điều gì cho các tín hữu trong câu 9?
  10. Kết quả sau cùng trong lời cầu nguyện của Phao-lô cho Hội Thánh Phi-líp là gì (c. 10-11)?

 

Phao-lô là người viết thư Phi-líp nhưng ông ghi thêm tên Ti-mô-thê vào (c. 1a). Ti-mô-thê là người cùng đi với Phao-lô trong hành trình truyền giáo thứ hai và đã cùng đến thành lập Hội Thánh tại Phi-líp (Công vụ 16:3; 11-15). Điều nầy cho thấy tinh thần đồng đội, tôn trọng người cùng làm việc với mình của Phao-lô dù Ti-mô-thê người trẻ hơn và là học trò của Phao-lô.

Phao-lô xưng mình là tôi tớ của Đức Chúa Giê-xu Christ (c. 1b). Tôi tớ (doulos) là nô lệ, thuộc quyền sở hữu của Chủ và tuyệt đối vâng lời Chủ. Phao-lô kể ông và Ti-mô-thê là nô lệ đối với Chúa.

Theo câu 1, Thư Phi-líp được gởi cho ba nhóm người: thánh đồ, giám mục và chấp sự.

Thánh đồ trong nguyên văn chỉ là một từ: Gởi cho hết thảy các THÁNH trong Đức Chúa Giê-xu Christ, ở thành Phi-lípNgười tin Chúa được gọi là “thánh” vì được biệt riêng cho Chúa, sống cho mục đích của Ngài. Phao-lô dùng danh hiệu nầy trong hầu hết các thư của ông, nhắc chúng ta về địa vị cao quý và đặc biệt Chúa ban cho chúng ta trong trần gian, hầu sống xứng đáng với danh hiệu nầy (Giăng 17:15). Thánh đồ chỉ về toàn thể tín đồ tại Hội Thánh Phi-líp.

Giám mục(episkopos) được dịch là kẻ coi sóc (Công vụ 20:28) và đồng nghĩa với trưởng lão (presbyteros, Công vụ 2:17). Đây là những người giữ chức vụ chăn bầy trong Hội Thánh đầu tiên. Mỗi khi thành lập Hội Thánh, Phao-lô đều chọn các trưởng lão để hướng dẫn Hội Thánh (Công vụ 14:23). Sứ đồ Phi-e-rơ và sứ đồ Giăng cũng xưng mình là trưởng lão như vậy (I Phi-e-rơ 5:1; III Giăng 1). Phao-lô mô tả điều kiện làm giám mục trong I Ti-mô-thê 3:1-7 và cũng cho biết quyền lợi của họ (I Ti-mô-thê 5:17-20). Giám mục hay trưởng lão vì vậy chỉ về ban lãnh đạo tâm linh trong Hội Thánh đầu tiên, tiêu biểu là trong Hội Thánh Phi-líp.

Chấp sự(diakonos) là chức vụ trong Hội Thánh Đầu Tiên, lo các công tác xã hội (Công vụ 7:1-6). Tuy nhiên, họ cũng là những người lãnh đạo tinh thần với tư cách tương đương như giám mục (I Ti-mô-thê 3:8-13). Các chấp sự như Ê-tiên và Phi-líp cũng là những người có khả năng lãnh đạo và giảng dạy (Công vụ 6:8-15; 8:26-40).

Tiếp theo là lời chào đầu thư với hai chữ ân điển và bình an (c. 2). Trong tiếng Hy-lạp, hai chữ “chào” và “ân điển” rất gần nhau (charein và charis). Lẽ ra Phao-lô phải dùng chữ charein là lời chào (như lời mở đầu Thư Gia-cơ) nhưng ông đã đổi charein thành charis để nhấn mạnh về giáo lý ân sủng trong Đạo Chúa. Ân sủng hay ân điển là ơn ban cho người không đáng được nhận. Đây là căn bản của sự cứu rỗi Chúa dành cho chúng ta (Ê-phê-sô 2:8). Đây là lời chào, lời chúc thích hợp cho người tin Chúa. Bình an (shalom) là lời chào của người Do-thái trong mọi trường hợp: gặp nhau, từ giã, chúc nhau… Bình an nói đến sự hưng thịnh, lành mạnh của toàn thể con người (III Giăng 2).

Cả hai từ ân điển và bình an vì vậy rất thích hợp cho người tin Chúa, đây là căn bản cũng là kết quả của sự cứu rỗi trong Chúa Giê-xu. Chúng ta được cứu bởi ân sủng của Chúa, không do công sức, công đức hay cố gắng của con người. Khi đã được cứu, chúng ta tận hưởng bình an, hài hòa trong mối quan hệ với Chúa, với người và với chính mình (bình an trong tâm hồn).

Nguồn của bình an và ân điển là Đức Chúa Trời và Chúa Giê-xu:

Nguyền xin anh em được ân điển và sự bình an ban cho bởi Đức Chúa Trời, Cha chúng ta và bởi Đức Chúa Giê-xu Christ (c. 2)

Điều nầy xác nhận thần tính của Chúa Giê-xu (Chúa Giê-xu chính là Đức Chúa Trời) và cũng nói lên mối quan hệ Cha-con giữa chúng ta với Đức Chúa Trời.

Mở đầu lá thư, Phao-lô viết:

Mỗi khi tôi nhớ đến anh em, thì cảm tạ Đức Chúa Trời tôi và mỗi khi cầu nguyện, tôi hằng cầu cho hết thảy anh em cách hớn hở (c. 3-4)

Mỗi lần nghĩ đến các tín hữu tại Phi-líp, Phao-lô cảm tạ Chúa về họ. Lý do là:

Vì cớ từ buổi ban đầu cho đến bây giờ, anh em đã được thông công trong sự tấn tới của đạo Tin Lành (c. 5)

Buổi ban đầu nói đến lúc Phao-lô bắt đầu đến truyền giáo tại Phi-líp (Công vụ 16:11-40). Từ đó đến nay, Phao-lô nói: Anh em đã được thông công trong sự tấn tới của đạo Tin Lành (c. 5b). Chữ quan trọng ở đây là thông công (koinonia) mang ý nghĩa “tham dự một điều gì với một người nào” (Martin, trang 50). Được thông công trong câu nầy mang ý nghĩa các tín hữu tại Phi-líp đã giúp đỡ vật chất cho Phao-lô khi ông rao giảng Phúc Âm. Được thông công trong sự tấn tới của đạo Tin Lành vì vậy hàm ý nhờ sự giúp đỡ của Hội Thánh Phi-líp mà Phúc Âm của Chúa được phát triển.

Phao-lô cũng nói ông cầu nguyện cho các tín hữu tại Phi-líp cách hớn hở (c. 4b). Hớn hở nghĩa là “vui mừng,” đây là từ  ông dùng đến mười sáu lần trong lá thư nầy. Phao-lô đang ở trong tù (bị giam lỏng) nhưng ông thật sự có niềm vui của Chúa trong lòng, vượt lên trên hoàn cảnh khó khăn.

Câu tiếp theo là lời khẳng định để giúp các tín hữu thêm lòng tin nơi Chúa:

Tôi tin chắc rằng Đấng đã khởi làm việc lành trong anh em, sẽ làm trọn hết cho đến ngày của Đức Chúa Giê-xu Christ (c. 6)

Việc lành chỉ về việc Chúa đã làm tại Phi-líp khi Hội Thánh được thành lập. Dựa vào đó, Phao-lô có hy vọng là Chúa sẽ hoàn tất cho đến khi Ngài trở lại.

Phao-lô tiếp tục với câu:

Tôi nghĩ đến hết thảy anh em dường ấy, là phải lắm vì anh em ở trong lòng tôi, dầu trong vòng xiềng xích tôi, hoặc trong khi binh vực và làm chứng đạo Tin lành, thì anh em cũng có dự phần ân điển đã ban cho tôi (c. 7)

Động từ nghĩ (Tôi NGHĨ đến hết thảy anh em dường ấy) không chỉ mang ý nghĩa suy nghĩ nhưng nói đến lòng quan tâm của Phao-lô đối với các tín hữu tại Phi-líp. Câu tiếp theo cho thấy rõ điều đó:

Vì anh em ở trong lòng tôi, dầu trong vòng xiềng xích tôi, hoặc trong khi binh vực và làm chứng đạo Tin lành, thì anh em cũng có dự phần ân điển đã ban cho tôi (c. 7b)

Anh em ở trong lòng tôi là một lời nói chí tình cho thấy mối thân tình giữa Phao-lô với các tín hữu tại Phi-líp. Trong mọi hoàn cảnh (trong vòng xiềng xích, khi binh vực và làm chứng đạo Tin Lành), Phao-lô cho thấy các tín hữu tại Phi-líp cũng đều có phần với ông.

Bài học cho chúng ta là, mỗi người được Chúa kêu gọi và ban ân tứ khác nhau nhưng tất cả chúng ta đều cùng làm việc chung với nhau, cho mục đích của Phúc Âm.

Lời của Phao-lô trong câu tiếp theo cho thấy tình yêu thương đậm đà giữa ông với các tin hữu:

Đức Chúa Trời cũng chứng rằng tôi lấy lòng yêu dấu của Đức Chúa Giê-xu Christ mà tríu mến anh em (c. 8)

Chữ lòng yêu dấu là một từ rất mạnh, có cùng gốc với động từ động lòng thương xót (Ma-thi-ơ 9:36) mô tả cảm xúc sâu xa tận đáy lòng. Phao-lô cho thấy ông thật lòng yêu thương họ, ông yêu thương như chính Chúa yêu thương họ vậy!

Với tâm tình đó, Phao-lô cầu nguyện cho các tín hữu:

Lại, điều tôi xin trong khi cầu nguyện, ấy là lòng thương yêu của anh em càng ngày càng chan chứa hơn, trong sự thông biết và sự suy hiểu, để nghiệm thử những sự tốt lành hơn, hầu cho anh em được tinh sạch không chỗ trách được, cho đến ngày Đấng Christ, được đầy trái công bình đến bởi Đức Chúa Giê-xu Christ, làm cho sáng danh và khen ngợi Đức Chúa Trời (c. 9-11)

Bản Hiệu Đính dịch lại như sau:

Điều tôi cầu xin, ấy là tình yêu thương của anh em ngày càng gia tăng, cùng với sự hiểu biết và mọi nhận thức sâu sắc, giúp anh em phân biệt điều gì là tốt nhất, để trong ngày của Đấng Christ anh em được tinh sạch, không chỗ chê trách, được đầy trái công chính bởi Đức Chúa Jêsus Christ để tôn vinh và ca ngợi Đức Chúa Trời (c. 9-11, BHĐ)

Điểm chính trong lời cầu nguyện của Phao-lô là tình yêu thương của anh em ngày càng gia tăng. Sự gia tăng nầy đi chung với hiểu biết và mọi nhận thức sâu sắc.

Hiểu biết nói đến việc hiểu biết Chúa qua đức tin, hiểu biết chân lý thuộc linh.

Nhận thức (insight) mang ý nghĩa sử dụng tâm trí trong những quyết định đạo đức.

Phao-lô cầu nguyện cho các tín hữu được gia tăng trong tình yêu thương nhưng là tình yêu thương đi chung với hiểu biết và nhận thức sâu sắc. Đây không phải là yêu thương nông nổi của cảm xúc mà là yêu thương được sự hướng dẫn của hiểu biết và nhận thức tâm linh.

Hiểu biết và nhận thức nầy đưa đến hai kết quả:

(1) Giúp anh em phân biệt điều gì là tốt nhất.

(2) Được tinh sạch, không chỗ chê trách, được đầy trái công chính.

Hiểu biết tâm linh giúp chúng ta có những quyết định đúng hay nói đúng hơn, có những lựa chọn tốt nhất. Đồng thời đưa đến một đời sống tâm linh trong sạch, kết quả. Tuy nhiên, kết quả sau cùng là Đức Chúa Trời được tôn vinh và ca ngợi (c. 11b).

Những điểm chính trong lời cầu nguyện nầy là:

  1. Tình yêu thương gia tăng.
  2. Hiểu biết và nhận thức tâm linh là điều quan trọng.
  3. Hiểu biết và nhận thức tâm linh đúng sẽ đưa đến quyết định đúng và đời sống kết quả.
  4. Chúa được vinh danh.

Đây cũng là lời cầu nguyện chúng ta cần có cho chính mình.

Bài 2

ĐẤNG CHRIST LÀ SỰ SỐNG CỦA TÔI (1:12-26)

 

12 Hỡi anh em, tôi muốn anh em biết rằng điều xảy đến cho tôi đã giúp thêm sự tấn tới cho đạo Tin Lành, 13 đến nỗi chốn công đường và các nơi khác đều rõ tôi vì Đấng Christ mà chịu xiềng xích. 14 Phần nhiều trong anh em nhân tôi bị xiềng xích mà có lòng tin rất lớn trong Đấng Christ, dám truyền đạo Đức Chúa Trời chẳng sợ hãi gì.

15 Thật có một đôi người vì lòng ganh tị và cãi lẫy mà rao truyền Đấng Christ, nhưng cũng có kẻ lấy ý tốt mà rao truyền. 16 Những người nầy làm bởi lòng yêu mến, biết rằng tôi được lập lên để binh vực đạo Tin lành. 17 Còn những người kia, vì ý phe đảng xui giục, có lòng rao truyền Đấng Christ cách không ngay thật, tưởng thêm khổ não cho sự xiềng xích tôi. 18 Song có hề gì! Dẫu thế nào đi nữa, hoặc làm bộ, hoặc thật thà, Đấng Christ cũng được rao truyền; ấy vì đó tôi đương mừng rỡ, và sẽ còn mừng rỡ nữa. 19 Vì tôi biết rằng nhờ anh em cầu nguyện, và nhờ Thánh Linh của Đức Chúa Giê-xu Christ giúp đỡ, thì điều nầy sẽ trở làm ích cho sự rỗi tôi. 20 Tôi có lòng trông cậy chắc chắn nầy, việc chi tôi cũng chẳng hổ thẹn cả, nhưng bao giờ cũng thế, tôi nói cách tự do mọi bề, như vậy, dầu tôi sống hay chết, Đấng Christ sẽ được cả sáng trong mình tôi. 21 Vì Đấng Christ là sự sống của tôi và sự chết là điều ích lợi cho tôi vậy.

22 Ví thử tôi cứ sống trong xác thịt, là ích lợi cho công khó tôi, thì tôi chẳng biết nên lựa điều chi. 23 Tôi bị ép giữa hai bề muốn đi ở với Đấng Christ, là điều rất tốt hơn 24 nhưng tôi cứ ở trong xác thịt, ấy là sự cần hơn cho anh em. 25 Trong sự tin chắc đó, tôi biết rằng tôi sẽ cứ còn lại và ở với hết thảy anh em, để giúp đức tin anh em được tấn tới và vui vẻ 26 hầu cho khi tôi lại đến cùng anh em, anh em sẽ nhân tôi mà có nhiều cớ khoe mình luôn trong Đức Chúa Giê-xu Christ.

 

  1. “Điều xảy đến cho tôi” (c. 12a) chỉ về điều gì? Tại sao điều xảy đến cho Phao-lô “đã giúp thêm sự tấn tới cho đạo Tin lành” (c. 12b)?
  2. Theo câu 13-14, hai kết quả tốt đến từ việc Phao-lô bị tù là gì?
  3. Xin cho biết hai động cơ rao giảng Phúc Âm trong câu 15? Xin cho biết quan điểm của Phao-lô về hai động cơ nầy (c. 16-18).
  4. “Sự rỗi” Phao-lô nói đến trong câu 19 chỉ về điều gì?
  5. Xin cho biết khẩu hiệu của đời sống Phao-lô trong câu 20. “Đấng Christ sẽ được cả sáng trong mình tôi” (c. 20b) nghĩa là thế nào?
  6. “Đấng Christ là sự sống của tôi” (c. 21a) nghĩa là thế nào?
  7. Tại sao chết lại là điều ích lợi cho Phao-lô (c. 21b)?
  8. Xin cho biết nan đề về lựa chọn của Phao-lô trong câu 22-24?
  9. Phao-lô hàm ý điều gì trong câu 25-26?

 

Sứ đồ Phao-lô viết Thư Phi-líp khi ông đang bị tù (1:7, 13) cho nên điều xảy đến cho tôi (c. 12a) nói về việc ở tù đó. Phao-lô cho thấy việc ông bị tù đem lại kết quả không ngờ là giúp thêm sự tấn tới cho đạo Tin Lành. Phúc Âm của Chúa được tấn tới trong ý nghĩa nào?

(1) Chốn công đường và các nơi khác đều rõ tôi vì Đấng Christ mà chịu xiềng xích (c. 13).

(2) Phần nhiều trong anh em nhân tôi bị xiềng xích mà có lòng tin rất lớn trong Đấng Christ, dám truyền đạo Đức Chúa Trời chẳng sợ hãi gì (c. 14).

Chốn công đường nói đến dinh thự của nhà vua hay của các viên chức cao cấp nhưng cũng chỉ về người canh gác ở những nơi đó. Bản Hiệu Đính dịch là: “Tất cả lính canh trong dinh tổng đốc.” Như vậy, lợi ích đầu tiên của việc Phao-lô bị tù là mọi người, từ lính canh đến thường dân, đều biết Phao-lô ở tù không phải vì làm điều bất chính hay vi phạm luật pháp nhưng vì rao giảng Danh Chúa.

Kết quả thứ hai của việc Phao-lô bị tù là giúp cho các tín hữu “vững tin hơn trong Chúa và mạnh dạn rao truyền lời Chúa không chút sợ hãi” (BHĐ). Việc Phao-lô bị tù không làm các tín hữu nản lòng, trái lại giúp họ thêm mạnh dạn trong việc truyền giáo.

Đức Chúa Trời luôn luôn dùng những hoàn cảnh khó khăn để giúp cho sự phát triển của Đạo Chúa. Những vùng Đạo Chúa gặp khó khăn cũng thường là những nơi Hội Thánh được phát triển nhiều nhất!

Câu 15 cho thấy có hai động cơ trong việc rao giảng Phúc Âm:

Thật có một đôi người vì lòng ganh tị và cãi lẫy mà rao truyền Đấng Christ, nhưng cũng có kẻ lấy ý tốt mà rao truyền (c. 15)

Trong câu 14, Phao-lô nói về những người dám truyền đạo Đức Chúa Trời chẳng sợ hãi gì nhưng trong số đó có hai nhóm:

  • Những người rao giảng vì lòng ganh tị và cãi lẫy (c. 15a)
  • Những người lấy ý tốt mà rao truyền (c. 15b)

Thật, có vài người rao giảng Đấng Christ vì ganh tị và tranh cạnh, nhưng cũng có những người vì ý tốt mà rao giảng (c. 15, BHĐ)

Chúng ta không rõ những người rao giảng vì ganh tị và tranh cạnh là ai nhưng Phao-lô biết có những người như vậy. Họ là những người ganh tị và tranh cạnh với Phao-lô, không công nhận thẩm quyền sứ đồ của ông, ngược lại với những người biết Phao-lô là người “được chỉ định để bênh vực Tin Lành” (c. 16b). Họ là những người muốn “gây đau khổ thêm cho xiềng xích” của ông (c. 17b), có thể họ không muốn ông ra khỏi tù.

Ngược lại với những người nầy là những người “vì ý tốt mà rao giảng” (c. 15b), là những người công nhận thẩm quyền sứ đồ của ông (c. 16b). Dù là ai, Phao-lô nói:

Dù thế nào đi nữa, hoặc giả vờ hay thành thật thì Đấng Christ vẫn được rao giảng. Đó là điều tôi vui mừng, và sẽ còn vui mừng nữa! (c. 18, BHĐ)

Quan điểm của Phao-lô vì vậy là, dù ai rao giảng với động cơ nào, điều quan trọng là Chúa Giê-xu được rao giảng. Có thể có những người không đồng quan điểm với chúng ta về một số vấn đề, nhưng nếu họ cũng quyết tâm rao giảng Chúa Giê-xu và tôn cao Ngài, đó mới là điều quan trọng. Điều nầy ngày nay có thể xảy ra giữa những người khác giáo phái hay có những chủ trương khác nhau về nơi nhóm họp hoặc những quan điểm thần học không liên quan đến sự cứu rỗi. Chúng ta cần có tinh thần phóng khoáng, chấp nhận nhau trong việc truyền bá Phúc Âm.

Đang khi ở trong tù, Phao-lô vẫn có hy vọng. Ông viết:

Vì tôi biết rằng nhờ anh em cầu nguyện và nhờ Thánh Linh của Đức Chúa Giê-xu Christ giúp đỡ, thì điều nầy sẽ trở làm ích cho sự rỗi tôi (c. 19)

Đây là hy vọng được ra khỏi tù của Phao-lô. Chữ sự rỗi có thể dịch là “sự giải thoát.” Hai yếu tố giúp Phao-lô có hy vọng nầy là:

(1) Nhờ anh em cầu nguyện.

(2) Nhờ Thánh Linh của Đức Chúa Giê-xu Christ giúp đỡ.

Anh em cầu nguyện là giúp đỡ đến từ con người, còn Thánh Linh của Đức Chúa Giê-xu nói đến sự giúp đỡ thiên thượng. Chúa Thánh Linh sẽ hành động nhưng lời cầu thay của con cái Chúa là điều không thể thiếu trong mọi tình huống.

Câu 20 cho thấy khẩu hiệu của đời sống Phao-lô:

Tôi có lòng trông cậy chắc chắn nầy, việc chi tôi cũng chẳng hổ thẹn cả, nhưng bao giờ cũng thế, tôi nói cách tự do mọi bề, như vậy, dầu tôi sống hay chết, Đấng Christ sẽ được cả sáng trong mình tôi (c. 20)

Khẩu hiệu đó là: Dầu tôi sống hay chết, Đấng Christ sẽ được cả sáng trong mình tôi (c. 20b). Cả sáng mang ý nghĩa nổi bật, hay được “tôn vinh” (BHĐ). Sứ đồ Phao-lô đang đứng giữa hai tình huống: ông có thể ra khỏi tù nhưng ông cũng có thể bị xử tử. Nhưng dù gì đi nữa, quyết tâm của Phao-lô là Chúa Giê-xu luôn luôn được vinh quang qua cuộc đời ông. Đây cũng phải là tâm niệm mỗi chúng ta cần có: sống với mục đích làm rạng Danh Chúa!

Phao-lô cho thấy, sở dĩ ông có thể nói: Dầu tôi sống hay chết, Đấng Christ sẽ được cả sáng trong mình tôi (c. 20b) là:

Vì Đấng Christ là sự sống của tôi và sự chết là điều ích lợi cho tôi vậy (c. 21)

Đấng Christ là sự sống của tôi mang ý nghĩa Chúa là lẽ sống của Phao-lô. Nếu Chúa cho ông sống, ông sẽ vui sống trong lẽ sống đó. Còn nếu phải chết, ông sẽ vui hơn vì được về ở với Chúa là điều phước hạnh, là lợi ích cho ông. Có thể nói, đàng nào ông cũng thắng, không có gì thua thiệt cả.

Phao-lô giải thích thêm như sau:

Ví thử tôi cứ sống trong xác thịt, là ích lợi cho công khó tôi, thì tôi chẳng biết nên lựa điều chi. Tôi bị ép giữa hai bề muốn đi ở với Đấng Christ, là điều rất tốt hơn nhưng tôi cứ ở trong xác thịt, ấy là sự cần hơn cho anh em (c. 22-24)

Câu 22 được dịch trong Bản Hiệu Đính như sau:

Nếu tôi còn sống trong thân xác mà công việc tôi vẫn kết quả thì tôi không biết phải chọn điều nào (c. 22, BHĐ)

Điều nầy đặt Phao-lô trước một lựa chọn khó:

  • Chết (đi ở với Đấng Christ) thì tốt cho Phao-lô (c. 23).
  • Tiếp tục sống (cứ ở trong xác thịt) thì cần hơn cho tín hữu (c. 24).

Vì biết như vậy (Trong sự tin chắc đó, c. 25a), Phao-lô viết:

Trong sự tin chắc đó, tôi biết rằng tôi sẽ cứ còn lại và ở với hết thảy anh em, để giúp đức tin anh em được tấn tới và vui vẻ hầu cho khi tôi lại đến cùng anh em, anh em sẽ nhân tôi mà có nhiều cớ khoe mình luôn trong Đức Chúa Giê-xu Christ (c. 25-26)

Câu nầy hàm ý Phao-lô tin chắc mình sẽ được ra khỏi tù và sẽ gặp lại các tín hữu tại Phi-líp. Ông sẽ giúp đức tin họ tấn tới và cùng vui với họ (c. 25b). Ông nói thêm:

Như thế khi tôi trở lại thăm, anh em sẽ có nhiều lý do để hãnh diện về tôi trong Đấng Christ Jêsus (c. 26, BHĐ)

Tâm tình của Phao-lô trong các câu nầy là điều chúng ta cần bắt chước. Ông luôn luôn nhìn thấy khía cạnh tích cực của vấn đề và luôn luôn để phúc lợi của người khác lên trên:

  1. Đang bị tù nhưng Phao-lô thấy đó là điều tốt vì:
  • Người khác biết ông bị tù là vì Chúa chứ không phải vì phạm pháp
  • Nhờ việc ông bị tù mà các tín hữu thêm vững tin trong Chúa và mạnh dạn trong việc truyền giáo
  1. Đối với những người ganh tị và tranh cạnh, Phao-lô cho thấy kết quả sau cùng là Chúa được rao giảng, đó mới quan trọng.
  2. Đối với sự chết, ông coi đó là điều lợi vì được về ở với Chúa.
  3. Khi phải chọn lựa giữa lợi ích cho mình và nhu cầu của người khác, ông đã chọn nhu cầu của người khác.

Bài 3

ĂN Ở XỨNG ĐÁNG VỚI TIN LÀNH (1:27-30)

 

27 Duy anh em phải ăn ở một cách xứng đáng với đạo Tin lành của Đấng Christ, để hoặc khi đến thăm anh em, hoặc khi vắng mặt, tôi cũng biết rằng anh em một lòng đứng vững, đồng tâm chống cự vì đức tin của đạo Tin Lành, phàm sự chẳng để cho kẻ thù nghịch ngăm dọa mình: 28 Điều đó là một chứng nghiệm chúng nó phải hư mất, còn anh em được cứu rỗi và ấy là từ nơi Đức Chúa Trời29 Ngài nhân Đấng Christ, ban ơn cho anh em, không những tin Đấng Christ mà thôi, lại phải chịu khổ vì Ngài nữa, 30 là phải chịu cùng một cuộc chiến tranh như anh em đã thấy ở nơi tôi và hiện nay còn nghe nói có nơi tôi. 

 

  1. Thế nào là “ăn ở xứng đáng với Tin Lành” (c. 27a)?
  2. Phao-lô ước ao trông thấy những điều gì nơi các tín hữu tại Phi-líp, dù ông có mặt tại đó hay không (c. 27b)?
  3. Xin giải thích câu 28.
  4. Câu 29 cho thấy điều gì về vấn đề chịu khổ vì niềm tin nơi Chúa?
  5. “Cuộc chiến tranh” Phao-lô nói trong câu 30 là gì?

 

Phân đoạn nầy bắt đầu với chữ Duy (c. 27a). Duy mang ý nghĩa đây là điều quan trọng (“Điều cốt yếu,” BHĐ):

Điều cốt yếu là anh em phải sống xứng đáng với Tin Lành của Đấng Christ (c. 27a, BHĐ)

Ăn ở xứng đáng trong nguyên văn mang ý nghĩa sống đúng danh phận của công dân. Phi-líp là thành phố thuộc địa của La-mã (Công vụ 16:12). Người dân tại đây đương nhiên được kể là công dân La-mã, một đặc quyền thời đó. Phao-lô có ý nhắc độc giả nhớ rằng, nếu họ hãnh diện là công dân La-mã và sống xứng hợp với tư cách công dân La-mã thế nào thì phải nhớ rằng họ cũng là công dân thiên quốc (3:20) và phải sống xứng hợp như vậy. Ăn ở xứng đáng với Tin Lành của Đấng Christ nghĩa là sống xứng đáng là công dân thiên quốc, sống xứng hợp với Phúc Âm, với niềm tin của mình.

Phao-lô kêu gọi các tín hữu tại Phi-líp ăn ở xứng đáng với Tin Lành của Đấng Christ dù ông có mặt tại đó hay không (c. 27). Điều nầy cho thấy nguy cơ bị chống đối đang tiềm tàng và họ phải cẩn thận đề phòng:

Để hoặc khi đến thăm anh em, hoặc khi vắng mặt, tôi cũng biết rằng anh em một lòng đứng vững, đồng tâm chống cự vì đức tin của đạo Tin Lành, phàm sự chẳng để cho kẻ thù nghịch ngăm dọa mình (c. 27b-28a)

Những điều Phao-lô mong ước được thấy nơi các tín hữu ở Phi-líp là:

  • Đứng vững
  • Đồng tâm chống cự vì đức tin
  • Không để cho kẻ thù ngăm dọa (“không sợ những người chống đối”)

Phao-lô cho thấy thái độ của các tín hữu minh chứng cho điều sau đây:

Điều đó là một chứng nghiệm chúng nó phải hư mất, còn anh em được cứu rỗi và ấy là từ nơi Đức Chúa Trời (c. 28)

Khi các tín hữu tiếp tục đứng vững trong Chúa giữa những chống đối thì “đó là bằng chứng cho thấy họ sẽ bị hủy diệt, còn anh em thì được cứu rỗi” (BHĐ). Câu: y là từ nơi Đức Chúa Trời cho thấy những chống đối của kẻ thù là do Chúa cho phép xảy ra.

Chịu khổ vì vậy là một phần trong đời sống người tin Chúa:

Ngài nhân Đấng Christ, ban ơn cho anh em, không những tin Đấng Christ mà thôi, lại phải chịu khổ vì Ngài nữa (c. 29)

Câu nầy cho thấy ân sủng (ơn) của Chúa chẳng những để cứu chúng ta nhưng cũng để giúp chúng ta có sức chịu đựng gian khổ vì Chúa. Chịu khổ là điều bắt buộc phải có, không thể thiếu trong đời sống của người tin Chúa và chúng ta nhờ ơn của Chúa để chịu đựng.

Phao-lô cho các tín hữu thấy rằng, khi chịu khổ vì Danh Chúa là họ cùng chia sẻ gian khổ với ông vì chính ông cũng đang chịu khổ như vậy:

Là phải chịu cùng một cuộc chiến tranh như anh em đã thấy ở nơi tôi và hiện nay còn nghe nói có nơi tôi (c. 20)

Chữ chiến tranh trong nguyên văn là agon. Đây là gốc của chữ agony (đau đớn, đau khổ). Phao-lô muốn nói đến những nỗi đau đớn vì tù tội và tất cả những gian khổ ông phải gánh chịu vì Phúc Âm là điều mọi người tin Chúa đều phải trải qua. Chịu khổ là điều tất nhiên trong đời sống mỗi người tin Chúa.

Bài 4

ĐỒNG TÂM, HIỆP Ý, KHIÊM NHƯỜNG (2:1-4)

 

Vậy nếu trong Đấng Christ có điều yên ủi nào, nếu vì lòng yêu thương có điều cứu giúp nào, nếu có sự thông công nơi Thánh Linh, nếu có lòng yêu mến và lòng thương xót, 2 thì anh em hãy hiệp ý với nhau, đồng tình yêu thương, đồng tâm, đồng tư tưởng mà làm cho tôi vui mừng trọn vẹn. 3 Chớ làm sự chi vì lòng tranh cạnh hoặc vì hư vinh, nhưng hãy khiêm nhường, coi người khác như tôn trọng hơn mình. 4 Mỗi một người trong anh em chớ chăm về lợi riêng mình, nhưng phải chăm về lợi kẻ khác nữa.

 

  1. Những chữ “nếu” trong câu 1 mang ý nghĩa gì?
  2. Những chữ “hiệp ý” “đồng tình yêu thương” “đồng tâm” “đồng tư tưởng” (c. 2) có đồng nghĩa với nhau không? Tại sao Phao-lô dùng tất cả những từ nầy trong lời khuyên của ông?
  3. Thế nào là “hư vinh” (c. 3a)?
  4. Thế nào là “coi người khác như tôn trọng hơn mình” (c. 3b)?
  5. Xin cho một ví dụ về việc không chăm lợi riêng nhưng chăm về lợi của người khác?
  6. Tóm lại một lời, Phao-lô khuyên chúng ta điều gì trong phần Kinh Thánh nầy?

 

Phi-líp 1:27 – 2:4 là phần sứ đồ Phao-lô đưa ra những lời kêu gọi thiết thực cho Hội Thánh:

(1) Kêu gọi ăn ở xứng đáng với niềm tin (1:27-30).

(2) Kêu gọi sống khiêm nhường và hài hòa với mọi người (2:1-4).

Chữ Vậy ở đầu Chương 2 nối tiếp với ý của 1:27, do đó, những chữ nếu trong câu 1 không mang nghĩa “giả sử” nhưng đây là những điều có thật. Cấu trúc văn phạm trong nguyên ngữ cũng được hiểu như vậy. Cho nên câu 1 có thể dịch như sau:

Trong Đấng Christ thật sự có điều yên ủi, lòng yêu thương, thật sự có điều cứu giúp, thật sự có sự thông công nơi Thánh Linh, thật sự có lòng yêu mến và lòng thương xót!

Như vậy, dựa vào điều yên ủi, lòng yêu thương, sự thông công cùng với lòng yêu mến và thương xót mà Phao-lô kêu gọi độc giả sống hòa hợp và khiêm nhường.

Trong Đấng Christ có điều yên ủi nào nghĩa là vì tin nhận Chúa, vì ở trong Chúa, các tín hữu tại Phi-líp có lý do để khích lệ người khác.

Lòng yêu thương có điều cứu giúp nào. Chữ cứu giúp mang ý nghĩa “an ủi” (BHĐ). Yêu thương có điều cứu giúp nào hàm ý vì yêu thương nhau, các tín hữu tại Phi-líp có thể an ủi nhau.

Thông công (koinonia) là một trong những giáo lý quan trọng của Phúc Âm mang ý nghĩa tương quan, liên hệ, kết hợp làm một. Người tin Chúa phải hiệp ý với nhau vì chúng ta có chung một mối thông công trong Thánh Linh, như các chi thể trong một thân thể.

Lòng yêu mến là từ Phao-lô dùng trong 1:8 (tríu mến). Đây là tình yêu sâu đậm, phát xuất từ đáy lòng.

Thương xót nói đến sự thông cảm, thể hiện ra vì có tình yêu sâu đậm bên trong.

Vì ở trong Chúa, có tình yêu thương, có mối thông công, có lòng tríu mến và cảm thông mà Phao-lô đưa ra lời khuyên:

Anh em hãy hiệp ý với nhau, đồng tình yêu thương, đồng tâm, đồng tư tưởng mà làm cho tôi vui mừng trọn vẹn (c. 2)

Bốn điều trong lời khuyên nầy là:

(1) Hiệp ý.

(2) Đồng tình yêu thương.

(3) Đồng tâm.

(4) Đồng tư tưởng.

Phao-lô dùng nhiều từ khác nhau nhưng ý chính của ông là vấn đề hiệp một. Ông muốn nói đến hiệp nhất trên mọi phương diện: suy nghĩ cùng một điều, yêu thương nhau với cùng một tình yêu, có cùng một tinh thần (chữ ý và chữ tư tưởng là cùng một chữ trong nguyên văn).

Những chữ, Làm cho tôi vui mừng trọn vẹn được đặt ở đầu câu trong nguyên văn cho thấy tầm quan trọng của lời khuyên nầy. Ý của Phao-lô là, Điều đem lại niềm vui cho tôi là sự hiệp một của anh chị em!

Khai triển ý hiệp một, Phao-lô nói thêm:

Chớ làm sự chi vì lòng tranh cạnh hoặc vì hư vinh, nhưng hãy khiêm nhường, coi người khác như tôn trọng hơn mình (c. 3)

Trên phương diện tiêu cực: không làm điều gì vì tranh cạnh hay hư vinh. Tích cực: khiêm nhường, coi người khác tôn trọng hơn mình.

Tranh cạnh mang ý nghĩa tham vọng ích kỷ, tinh thần bè phái (1:17) đưa đến việc chia rẽ, thiếu hiệp một. Nguyên nhân sâu xa của tinh thần nầy là hư vinh, tìm kiếm vinh quang giả tạo hay những điều không giá trị để có tiếng cho mình (hư danh).

Ngược lại, Phao-lô bảo các tín hữu phải khiêm nhường. Khiêm nhường mang ý nghĩa tùy thuộc vào Chúa, không coi mình là quan trọng (Công vụ 20:19). Đó là thái độ coi người khác tôn trọng hơn mình, tôn trọng người khác.

Tích cực hơn nữa, Phao-lô khuyên:

Mỗi một người trong anh em chớ chăm về lợi riêng mình, nhưng phải chăm về lợi kẻ khác nữa (c. 4)

Bản tính thông thường của con người là đeo đuổi chăm lo cho bản thân và không để ý đến nhu cầu hay phúc lợi của người khác. Chữ quan trọng ở đây là chăm, nghĩa là nhắm vào, coi đó là mục đích. Điều người tin Chúa cần chăm vào không phải là phúc lợi cho riêng mình nhưng cho người khác:

Mỗi người trong anh em đừng chỉ quan tâm đến lợi ích riêng của mình, nhưng phải quan tâm đến lợi ích của người khác nữa (c. 4, BHĐ)

Đây nói đến cách đối xử với nhau từ trong gia đình đến cộng đồng. Nếu ai cũng biết quan tâm, nghĩ đến phúc lợi của người khác, xã hội nầy sẽ tốt đẹp biết bao!

Bài 5

GƯƠNG CHÚA GIÊ-XU (2:5-11)

 

5 Hãy có đồng một tâm tình như Đấng Christ đã có, 6 Ngài vốn có hình Đức Chúa Trời, song chẳng coi sự bình đẳng mình với Đức Chúa Trời là sự nên nắm giữ7 Chính Ngài đã tự bỏ mình đi, lấy hình tôi tớ và trở nên giống như loài người8 Ngài đã hiện ra như một người, tự hạ mình xuống, vâng phục cho đến chết, thậm chí chết trên cây thập tự. 9 Cũng vì đó nên Đức Chúa Trời đã đem Ngài lên rất cao và ban cho Ngài danh trên hết mọi danh, 10 hầu cho nghe đến danh Đức Chúa Giê-xu, mọi đầu gối trên trời, dưới đất, bên dưới đất, thảy đều quì xuống 11 và mọi lưỡi thảy đều xưng Giê-xu Christ là Chúa, mà tôn vinh Đức Chúa Trời, là Đức Chúa Cha. 

 

  1. Thế nào là “có đồng một tâm tình” (c. 5)?
  2. Chúa Giê-xu có những điều gì và Ngài đã từ bỏ những gì?
  3. Thế nào là “tự bỏ mình đi” (c. 7a)?
  4. “Hình tôi tớ” (c. 7b) là hình gì?
  5. Chữ “thậm chí” (c. 8c) mang ý nghĩa gì?
  6. “Danh trên hết mọi danh” (c. 9b) nghĩa là thế nào?
  7. “Đầu gối” và lưỡi” (c. 10-11) chỉ về gì?
  8. Gương Chúa Giê-xu chúng ta phải học theo là gì?

 

Để giúp độc giả thấy rõ ý nghĩa của khiêm nhường và biết quan tâm đến phúc lợi người khác, Phao-lô dùng gương của chính Chúa Giê-xu. Phi-líp 2:6-11 có thể là lời của một bài thánh ca trong Hội Thánh thời đó mà Phao-lô trích dẫn để hỗ trợ điều ông muốn nói.

Chữ tâm tình trong câu 5 cũng là chữ ý và tư tưởng (c. 2) Phao-lô vừa nói. Do đó, hiệp cùng một ý, có đồng một tư tưởng nghĩa là có ý, có tư tưởng hay tinh thần và tâm tình của Chúa Giê-xu. Tâm tình và ý tưởng đó là:

  1. Không nắm giữ

Chúa Giê-xu chính là Đức Chúa Trời: Ngài vốn có hình Đức Chúa Trời (c. 6a). Hình (morphe) không mang ý nghĩa hình dạng hay hình thể nhưng nói đến “thể hiện bên ngoài của yếu tính bên trong.” Chúa Giê-xu có hình Đức Chúa Trời nghĩa là Chúa Giê-xu mang bản chất của Đức Chúa Trời, Ngài chính là Đức Chúa Trời, như câu tiếp theo xác nhận: Ngài bình đẳng với Đức Chúa Trời.

Nắm giữ mang ý nghĩa “ôm chặt một điều quý báu, không chịu bỏ ra.” Chúa Giê-xu có mọi uy quyền của Đức Chúa Trời dầu vậy, Ngài không khư khư giữ lấy nhưng sẵn sàng từ bỏ.

  1. Tự bỏ mình

Từ nầy trong nguyên văn nghĩa là “tự đổ mình ra, làm cho mình thành trống không.” Tự bỏ mình đi không có nghĩa Chúa không còn là Đức Chúa Trời nhưng Ngài bỏ sang một bên mọi vinh quang và đặc quyền của Ngài là Đức Chúa Trời và đến trần gian trong thân phận một con người.

 

  1. Lấy hình tôi tớ

Lấy hình tôi tớ đối chiếu với có hình Đức Chúa Trời (c. 6a): (morphe theou/morphe doulou). Hình tôi tớ, giống như loài ngườihiện ra như một người đều nói về sự nhập thể (incarnation), nói đến nhân tính của Chúa Giê-xu. Ngài hoàn toàn là người khi giáng sinh ở thế hạ.

  1. 4. Hạ mình

Hạ mình mang ý nghĩa khiêm nhường (c. 3) và thể hiện của hạ mình là vâng phục (c. 8b). Sự vâng phục của Chúa Giê-xu đối chiếu với sự không vâng phục của A-đam (Rô-ma 5:19). Chúa Giê-xu vâng phục tuyệt đối vì Chúa vâng phục cho đến chết (c. 8c). Chẳng những vậy, đây là cái chết của một tử tội: Thậm chí chết trên cây thập tự. Chịu chết trên thập hình đối với người La-mã là một sự sỉ nhục (Cicero) còn với người Do-thái, đó là sự rủa sả (Ga-la-ti 3:13b; Phục 21:23).

Cái chết của Chúa Giê-xu trên thập giá vì vậy mang tính cách thay thế, Chúa gánh tội của chúng ta và chịu rủa sả thay cho chúng ta (Ga-la-ti 3:13a).

Đó là những bước đi xuống hay hạ mình của Chúa Giê-xu: từ tuyệt đỉnh là Đức Chúa Trời, xuống ngang hàng với con người, rồi trở nên một tử tội, chết thay cho con người tội lỗi.

Đây là bài thánh ca, bắt đầu với lời ca ngợi Chúa về sự hy sinh chuộc tội của Ngài và kết thúc với việc tôn cao Chúa:

Cũng vì đó nên Đức Chúa Trời đã đem Ngài lên rất cao và ban cho Ngài danh trên hết mọi danh, hầu cho nghe đến danh Đức Chúa Giê-xu, mọi đầu gối trên trời, dưới đất, bên dưới đất, thảy đều quì xuống và mọi lưỡi thảy đều xưng Giê-xu Christ là Chúa, mà tôn vinh Đức Chúa Trời, là Đức Chúa Cha (c. 9-11)

Cũng vì đó nghĩa là nhờ sự vâng lời tuyệt đối cho đến chết của Chúa Giê-xu mà Đức Chúa Trời đã:

(1) Đem Ngài lên rất cao bao gồm ý nghĩa phục sinh và thăng thiên.

(2) Ban cho Ngài danh trên hết mọi danhĐây là điều được ban cho, không phải nhờ đeo đuổi hay tìm kiếm. Danh trên hết mọi danh nghĩa là tột bực, không có ai cao hơn. Danh ấy là Chúa: Mọi lưỡi thảy đều xưng Giê-xu Christ là Chúa (c. 11a). Chữ Đức Chúa (c. 10a) không có trong nguyên văn: Hầu cho nghe đến danh Giê-xu. Danh Giê-xu nhấn mạnh đến nhân tánh của Chúa: con người Giê-xu. Chúa Giê-xu trong thân xác con người, đã khiêm nhường, hạ mình, vâng phục, chịu chết. Đó là con người Giê-xu mà chúng ta phải bắt chước, phải có đồng một tâm tình.

Những chữ đầu gối và lưỡi (c. 10-11) chỉ về tôn thờ và xưng tụng. Trên trời, dưới đất, bên dưới đất nói đến mọi thế lực đều thần phục (quỳ xuống) và xưng nhận Giê-xu Christ là Chúa (Đấng quyền năng, cao cả nhất). Đức Chúa Giê-xu là Chúa nhưng vinh quang sau cùng thuộc về Đức Chúa Cha, khởi nguyên của muôn vật, mọi loài.

Phi-líp 2:1-11 là phần dạy về yêu thương, hiệp một và khiêm nhường mà Chúa Giê-xu là gương cho chúng ta noi theo. Chúa Giê-xu đã từ bỏ chính mình, hy sinh tất cả để đem ơn cứu rỗi đến cho nhân loại. Noi gương Chúa Giê-xu, chúng ta cần khiêm nhường, hy sinh và vâng lời để đem phúc lợi đến cho người khác. Phần thưởng sau cùng cho chúng ta sẽ vô cùng lớn lao dù đó không phải là điều chúng ta đeo đuổi, tìm kiếm.

Bài 6

CHIẾU SÁNG NHƯ ĐUỐC TRONG THẾ GIAN (2:12-18)

 

12 Ấy vậy, hỡi những kẻ rất yêu dấu của tôi, như anh em đã vâng lời luôn luôn, chẳng những khi tôi có mặt mà thôi, lại bây giờ là lúc tôi vắng mặt, hãy càng hơn nữa, mà lấy lòng sợ sệt run rẩy làm nên sự cứu chuộc mình. 13 Vì ấy chính Đức Chúa Trời cảm động lòng anh em vừa muốn vừa làm theo ý tốt Ngài.

14 Phàm làm việc gì chớ nên lằm bằm và lưỡng lự, 15 hầu cho anh em ở giữa dòng dõi hung ác ngang nghịch, được nên con cái của Đức Chúa Trời, không vết, không tì, không chỗ trách được, lại giữa dòng dõi đó, giữ lấy đạo sự sống, chiếu sáng như đuốc trong thế gian, 16 cho đến nỗi tới ngày của Đấng Christ, tôi có thể khoe mình rằng chẳng đã chạy vô ích và khó nhọc luống công. 17 Ví dầu huyết tôi phải dùng để tưới trên của tế lễ và của dâng đức tin anh em, tôi cũng vui lòng, lại đồng vui với anh em hết thảy. 18 Anh em cũng vậy, hãy vui lòng về điều đó và hãy cùng vui với tôi.

 

  1. Thế nào là “Lấy lòng sợ sệt run rẩy làm nên sự cứu chuộc mình” (c. 12b)?
  2. “Vừa muốn vừa làm theo ý tốt Ngài” (c. 13b) nghĩa là thế nào?
  3. Thế nào là “lằm bằm” và “lưỡng lự” (c. 14)?
  4. Những chữ “không vít, không tì, không chỗ trách được” (c. 15b) hàm ý gì?
  5. “Chiếu sáng như đuốc trong thế gian (c. 15c) hàm ý gì?
  6. “Huyết tưới trên của tế lễ” (c. 17a) nói đến điều gì?
  7. Chúng ta thấy tâm tình gì của Phao-lô trong câu 17-18?

 

Sau lời khuyên hiệp một (c. 2-4) với gương khiêm nhường của Chúa Giê-xu (c. 5-11), Phao-lô nói tiếp:

Ấy vậy, hỡi những kẻ rất yêu dấu của tôi, như anh em đã vâng lời luôn luôn, chẳng những khi tôi có mặt mà thôi, lại bây giờ là lúc tôi vắng mặt, hãy càng hơn nữa, mà lấy lòng sợ sệt run rẩy làm nên sự cứu chuộc mình (c. 12)

Phao-lô muốn các tín hữu làm theo lời khuyên của ông cách tích cực, nhất là khi ông không có mặt. Trong sự vâng lời đó, ông bảo họ, Lấy lòng sợ sệt run rẩy làm nên sự cứu chuộc mình (c. 12b). Theo văn mạch, câu nầy KHÔNG hàm ý nhờ việc làm để được cứu rỗi vì chữ cứu chuộc cũng mang ý nghĩa “sống còn” (Công vụ 27:34). Chữ mình nói đến độc giả là những anh chị em trong cộng đồng tín hữu ở Phi-líp. Sự cứu chuộc mình nói đến tính cách lành mạnh của Hội Thánh Phi-líp. Động từ làm nên (katergazesthe) dịch đúng hơn là “làm, nhắm vào để làm” (work at).

Lấy lòng sợ sệt run rẩy làm nên sự cứu chuộc mình vì vậy nghĩa là khuyên các tín hữu phải coi đây là việc nghiêm trọng, nhờ vào sức của Chúa, cố gắng giữ cho Hội Thánh được an toàn, hiệp một.

Phao-lô giải thích thêm:

Vì ấy chính Đức Chúa Trời cảm động lòng anh em vừa muốn vừa làm theo ý tốt Ngài (c. 13)

Câu nầy cho thấy các tín hữu tại Phi-líp không thể tự làm những điều nầy nhưng Đức Chúa Trời là Đấng hành động trong họ:

Đức Chúa Trời là Đấng đang hành động trong anh em(c. 13a, BHĐ)

Chúa hành động hai điều: muốn và làm. Chúa chẳng những giúp sức để chúng ta có thể làm theo ý muốn Ngài, Chúa cũng ban cho chúng ta ý chí để sẵn sàng và vui lòng làm theo ý Chúa.

Trong những câu tiếp theo, Phao-lô cho thấy đời sống của con cái Chúa trong Hội Thánh có ảnh hưởng trực tiếp đến người ngoài Hội Thánh:

Phàm làm việc gì chớ nên lằm bằm và lưỡng lự, hầu cho anh em ở giữa dòng dõi hung ác ngang nghịch, được nên con cái của Đức Chúa Trời, không vít, không tì, không chỗ trách được, lại giữa dòng dõi đó, giữ lấy đạo sự sống, chiếu sáng như đuốc trong thế gian (c. 14-15)

Lằm bằm và lưỡng lự có lẽ là điều đang xảy ra trong Hội Thánh Phi-líp trong mối quan hệ giữa người với người. Lằm bằm là than phiền với những từ không đẹp như con dân của Chúa ngày xưa (Dân số ký 11:1). Lưỡng lự mang ý nghĩa tranh cãi, kiện tụng, bất hòa (“cãi cọ”).

Cộng đồng con dân Chúa phải là một cộng đồng không vếtkhông tì, không chỗ trách được (c. 15b).

Không vết nghĩa là không ai có thể dựa vào bất cứ điều gì trong đời sống để lên án hay buộc tội.

Không tì hàm ý trong sạch, tinh tuyền, không pha trộn.

Không chỗ trách đượmang ý nghĩa toàn hảo.

Đó là đặc tính của con cái Đức Chúa Trời (c. 15b) đối chiếu với trần gian là dòng dõi hung ác ngang nghịch (c. 15c) – “một thế hệ xảo quyệt và sa đọa” (BHĐ).

Chữ quan trọng trong câu nầy là ở giữa mang ý nghĩa “sống giữa trần gian.” Con cái Đức Chúa Trời là những người sống giữa trần gian nhưng không thuộc về trần gian và phải khác với trần gian tội lỗi. Đây là hình ảnh chiếu sáng như đuốc trong thế gian (c. 15d). Chữ đuốc nói đến bất cứ vật gì tỏa ra ánh sáng (đèn, hải đăng…). Chữ chiếu sáng nhấn mạnh ý bày tỏ ra cho người khác thấy. Con cái Đức Chúa Trời được gọi là con của sự sáng (I Tê. 5:5). Cho nên con cái Đức Chúa Trời sống giữa trần gian phải thể hiện ánh sáng của Chúa qua đời sống tốt đẹp của mình (Ma-thi-ơ 5:16).

Phao-lô coi việc các tín hữu giữ lấy đạo sự sống, chiếu sáng như đuốc trong thế gian (c. 15d) là niềm hãnh diện cho mình, vì ông nói:

Cho đến nỗi tới ngày của Đấng Christ, tôi có thể khoe mình rằng chẳng đã chạy vô ích và khó nhọc luống công (c. 16)

Ngày của Đấng Christ nói đến lúc Chúa trở lại. Phao-lô đã gắng công ra sức dạy dỗ các tín hữu tại Phi-líp sống làm vinh hiển Danh Chúa và ông hy vọng họ sẽ tiếp tục sống như vậy cho đến khi Chúa trở lại để ông không thấy công khó của mình là vô ích.

Tiếp nối với ý về chạy và khó nhọc (c. 16) Phao-lô nói thêm:

Ví dầu huyết tôi phải dùng để tưới trên của tế lễ và của dâng đức tin anh em, tôi cũng vui lòng, lại đồng vui với anh em hết thảy (c. 17)

Câu nầy hàm ý rằng chẳng những chạy và khó nhọc nhưng cả đến hy sinh tính mạng, Phao-lô cũng sẵn sàng. Huyết tôi phải dùng để tưới trên của tế lễ là hình thức dâng sinh tế với rượu hay máu rưới trên con sinh (lễ quán, II Ti. 4:6). Phao-lô cũng nhắc đến của dâng đức tin anh em, nói về những giúp đỡ về vật chất Hội Thánh Phi-líp dành cho Phao-lô. Ông muốn hòa mình với họ trong việc dâng của lễ đó. Đây là một niềm vui liên đới:

Anh em cũng vậy, hãy vui lòng về điều đó và hãy cùng vui với tôi (c. 18)

Lòng hy sinh và niềm vui liên đới là điều Phao-lô muốn nói đến trong hai câu 17-18:

Cho dù tôi có phải bị đổ ra như làm lễ quán rưới trên sinh tế và lễ vật của đức tin anh em thì tôi cũng thỏa lòng và cùng vui với tất cả anh em. Anh em cũng vậy, hãy vui mừng và cùng vui với tôi (c. 17-18, BHĐ)

Bài 7

TI-MÔ-THÊ VÀ ÉP-BA-PHÔ-ĐÍCH (2:19-30)

19 Vả, tôi mong rằng nhờ ơn Đức Chúa Giê-xu, kíp sai Ti-mô-thê đến cùng anh em, để tới phiên tôi, tôi nghe tin anh em, mà được yên lòng. 20 Thật vậy, tôi không có ai như ngườiđồng tình với tôi để thật lòng lo về việc anh em: 21 ai nấy đều tìm lợi riêng của mình, chớ không tìm của Đức Chúa Jêsus Christ. 22 Nhưng anh em đã biết sự trung tín từng trải của người và biết người là trung thành với tôi về việc Tin lành, như con ở với cha vậy. 23 Nên tôi mong sai người đến nơi anh em liền, vừa khi tôi sẽ rõ sự tình tôi ra thể nào.24 Tôi lại có lòng trông cậy nầy trong Chúa, là chính mình tôi không bao lâu sẽ đến.

25 Trong khi chờ đợi, tôi tưởng cần phải sai Ép-ba-phô-đích, anh em tôi, bạn cùng làm việc và cùng chiến trận với tôi, đến cùng anh em, người cũng là ủy viên của anh em ở kề tôi, đặng cung cấp mọi sự cần dùng cho tôi vậy. 26 Vì người rất ước ao thấy anh em hết thảy, và đã lo về anh em nghe mình bị đau ốm. 27 Vả, người mắc bịnh gần chết nhưng Đức Chúa Trời đã thương xót người và chẳng những người mà thôi, cả đến tôi nữa, đặng tôi khỏi buồn rầu càng thêm buồn rầu. 28 Vậy, tôi đã sai người đi rất kíp, hầu cho anh em lại thấy người thì mừng rỡ, và tôi cũng bớt buồn rầu. 29 Thế thì, hãy lấy sự vui mừng trọn vẹn mà tiếp rước người trong Chúa, và tôn kính những người như vậy30 Bởi ấy là vì công việc của Đấng Christ mà người đã gần chết, liều sự sống mình để bù lại các việc mà chính anh em không thể giúp tôi.

 

  1. Xin cho biết những đức tính của Ti-mô-thê được mô tả trong câu 19-22.
  2. Dựa vào câu 25-30 xin cho biết những diễn tiến về hoàn cảnh của Ép-ba-phô-đích.
  3. Xin cho biết những điều chúng ta học được từ Ti-mô-thê, Ép-ba-phô-đích và Phao-lô qua phân đoạn Kinh Thánh nầy.

 

Giữa những lời khuyên trong Chương 2 và 3 là phần nói về Ti-mô-thê và Ép-ba-phô-đích. Sở dĩ có phần nhắn tin cá nhân nầy có lẽ vì Phao-lô vừa nói về vui mừng trong câu 18 và ông muốn tín hữu tại Phi-líp yên lòng (c. 19) với tin tức của Ti-mô-thê và Ép-ba-phô-đích.

Theo câu 19, Phao-lô định gởi Ti-mô-thê về thăm Hội Thánh Phi-líp để ông biết rõ tin tức của họ. Phao-lô nói về Ti-mô-thê như sau:

Thật vậy, tôi không có ai như người đồng tình với tôi để thật lòng lo về việc anh em (c. 20)

Ti-mô-thê là người mà Phao-lô nói là:

(1) Tôi không có ai như người đồng tình với tôi.

(2) Thật lòng lo về việc anh em.

Đồng tình trong nghĩa đen là “có cùng một linh hồn” (“đồng tâm tình,” BHĐ). Thật lòng mang ý nghĩa chân thật, hết lòng hết sức, ngược lại với những người tìm lợi riêng của mình (c. 21a). Bản Hiệu Đính dịch câu 22 như sau:

Anh em đã biết phẩm chất của Ti-mô-thê, anh ấy đã cùng tôi phục vụ Tin Lành như con với cha vậy (c. 22, BHĐ)

Tâm tình của Ti-mô-thê là tâm tình mỗi chúng ta cần có.

Phao-lô nhắn tin cho Hội Thánh Phi-líp biết là ông sẽ sai Ti-mô-thê đến để được biết tin tức của họ đồng thời ông cũng hy vọng là sẽ được ra khỏi tù và đến gặp họ.

Người thứ hai Phao-lô nhắc đến là Ép-ba-phô-đích. Đây là một tín hữu Hội Thánh Phi-líp đã gởi đến để thăm nuôi Phao-lô (ủy viên của anh em ở kề tôi, đặng cung cấp mọi sự cần dùng cho tôic. 25b). Đang khi ở với Phao-lô thì Ép-ba-phô-đích bị đau nặng (người mắc bịnh gần chết, c. 27a). Ép-ba-phô-đích sợ Hội Thánh quá lo cho mình trong căn bệnh ngặt nghèo nầy nên ông muốn về lại Phi-líp sớm để Hội Thánh không còn phải lo (Người rất ước ao thấy anh em hết thảy và đã lo về anh em nghe mình bị đau ốm, c. 26). Do đó, Phao-lô gởi Ép-ba-phô-đích về lại Phi-líp để cả hai bên, Hội Thánh Phi-líp và Ép-ba-phô-đích, cùng vui và không còn phải lo lắng nữa (c. 28). Phao-lô kêu gọi Hội Thánh Phi-líp vui mừng tiếp đón và bày tỏ lòng kính trọng Ép-ba-phô-đích, là người “đã vì công việc của Đấng Christ mà suýt chết, liều mạng sống mình để chu toàn những việc mà anh em không thể giúp tôi được” (c. 30, BHĐ).

Trước đó, Phao-lô gọi Ép-ba-phô-đích là bạn cùng làm việc và cùng chiến trận với tôi (“đồng lao” và “chiến hữu,” BHĐ). Cùng với Ti-mô-thê, Ép-ba-phô-đích cũng là gương sáng cho chúng ta noi theo: người làm việc âm thầm, giúp đỡ người hầu việc Chúa, được gọi là bạn đồng lao, chiến hữu, với lòng lo lắng, quan tâm đến người khác.

Bài 8

CẮT BÌ THẬT VÀ CẮT BÌ GIẢ (3:1-3)

1 Hỡi anh em, sau hết, anh em hãy vui mừng trong Chúa! Tôi chẳng hề sợ phiền mà lại viết những điều nầy cho anh em nữa, vì ấy là có ích cho anh em.

2 Hãy coi chừng loài chó. Hãy coi chừng kẻ làm công gian ác. Hãy coi chừng phép cắt bì giả. 3 Vì, ấy chính chúng ta là kẻ chịu phép cắt bì thật, là kẻ cậy Thánh Linh Đức Chúa Trời mà hầu việc Đức Chúa Trời, khoe mình trong Đấng Christ và không để lòng tin cậy trong xác thịt bao giờ.

 

  1. “Chữ “sau hết” (c. 1a) hàm ý gì? Tại sai Phao-lô nói “sau hết” ở đây?
  2. Thế nào là “vui mừng trong Chúa” (c. 1a)?
  3. Tại sao “viết những điều nầy cho anh em nữa” lại “có ích cho anh em” (c. 1b)?
  4. Những đối tượng Phao-lô bảo phải coi chừng là gì (c. 2)? Tại sao?
  5. “Phép cắt bì giả” và “phép cắt bì thật” (c. 3) khác nhau thế nào?
  6. Thế nào là “để lòng tin cậy trong xác thịt” (c. 3b)?

 

Chữ sau hết (c. 1a) có thể là dấu hiệu cho thấy Phao-lô muốn kết thúc lá thư ở đây, tuy nhiên ông đã quay sang một đề tài khác cho đến 4:4 mới trở lại đề tài vui mừng. Một số các nhà giải nghĩa Kinh Thánh thì cho rằng sau hết chỉ có nghĩa “sau đây” hay “để tiếp tục” chứ không mang ý nghĩa kết thúc.

Phao-lô kêu gọi các tín hữu:

Anh em hãy vui mừng trong Chúa (c. 1a)

Trong Chúa mang ý nghĩa “vì chúng ta thuộc về Chúa” (ở trong Chúa chúng ta có sự vui mừng) hay “vì những gì Chúa đã làm.” Cả câu Hãy vui mừng trong Chúa cũng tương đương như chữ Ha-lê-lu-gia (“Hãy ngợi khen Chúa”) trong Cựu Ước.

Câu: Tôi chẳng hề sợ phiền mà lại viết những điều nầy cho anh em nữa (c. 1b) là nói đến những điều Phao-lô viết tiếp theo. Sợ phiền, trong nguyên văn mang ý nghĩa bảo đảm an toàn (safeguard):

Tôi không ngại mà nhắc lại những điều nầy với anh em, vì đó là sự an toàn cho anh em (c. 1b, BHĐ)

Những điều Phao-lô bảo phải coi chừng là: loài chókẻ làm công gian ác và phép cắt bì giả. Phao-lô ám chỉ ai qua những danh xưng nầy? Trong câu tiếp theo, Phao-lô cho thấy ông và các tín hữu Phi-líp là những người:

(1) Chịu phép cắt bì thật

(2) Cậy Thánh Linh Đức Chúa Trời mà hầu việc Đức Chúa Trời.

(3) Khoe mình trong Đấng Christ.

(4) Không để lòng tin cậy trong xác thịt bao giờ.

Đây là những điều ngược lại với nhóm người Phao-lô mô tả trong câu 2. Trong suốt cuộc đời chức vụ, kẻ thù mà Phao-lô phải luôn luôn chống lại là những người Do-thái tin Chúa Giê-xu nhưng chủ trương phải vâng giữ luật pháp. Họ là những người đòi Do-thái hóa các tín hữu Dân Ngoại, buộc phải chịu phép cắt bì. Phao-lô chống lại điều nầy rõ ràng trong thư gởi cho người Ga-la-ti. Những thành phần nầy có lẽ đang len lỏi trong Hội Thánh Phi-líp nên Phao-lô muốn các tín hữu phải đề cao cảnh giác về những người nầy.

Ông gọi họ là loài chó là từ người Do-thái thường dùng để gọi Dân Ngoại và người họ khinh bỉ. Phao-lô cho thấy, người đã tin Chúa Giê-xu mà còn cố gắng tuân giữ luật pháp cũng đáng bị khinh bỉ như vậy.

Kẻ làm công gian ác nhấn mạnh đến yếu tố LÀM, nói đến người cố gắng dùng sức riêng, vào việc làm (tuân giữ luật pháp) để được cứu rỗi.

Phép cắt bì giảkatatomê, là người tự cắt da thịt. Từ đúng nói về phép cắt bì là peritomê. Phao-lô gọi những người chủ trương phải chịu phép cắt bì mới được cứu là những người cắt da thịt, đó là cắt bì giả, tương tự như điều Phao-lô nói trong Ga-la-ti 5:12.

Ngược lại với những người chủ trương như trên, Phao-lô và tín hữu tại Phi-líp là những người:

Chịu phép cắt bì thật (c. 3a) là điều ông nói trong Rô-ma 2:25-29.

Cậy Thánh Linh Đức Chúa Trời mà hầu việc Đức Chúa Trời (c. 3b). Chữ hầu việc trong nguyên văn là “thờ phượng.” Người thờ phượng thật là người thờ phượng bởi Thánh Linh (Giăng 4:24).

Khoe mình trong Đấng Christ (c. 3c). Ý nghĩa của chữ khoe mình phát xuất từ Giê-rê-mi 9:23-24 và I Cô. 1:31. Người tin Chúa thật không thể cậy mình hay khoe mình về những gì mình có nhưng niềm tự hào của chúng ta và những gì chúng ta có đều đến từ Chúa.

Không để lòng tin cậy trong xác thịt bao giờ (c. 3d). Để lòng tin cậy nghĩa là dựa vào, đặt căn bản trên đó. Xác thịt nói đến tất cả cố gắng của con người để được cứu rỗi. Trong trường hợp nầy, nhấn mạnh đến phép cắt bì. Theo Calvin, dựa vào bất cứ điều gì ngoài Đấng Christ, là để lòng tin cậy trong xác thịt và như vậy là đánh đổ nền tảng của Phúc Âm và đem nguy hại cho linh hồn (Martin, 148).

Bài 9

NHẬN BIẾT CHÚA LÀ QUÝ HƠN HẾT (3:4-11)

4 Ấy chẳng phải tôi không có thể cậy mình trong xác thịt đâu. Ví bằng kẻ khác tưởng rằng có thể cậy mình trong xác thịt, thì tôi lại có thể bội phần nữa5 Tôi chịu phép cắt bì ngày thứ tám, về dòng Y-sơ-ra-ên, chi phái Bên-gia-min, người Hê-bơ-rơ, con của người Hê-bơ-rơ. Về luật pháp, thì thuộc phe Pha-ri-si6 Về lòng sốt sắng, thì là kẻ bắt bớ Hội thánhcòn như về sự công bình của luật pháp, thì không chỗ trách được.

7 Nhưng vì cớ Đấng Christ, tôi đã coi sự lời cho tôi như là sự lỗ vậy. 8 Tôi cũng coi hết thảy mọi sự như là sự lỗ, vì sự nhận biết Đức Chúa Giê-xu Christ là quí hơn hếtNgài là Chúa tôi và tôi vì Ngài mà liều bỏ mọi điều lợi đó. Thật, tôi xem những điều đó như rơm rác, hầu cho được Đấng Christ 9 và được ở trong Ngài, được sự công bình, không phải công bình của tôi bởi luật pháp mà đến, bèn là bởi tin đến Đấng Christ mà được, tức là công bình đến bởi Đức Chúa Trời và đã lập lên trên đức tin10 Cho đến nỗi tôi được biết Ngài và quyền phép sự sống lại của Ngài và sự thông công thương khó của Ngài, làm cho tôi nên giống như Ngài trong sự chết Ngài, 11 mong cho tôi được đến sự sống lại từ trong kẻ chết.

 

  1. Tại sao Phao-lô có thể “cậy mình trong xác thịt” bội phần (c. 4b)?
  2. Xin kể ra những điều Phao-lô có thể cậy mình trong xác thịt (c. 5-6) và ý nghĩa của mỗi điều.
  3. Phao-lô coi tất cả “như là sự lỗ” để đổi lấy điều gì (c. 8a)? Tại sao?
  4. Phao-lô “liều bỏ mọi điều lợi… xem như rơm rác” (c. 8b) để được những gì (c. 8c-11)?

 

Phao-lô kết thúc phần trước với câu: Không để lòng tin cậy trong xác thịt bao giờ (c. 3b) và rồi ông nói tiếp:

Ấy chẳng phải tôi không có thể cậy mình trong xác thịt đâu. Ví bằng kẻ khác tưởng rằng có thể cậy mình trong xác thịt, thì tôi lại có thể bội phần nữa (c. 4)

Những người chống đối Phúc Âm là những người để lòng tin cậy trong xác thịt, cho rằng phải giữ luật pháp Môi-se, phải chịu phép cắt bì mới được cứu. Nếu nhờ những điều đó để được cứu thì Phao-lô có thể vượt trổi hẳn: Tôi lại có thể bội phần nữa (c. 4b). Phao-lô có thể vượt trổi hẳn như thế nào? Ông viết:

Tôi chịu phép cắt bì ngày thứ tám, về dòng Y-sơ-ra-ên, chi phái Bên-gia-min, người Hê-bơ-rơ, con của người Hê-bơ-rơ. Về luật pháp, thì thuộc phe Pha-ri-si. Về lòng sốt sắng, thì là kẻ bắt bớ Hội thánh, còn như về sự công bình của luật pháp, thì không chỗ trách được (c. 5-6)

Chịu phép cắt bì ngày thứ tám hàm ý tuân thủ đúng luật Môi-se (Lê-vi ký 12:3) về lễ cắt bì.

Về dòng Y-sơ-ra-ên nhấn mạnh đến dân tộc được chọn, Phao-lô là người từ dòng dõi đó (Rô-ma 11:1).

Chi phái Bên-gia-min là chi phái nhỏ nhất trong Y-sơ-ra-ên nhưng vị vua đầu tiên của Y-sơ-ra-ên từ chi phái nầy mà ra. Tên Hê-bơ-rơ của Phao-lô (Sau-lơ) cũng là tên của vị vua nầy.

Người Hê-bơ-rơ, con của người Hê-bơ-rơ nhấn mạnh ông là người Do-thái chính gốc, nói tiếng Hê-bơ-rơ, không phải là người Do-thái nói tiếng Hy-lạp (người Hê-lê-nít, Công vụ 6:1).

Đó là những điều liên quan đến huyết thống mà Phao-lô có thể khoe mình hay hãnh diện. Trên những phương diện khác, nói đúng hơn, trong chính việc làm của Phao-lô, không là những điều ông thừa hưởng, gồm có:

Về luật pháp, thì thuộc phe Pha-ri-si. Về luật pháp nói đến việc vâng giữ luật pháp. Phe Pha-ri-si là phe tuân giữ luật pháp nghiêm nhặt nhất mà Phao-lô thuộc về phe đó.

Về lòng sốt sắng, thì là kẻ bắt bớ Hội thánhLòng sốt sắng nói đến sốt sắng về công việc Chúa (Công vụ 22:3b), trước kia Phao-lô bắt bớ Hội Thánh để chứng tỏ lòng sốt sắng đó.

Về sự công bình của luật pháp, thì không chỗ trách đượcSự công bình của luật pháp nghĩa là nếu nhờ giữ luật pháp Môi-se để được kể là công bình, thì Phao-lô đã giữ vẹn luật pháp đó, không ai có thể tìm thấy lỗi lầm nào nơi ông (Công vụ 23:1).

Nếu cậy mình trong xác thịt để được cứu thì Phao-lô vượt trội mọi người, nhưng ông đã không cậy mình như vậy. Phao-lô viết:

Nhưng vì cớ Đấng Christ, tôi đã coi sự lời cho tôi như là sự lỗ vậy (c. 7)

Có hai danh từ trong ngành kế toán là assets và liabilities, tạm dịch là “tài sản” và “trách nhiệm pháp lý.” Đây chỉ về những điều một người sở hữu và những điều có thể gây thiệt hại cho người đó. Đó là những điều Phao-lô gọi là sự lời và sự lỗ. Chúng ta có thể ghi trong sổ sách kế toán của Phao-lô như sau:

 

ASSETS

SỰ LỜI

LIABILITIES

SỰ LỖ

Chịu phép cắt bì ngày thứ tám  
Dòng Y-sơ-ra-ên
Chi phái Bên-gia-min
Người Hê-bơ-rơ, con của người Hê-bơ-rơ
Thuộc phe Pha-ri-si
Lòng sốt sắng bắt bớ Hội thánh
Không chỗ trách được

 

Tất cả những assets (sự lời) ở cột bên trái, Phao-lô đã chuyển sang liabilities (sự lỗ) ở cột bên phải, để đổi lấy sự nhận biết Đức Chúa Giê-xu Christ (c. 8a):

 

ASSETS

SỰ LỜI

LIABILITIES

SỰ LỖ

Sự nhận biết Đức Chúa Giê-xu Christ Chịu phép cắt bì ngày thứ tám
Dòng Y-sơ-ra-ên
Chi phái Bên-gia-min
Người Hê-bơ-rơ, con của người Hê-bơ-rơ
Thuộc phe Pha-ri-si
Lòng sốt sắng bắt bớ Hội thánh
Không chỗ trách được

 

Phao-lô nói trong câu 7: VÌ CỚ ĐẤNG CHRIST, tôi đã coi sự lời cho tôi như là sự lỗ. Ông nói rõ hơn trong câu 8:

Tôi cũng coi hết thảy mọi sự như là sự lỗ, VÌ SỰ NHẬN BIẾT ĐỨC CHÚA GIÊ-XU CHRIST là quí hơn hết (c. 8a)

Nhận biết hay biết là một từ quan trong trong Kinh Thánh, nhấn mạnh đến mối tương quan gần gũi giữa hai người với nhau. Đây là từ yada trong tiếng Hy-bá nói đến mối quan hệ vợ chồng (Sáng 4:1, “ăn ở”), mối quan hệ giữa Chúa với con dân Ngài (A-mốt 3:2), với cá nhân (Giê-rê-mi 1:5) cũng nói lên lòng yêu mến và vâng lời của con người đối với Chúa (Giê-rê-mi 31:34).

Động từ coi trong câu, Tôi cũng coi hết thảy mọi sự như là sự lỗ, nói đến một quyết định dứt khoát và kéo dài mãi, nghĩa là Phao-lô coi đây là phương châm để sống.

Phao-lô nhấn mạnh: Tôi xem những điều đó như rơm rác, hầu cho được Đấng Christ (c. 8b). Chữ rơm rác trong nguyên văn mang ý nghĩa rác rưởi hay phân bón, bẩn thỉu, đáng vứt bỏ.

Ngoài việc đánh đổi mọi lợi lộc để được biết Chúa, Phao-lô nói thêm:

Và được ở trong Ngài, được sự công bình, không phải công bình của tôi bởi luật pháp mà đến, bèn là bởi tin đến Đấng Christ mà được, tức là công bình đến bởi Đức Chúa Trời và đã lập lên trên đức tin (c. 9)

Như vậy, Phao-lô hàm ý rằng biết Chúa là được liên kết với Ngài (ở trong Ngài). Điều nầy cũng có nghĩa là được sự công bình, nghĩa là được kể là công chính. Đây là công chính đến từ đức tin nơi Chúa Giê-xu:

Được vậy không phải nhờ sự công chính của tôi dựa trên luật pháp mà nhờ đức tin nơi Đấng Christ, là sự công chính đến từ Đức Chúa Trời dựa trên đức tin (c. 9, BHĐ)

Phao-lô không thể tự hào về việc vâng giữ luật pháp vì điều đó không giúp ông được xưng công chính. Đức tin nơi Chúa Giê-xu mới đem đến công chính từ Đức Chúa Trời.

Phao-lô viết tiếp:

Cho đến nỗi tôi được biết Ngài và quyền phép sự sống lại của Ngài và sự thông công thương khó của Ngài, làm cho tôi nên giống như Ngài trong sự chết Ngài, mong cho tôi được đến sự sống lại từ trong kẻ chết (c. 10-11)

Phao-lô cho thấy một khía cạnh khác của sự biết Chúa, đó là thông công với Chúa trong sự thương khó, sự chết và sự sống lại (c. 10). Ông bắt đầu với quyền phép của sự sống lại (c. 10a). Đây là sức mạnh phục sinh khi liên kết với Chúa (ở trong Ngài, c. 9a). Sức mạnh phục sinh bắt đầu với sự thương khó và sự chết. Phao-lô cho thấy ông liên kết với Chúa Giê-xu trong tất cả những điều nầy (Ga-la-ti 2:20).

Mong cho tôi được đến sự sống lại từ trong kẻ chết không có nghĩa là không chắc chắn nhưng là trông mong, chờ đợi điều nầy.

Bài 10

CỨ LÀM MỘT ĐIỀU (3:12-16)

12 Ấy không phải tôi đã giựt giải rồi hay là đã đến nơi trọn lành rồi đâu, nhưng tôi đang chạy hầu cho giựt được, vì chính tôi đã được Đức Chúa Giê-xu Christ giựt lấy rồi. 13 Hỡi anh em, về phần tôi, tôi không tưởng rằng đã đạt đến mục đích, 14 nhưng tôi cứ làm một điều: quên lửng sự ở đằng sau, mà bươn theo sự ở đằng trước. Tôi nhắm mục đích mà chạy, để giựt giải về sự kêu gọi trên trời của Đức Chúa Trời trong Đức Chúa Giê-xu Christ. 15 Vậy, hễ những người trọn vẹn trong chúng ta, phải có ý tưởng đó và nếu anh em tưởng đàng khác, Đức Chúa Trời cũng sẽ lấy sự đó soi sáng cho anh em. 16 Duy chúng ta đã đạt đến bậc nào, thì chúng ta phải đồng đi vậy.

 

  1. Hình ảnh Phao-lô mô tả trong câu 12 là hình ảnh gì? Tại sao ông dùng hình ảnh nầy?
  2. “Được Đức Chúa Giê-xu Christ giựt lấy rồi” (c. 12b) nghĩa là thế nào?
  3. “Cứ làm một điều” (c. 14a) nói lên điều gì?
  4. “Sự ở đằng sau” và “sự ở đằng trước” (c. 14) nói đến điều gì?
  5. “Sự kêu gọi trên trời của Đức Chúa Trời”(c. 14b) là gì?
  6. 6. “Những người trọn vẹn” (c. 15a) chỉ về ai?
  7. “Đạt đến bậc nào, thì… phải đồng đi” (c. 16) nghĩa là thế nào?

 

Câu 12 cho thấy cuộc đời theo Chúa là một tiến trình chứ không đứng yên một chỗ. Hình ảnh Phao-lô dùng để mô tả tiến trình đó là một cuộc chạy đua. Những chữ giựt giải, chạy, mục đích cho thấy điều nầy.

Giựt giải mang ý nghĩa nắm trong tay và trọn lành nghĩa là “toàn hảo” (BHĐ). Những điều Phao-lô nói trong phần trước (c. 10-11) là điều đang xảy ra trong cuộc đời ông và để có thể tiếp tục, ông phải chạy (c. 12). Chữ chạy mang ý nghĩa “theo đuổi” (BHĐ). Toàn hảo là điều chưa đạt đến trong đời sống hiện tại, nhưng đó là mục tiêu Phao-lô đeo đuổi. Điều khích lệ là, mục tiêu đó chắc chắn sẽ đạt được vì ông nói: Chính tôi đã được Đức Chúa Giê-xu Christ giựt lấy rồi (c. 12b). Toàn hảo là điều chắc chắn sẽ xảy ra nếu chúng ta tiếp tục đeo đuổi.

Phao-lô cho thấy ông tiếp tục đeo đuổi như thế nào:

Hỡi anh em, về phần tôi, tôi không tưởng rằng đã đạt đến mục đích, nhưng tôi cứ làm một điều: quên lửng sự ở đằng sau, mà bươn theo sự ở đằng trước. Tôi nhắm mục đích mà chạy, để giựt giải về sự kêu gọi trên trời của Đức Chúa Trời trong Đức Chúa Giê-xu Christ (c. 13-14)

Sau khi nhắc lại ý “tôi không nghĩ rằng mình đã đoạt được rồi” (BHĐ), Phao-lô nói:

Tôi cứ làm một điều: quên lửng sự ở đằng sau, mà bươn theo sự ở đằng trước (c. 13b)

Những chữ quan trọng trong câu nầy là: Cứ làm một điều, cho thấy quyết tâm của Phao-lô, đây là phương châm của đời sống ông. Phương châm đó là:

(1) Quên đi những gì ở đằng sau.

(2) Vươn tới những gì ở đằng trước.

(3) Nhắm mục đích mà theo đuổi.

Động từ quên mang ý nghĩa tiếp tục quên, thường xuyên quên, nghĩa là không bao giờ nhắc lại, đừng để cho những gì trong quá khứ làm vướng bận tâm trí, dù là vui hay buồn, thành công hay thất bại, huy hoàng hay tăm tối. Phao-lô có một quá khứ rất huy hoàng (c. 5) cũng như xấu xa (bắt bớ Hội Thánh, c. 6a) nhưng ông quyết tâm quên đi những điều đó.

Bươn theo nghĩa là vươn tới, đây là hình ảnh của một lực sĩ chạy đua, cố vươn lên để đụng đến mức.

Nhắm mục đích mà chạy mang ý nghĩa trước mắt chỉ có một mục đích, chỉ nhìn vào mục đích.

Mục đích đó là:

Để giựt giải về sự kêu gọi trên trời của Đức Chúa Trời trong Đức Chúa Giê-xu Christ (c. 14b)

Giải thưởng Phao-lô nhắm vào không gì khác hơn là sự kêu gọi trên trời. Phao-lô không cho biết giải thưởng là gì, cho thấy ông nhấn mạnh vào SỰ KÊU GỌI ĐỂ ĐƯỢC GIẢI THƯỞNG hơn là CHÍNH GIẢI THƯỞNG.

Phao-lô kết luận phần nầy với câu:

Vậy, hễ những người trọn vẹn trong chúng ta, phải có ý tưởng đó và nếu anh em tưởng đàng khác, Đức Chúa Trời cũng sẽ lấy sự đó soi sáng cho anh em (c. 15)

Người trọn vẹn (c. 15a) mang ý nghĩa “người trưởng thành” (BHĐ). Phải có ý tưởng đó nghĩa là phải có quyết tâm như Phao-lô, đó là quyết tâm theo đuổi sự kêu gọi trên trời.

Nếu anh em tưởng đàng khác hàm ý có những người cho mình đã trọn vẹn rồi, không còn phải quyết tâm theo đuổi sự kêu gọi. Với những người đó, Phao-lô nói: Đức Chúa Trời cũng sẽ lấy sự đó soi sáng cho anh em (c. 15b). Bản Hiệu Đính dịch phần nầy là: “Nếu anh em nghĩ điều gì khác thì Đức Chúa Trời cũng sẽ bày tỏ cho anh em,” hàm ý Chúa sẽ giúp họ thấy rõ vấn đề.

Cuối cùng, Phao-lô viết:

Duy chúng ta đã đạt đến bậc nào, thì chúng ta phải đồng đi vậy (c. 16)

Bản Hiệu Đính dịch: “Tuy nhiên, chúng ta đạt đến mức độ nào thì cứ bước đi như vậy” hàm ý có những trình độ thuộc linh khác nhau nhưng mỗi người phải tiếp tục sống đúng với hiểu biết của mình.

Bài 11

CÔNG DÂN TRÊN TRỜI (3:17-21)

 

17 Hỡi anh em, hãy bắt chước tôi, lại xem những kẻ ăn ở theo mẫu mực mà anh em thấy trong chúng tôi. 18 Vì tôi đã thường nói điều nầy cho anh em, nay tôi lại khóc mà nói nữa: lắm người có cách ăn ở như là kẻ thù nghịch thập tự giá của Đấng Christ. 19 Sự cuối cùng của họ là hư mấthọ lấy bụng mình làm chúa mình và lấy sự xấu hổ của mình làm vinh hiển, chỉ tư tưởng về các việc thế gian mà thôi. 20 Nhưng chúng ta là công dân trên trờiấy là từ nơi đó mà chúng ta trông đợi Cứu Chúa mình là Đức Chúa Giê-xu Christ, 21 Ngài sẽ biến hóa thân thể hèn mạt chúng ta ra giống như thân thể vinh hiển Ngài, y theo quyền phép Ngài có để phục muôn vật.

 

  1. “Hãy bắt chước tôi” (c. 17a) là điều dễ hay khó nói? Tại sao?
  2. Phao-lô hàm ý gì khi nói, “Hãy bắt chước tôi?” Bắt chước điều gì?
  3.  “Xem những kẻ ăn ở theo mẫu mực (c. 17b) nghĩa là thế nào?
  4. “Tôi lại khóc mà nói nữa” (c. 18a) cho thấy tâm tình gì nơi Phao-lô?
  5. Thế nào là “ăn ở như là kẻ thù nghịch thập tự giá của Đấng Christ” (c. 18b)?
  6. “Lấy bụng mình làm chúa mình” (c. 19) nghĩa là thế nào?
  7. “Công dân trên trời” (c. 20a) hàm ý điều gì?
  8. Xin cho biết hy vọng của công dân trên trời (c. 20-21) và ý nghĩa của hy vọng đó.

 

Sứ đồ Phao-lô cho tín hữu tại Phi-líp thấy rõ mục đích sống của ông (c. 12-16) và ông khuyên họ:

Hỡi anh em, hãy bắt chước tôi (c. 17a)

Đây không phải là điều dễ nói, một người phải có đời sống tốt đẹp mới có thể nói như vậy. Sở dĩ Phao-lô có thể nói như vậy là vì chính ông đã bắt chước Chúa Giê-xu (I Cô. 11:1). Chúa Giê-xu là khuôn mẫu toàn bích cho chúng ta bắt chước. Ở đây Phao-lô khuyên toàn thể tín hữu bắt chước ông:

Thưa anh em, hãy CÙNG NHAU bắt chước tôi (c. 17a, BHĐ)

Phao-lô nói thêm:

Lại xem những kẻ ăn ở theo mẫu mực mà anh em thấy trong chúng tôi (c. 17b)

Bản Hiệu Đính dịch là:

Hãy chú tâm đến những người sống theo mẫu mực mà anh em thấy trong chúng tôi (c. 17b, BHĐ)

Ăn ở hay sống tương đương với chữ halakah trong Cựu Ước, nhấn mạnh đến lối sống hàng ngày (Thi thiên 1:1). Phao-lô và các bạn ông đã sống theo mẫu mực của Phúc Âm và ông kêu gọi tín hữu Phi-líp cũng sống như vậy.

Ngược lại là lối sống thù nghịch thập tự giá của Đấng Christ (c. 18):

Tôi đã thường nói điều nầy cho anh em, nay tôi lại khóc mà nói nữa: lắm người có cách ăn ở như là kẻ thù nghịch thập tự giá của Đấng Christ (c. 18)

Phao-lô thật tha thiết khi nói lời nầy: Tôi lại khóc mà nói nữa! Điều nầy cho thấy người tin Chúa mà không sống đúng với niềm tin, đem lại đau đớn cho người hầu việc Chúa.

Thập tự giá của Đấng Christ chỉ về sự chết của Chúa Giê-xu trên thập tự giá, nhờ đó chúng ta được cứu rỗi. Kẻ thù nghịch thập tự giá của Đấng Christ là người phủ nhận sự hy sinh chuộc tội đó, qua nếp sống đi ngược với niềm tin của mình. Vì vậy, Phao-lô cho biết: Sự cuối cùng của họ là hư mất (c. 19a). Người phủ nhận sự chết chuộc tội của Chúa Giê-xu chắc chắn không thể nào được cứu!

Phao-lô cho thấy đặc tính của những người sống như kẻ thù của thập tự giá Đấng Christ như sau:

(1) Lấy bụng mình làm chúa mình. Bụng nói đến những tham muốn thấp hèn, nhục dục của một người. Lấy bụng mình làm chúa mình hàm ý chỉ sống theo những nhục dục đó.

(2) Lấy sự xấu hổ của mình làm vinh hiển nghĩa là phạm tội, làm điều xấu xa nhưng lại hãnh diện. Những người chủ trương tính dục đồng giới, sống với nếp sống tội lỗi nhưng gọi đó là “niềm tự hào của những người đồng tính” (gay pride) là ví dụ rõ ràng nhất trong thời đại chúng ta!

(3) Chỉ tư tưởng về các việc thế gian mà thôi nghĩa là đeo đuổi, sống theo những dục vọng thấp hèn.

Đối chiếu với những người nầy, Phao-lô nhắc các tín hữu Phi-líp: Nhưng chúng ta là công dân trên trời (c. 20a).

Một trong những điều người dân thành Phi-líp hãnh diện là là thành phố nầy là thuộc địa của đế quốc La-mã (Công vụ 16:12) và người sống tại đây đương nhiên được kể là công dân La-mã. Đây là quyền lợi mà nhiều người phải bỏ tiền ra mua (Công vụ 22:28).

Trong ý hướng đó, Phao-lô nhắc các tín hữu Phi-líp nhớ rằng họ còn có vinh dự lớn hơn công dân La-mã nữa, họ là công dân trên trời.

Hy vọng và mục đích sống của công dân trên trời như sau:

Ấy là từ nơi đó mà chúng ta trông đợi Cứu Chúa mình là Đức Chúa Giê-xu Christ, Ngài sẽ biến hóa thân thể hèn mạt chúng ta ra giống như thân thể vinh hiển Ngài, y theo quyền phép Ngài có để phục muôn vật (c. 20b-21)

Từ nơi đó tức là trên trời chúng ta có hy vọng về việc Chúa tái lâm. Ngài được gọi là Cứu Chúa nói đến sự cứu rỗi toàn vẹn khi Chúa trở lại. Trong sự cứu rỗi toàn vẹn nầy:

Ngài sẽ biến hóa thân thể hèn mạt chúng ta ra giống như thân thể vinh hiển Ngài (c. 21)

Đây là điều Phao-lô đã dạy khi ông nói về sự sống lại (I Cô-rinh-tô 15:50-52) và sứ đồ Giăng nói trong I Giăng 3:2. Điều nầy xảy ra để minh chứng quyền tể trị cuối cùng của Chúa Giê-xu khi Đức Chúa Trời khiến muôn vật quy phục Ngài (I Cô. 15:27).

Đây là hy vọng chắc chắn của người tin Chúa. Là công dân thiên quốc, trong ngày Chúa trở lại, thân thể chúng ta sẽ được biến hóa trở nên giống như Chúa. Chính Chúa sẽ cầm quyền cai trị trên muôn vật và chúng ta là thần dân của Ngài.

Bài 12

ĐỨNG VỮNG VÀ HIỆP MỘT (4:1-3)

 

1 Vậy thì, hỡi anh em rất yêu rất thiết, là sự vui mừng và mão triều thiên cho tôi, kẻ rất yêu dấu ơi, hãy đứng vững trong Chúa. 2 Tôi khuyên Ê-vô-đi và khuyên Sin-ty-cơ phải hiệp một ý trong Chúa. 3 Hỡi kẻ đồng liêu trung tín, tôi cũng xin anh giúp hai người đàn bà ấy, nhân hai bà ấy cùng tôi đã vì đạo Tin Lành mà chiến đấuCơ-lê-măn và các bạn khác đồng làm việc với tôi cũng vậy, có tên những người đó biên vào sách sự sống rồi.

 

  1. Xin cho biết những từ Phao-lô dùng để gọi tín hữu tại thành Phi-líp (c. 1a)? Những từ nầy cho thấy điều gì?
  2. Thế nào là “đứng vững trong Chúa” (c. 1b)?
  3. Phao-lô có lời khuyên gì cho Ê-vô-đi và Sin-ty-cơ (c. 2)? “Hiệp một ý” mang ý nghĩa gì?
  4. “Kẻ đồng liêu trung tín” (c. 3a) nghĩa là gì?
  5. “Sách sự sống”(c. 3b) chỉ về gì?
  6. Quý vị có cảm nghĩ gì khi đọc những tên Phao-lô nhắc đến và những lời khuyên trong các câu trên?

 

Phao-lô gọi tín hữu tại Hội Thánh Phi-líp bằng những từ đặc biệt: Anh em rất yêu rất thiết, sự vui mừng và mão triều thiên cho tôi, kẻ rất yêu dấu (c.1a). Rất yêu rất thiết dịch đúng là: “Những người thân mến và thương nhớ” (BHĐ). Ông cũng gọi họ là sự vui mừng và mão triều thiên nghĩa là họ là niềm vui và phần thưởng của Phao-lô. Tất cả những từ nầy cho thấy lòng yêu thương và mối thân tình của Phao-lô đối với các tín hữu tại Phi-líp.

Sau khi gọi họ bằng những từ thân thiết đó, ông khuyên họ: Hãy đứng vững trong Chúa! Động từ đứng vững mang ý nghĩa tiếp tục đứng vững: “Hãy cứ đứng vững trong Chúa!” (BHĐ). Đứng vững nghĩa là kiên trì, không lui bước trước chống đối hay nghịch cảnh. Điều nầy có thể làm được nhờ liên kết với Chúa, ở trong Chúa. Trong Chúa cũng mang ý nghĩa tiếp tục ở trong mối tương giao với Ngài.

Hai nhân vật nữ được Phao-lô nhắc đích danh là Ê-vô-đi và Syn-ty-cơ. Hai người nầy có thể đã có những bất hòa với nhau liên quan đến sự hiệp một trong Hội Thánh nên ông có lời khuyên riêng cho họ. Từ khuyên được nhắc đến cho mỗi người: “Tôi KHUYÊN Ê-vô-đi và KHUYÊN Sin-ty-cơ” (BHĐ) cho thấy việc hiệp một đòi hỏi cố gắng của mỗi một người. Hiệp một ý mang ý nghĩa có cùng một suy nghĩ, tương tự như đồng một tâm tình trong 2:5. Việc hiệp một nầy cũng là hiệp một ý TRONG CHÚA, nhấn mạnh đến sự liên kết với Chúa và vì mỗi người đều ở trong thân thể của Ngài.

Phao-lô nhắc đến một người khác mà ông gọi là kẻ đồng liêu trung tín tức là “người bạn đồng lao chân thành” (BHĐ). Chúng ta không rõ người bạn nầy là ai nhưng Phao-lô muốn nhắn nhủ người đó đóng vai hòa giải trước sự bất đồng ý kiến giữa Ê-vô-đi và Syn-ty-cơ. Ông nói: Hai bà ấy cùng tôi đã vì đạo Tin Lành mà chiến đấu hàm ý đây là những người đã hợp tác với Phao-lô tại Phi-líp trong công tác truyền giảng Phúc Âm, có lẽ là những người đã giúp đỡ phương tiện cho Phao-lô hầu việc Chúa như bà Ly-đi (Công vụ 16:15). Cùng với Ê-vô-đi và Syn-ty-cơ, Phao-lô cũng nhắc đến Cơ-lê-măn và các bạn khác đồng làm việc (c. 3b).

Phao-lô cho biết có tên những người đó biên vào sách sự sống rồi (c. 3c). Sách sự sống là “sách ghi tên những người tin Chúa thật, những người được chọn trong cả Cựu Ước và Tân Ước” (Martin, trang 173) hàm ý trong Xuất 32:32, Thi thiên 69:28, 139:16, Lu-ca 10:20 và hơn năm lần trong sách Khải Huyền.

Phi-líp 4:1-3 cho thấy:

  1. Thân tình giữa Phao-lô và con cái Chúa tại Hội Thánh Phi-líp, đây là điều cần có trong mỗi Hội Thánh của Đức Chúa Trời.
  2. Kiên trì trong đức tin trước nghịch cảnh là điều chúng ta phải tâm niệm để tiếp tục sống cho Chúa.
  3. Tinh thần hiệp một là điều không thể thiếu trong Hội Thánh, nếu có tranh chấp hay bất hòa, chúng ta phải cố gắng giải hòa.
  4. Việc giải hòa có thể cần đến những người ngoài cuộc là người trong vai trò “làm cho người hòa thuận” (peace maker).
  5. Hội Thánh của Chúa bao gồm nhiều người và Phao-lô đã không quên một ai trong Hội Thánh là những người đã góp phần hầu việc Chúa trong nhiều cương vị khác nhau.
  6. Người tin Chúa là người được bảo đảm “có tên trong sách sự sống,” là điều khích lệ chúng ta trên đường theo Chúa.

Bài 13

VUI MỪNG TRONG CHÚA (4:4-9)

4 Hãy vui mừng trong Chúa luôn luôn. Tôi lại còn nói nữa: hãy vui mừng đi. 5 Hãy cho mọi người đều biết nết nhu mì của anh em. Chúa đã gần rồi.

6 Chớ lo phiền chi hết, nhưng trong mọi sự hãy dùng lời cầu nguyện, nài xin, và sự tạ ơn mà trình các sự cầu xin của mình cho Đức Chúa Trời. 7 Sự bình an của Đức Chúa Trời vượt quá mọi sự hiểu biết, sẽ giữ gìn lòng và ý tưởng anh em trong Đức Chúa Jêsus Christ.

8 Rốt lại, hỡi anh em, phàm điều chi chân thật, điều chi đáng tôn, điều chi công bình, điều chi thanh sạch, điều chi đáng yêu chuộng, điều chi có tiếng tốt, điều chi có nhân đức đáng khen, thì anh em phải nghĩ đến. 9 Hễ sự gì anh em đã học, đã nhận, đã nghe ở nơi tôi, và đã thấy trong tôi, hãy làm đi, thì Đức Chúa Trời của sự bình an sẽ ở cùng anh em.

 

  1. Thế nào là “vui mừng TRONG CHÚA” (c. 4a)?
  2. Tại sao Phao-lô nhắc lại câu, “Hãy vui mừng trong Chúa” (c. 4b)?
  3. “Chúa đã gần rồi” (c. 5b) liên kết với câu, “Hãy cho mọi người đều biết nết nhu mì của anh em” (c. 5a) như thế nào?
  4. Để tránh lo phiền, chúng ta cần làm gì (c. 6)?
  5. “Cầu nguyện, nài xin, tạ ơn và cầu xin” (c. 6b) khác nhau thế nào?
  6. “Sự bình an của Đức Chúa Trời” (c. 7a) chỉ về điều gì?
  7. Xin giải thích mỗi điều Phao-lô bảo chúng ta phải nghĩ đến (c. 8).
  8. Xin cho biết điểm giống nhau giữa câu 9 và 3:17. Phao-lô muốn nhắc nhở chúng ta điều gì?

 

Phao-lô đã khuyên các tín hữu tại Phi-líp, Hãy vui mừng trong Chúa (3:1, xem giải thích, trang 36) và bây giờ ông nhắc lại:

Hãy vui mừng trong Chúa luôn luôn. Tôi lại còn nói nữa: Hãy vui mừng đi (c. 4)

Chẳng những nhắc lại, Phao-lô cũng lặp lại: Tôi lại còn nói nữa: Hãy vui mừng đi. Điều nầy cho thấy niềm vui tràn ngập trong Phao-lô dù ông đang ở tù và ông muốn các tín hữu cũng có cùng tâm tình như ông. Vui mừng là điều phải có thường xuyên trong lòng người tin Chúa (I Tê. 5:16). Đây là một trong những trái Thánh Linh, tiếp ngay sau trái yêu thương.

Lời khuyên tiếp theo của Phao-lô là:

Hãy cho mọi người đều biết nết nhu mì của anh em. Chúa đã gần rồi (c. 5)

Từ nhu mì mang ý nghĩa chịu đựng, sẵn sàng tha thứ, không trả thù. Phao-lô nói: Hãy cho MỌI NGƯỜI ĐỀU BIẾT nết nhu mì của anh em hàm ý nếp sống yêu thương, tha thứ của người tín đồ phải bày tỏ cho thế gian đều thấy.

Cụm từ Chúa đã gần rồi có thể là một lối diễn đạt của từ Ma-ra-na-tha (I Cô. 16:22; Khải 22:20) hàm ý mong đợi hay cầu xin Chúa mau trở lại. Những chữ nầy không liên hệ đến thái độ nhu mì Phao-lô nhắc đến trước đó.

Lời khuyên tiếp theo của Phao-lô cho độc giả là:

Chớ lo phiền chi hết, nhưng trong mọi sự hãy dùng lời cầu nguyện, nài xin và sự tạ ơn mà trình các sự cầu xin của mình cho Đức Chúa Trời (c. 6)

Lời khuyên nầy gồm hai phần:

  • Tiêu cực: Không lo phiền.
  • Tích cực: Cầu nguyện.

Không lo phiền hay không lo lắng là điều chính Chúa Giê-xu đã dạy (Ma-thi-ơ 6:25; Lu-ca 12:22) cho nên một tác giả đã nói, đây là câu giải thích lời dạy đừng lo lắng của Chúa. Lo lắng chứng tỏ chúng ta thiếu lòng tin cậy Chúa và như vậy là chúng ta đã vô tình mắc tội “phạm thượng” với Ngài (Oswald Chambers).

Thay vì lo lắng, Phao-lô khuyên các tín hữu hãy cầu nguyện. Lời khuyên nầy có thể phân tích như sau:

Động từ chính là: TRÌNH CÁC SỰ CẦU XIN của mình cho Đức Chúa Trời.

Chúng ta trình các sự cầu xin dưới ba hình thức: cầu nguyện, nài xin và tạ ơn.

  • Cầu nguyệnnói đến lời cầu xin tổng quát, nói chung.
  • Nài xinnhấn mạnh đến chi tiết.
  • Tạ ơnnói đến thái độ biết ơn, nhớ lại những ơn lành Chúa đã ban trong quá khứ.

Những chữ trong mọi sự được đặt ở đầu câu trong nguyên văn, nhằm nhấn mạnh việc chúng ta phải cầu nguyện trong mọi hoàn cảnh.

Như vậy, trong mọi hoàn cảnh, thay vì lo lắng, chúng ta hãy dâng trình cho Chúa mọi nhu cầu của chúng ta cách chi tiết, với lòng biết ơn. Kết quả sẽ là:

Sự bình an của Đức Chúa Trời vượt quá mọi sự hiểu biết, sẽ giữ gìn lòng và ý tưởng anh em trong Đức Chúa Giê-xu Christ (c. 7)

Sự bình an của Đức Chúa Trời hàm ý đây là sự bình an đến từ Đức Chúa Trời, Ngài là nguồn của bình an (Ê-sai 26:3). Đây là kết quả của sự bình an VỚI Đức Chúa Trời qua Chúa Giê-xu (Rô-ma 5:1; Cô-lô-se 1:20).

Đây là sự bình an vượt quá mọi sự hiểu biết nghĩa là trí óc hữu hạn của con người không thể nào hiểu thấu. Sự bình an nầy sẽ GIỮ GÌN lòng và ý tưởng anh em. Động từ giữ gìn là một từ quân sự hàm ý canh giữ, canh gác, bảo vệ. Lòng và ý tưởng nói đến toàn thể con người: nội tâm, tình cảm và lý trí. Những chữ trong Đức Chúa Giê-xu Christ hàm ý chúng ta được sự bình an nầy qua mối tương giao với Chúa Giê-xu, vì được liên kết với Ngài.

Như vậy từ chỗ lo lắng (c. 6a) chúng ta có bình an trọn vẹn (c. 7) qua việc trình dâng mọi lo lắng của chúng ta cho Chúa (c. 6b).

Cuối cùng Phao-lô viết:

Rốt lại, hỡi anh em, phàm điều chi chân thật, điều chi đáng tôn, điều chi công bình, điều chi thanh sạch, điều chi đáng yêu chuộng, điều chi có tiếng tốt, điều chi có nhân đức đáng khen, thì anh em phải nghĩ đến (c. 8)

Động từ chính trong câu nầy là: Phải nghĩ đếnNghĩ đến hàm ý “ghi nhớ, suy ngẫm và rồi để cho những điều nầy làm khuôn mẫu cho đời sống” (Martin, 178). Đây là mạng lệnh bảo chúng ta tập trung tư tưởng vào những điều nầy và theo đó để sống. Đời sống tâm trí rất quan trọng vì tâm trí là nguồn phát sinh mọi hành động. Tâm trí và tư tưởng thiện lành sẽ đưa đến đời sống thiện lành, cao đẹp. Những điều Phao-lô khuyên độc giả phải tập trung tư tưởng vào, phải nghĩ đến thường xuyên là:

Chân thật, ngược lại với giả dối, không thành thật.

Đáng tôn mang ý nghĩa đáng được đề cao, “đáng trọng” (BHĐ).

Công bình hay công chính là phù hợp với tiêu chuẩn của Chúa.

Thanh sạch nhấn mạnh đến tinh sạch trên phương diện luân lý, đạo đức, thuần khiết.

Đáng yêu chuộng hàm ý có cái đẹp thiện mỹ.

Có tiếng tốt nghĩa là được ca tụng, biểu dương.

Thay vì tiếp tục bảng liệt kê với những mỹ đức khác, Phao-lô bao gồm lại với hai từ nhân đức và đáng khen: “Nói chung là điều gì đức hạnh, đáng khen ngợi” (BHĐ).

Nhân đức mang ý nghĩa tuyệt hảo và đáng khen là được mọi người cho là tốt.

Đây là những điều người tin Chúa phải luôn để tâm suy ngẫm. Có người đã rút gọn những điều nầy như sau:

Điều gì THẬT, điều gì TRỌNG, điều gì ĐÚNG, điều gì SẠCH, điều gì ĐÁNG, điều gì TỐT. Nói chung, bất cứ điều gì TUYỆT HẢO và TỐT LÀNH, hãy đeo đuổi theo những điều nầy!

Trong 3:17, sứ đồ Phao-lô viết:

Hỡi anh em, hãy bắt chước tôi, lại xem những kẻ ăn ở theo mẫu mực mà anh em thấy trong chúng tôi (3:17)

Ông lặp lại ý nầy như sau:

Hễ sự gì anh em đã học, đã nhận, đã nghe ở nơi tôi và đã thấy trong tôi, hãy làm đi, thì Đức Chúa Trời của sự bình an sẽ ở cùng anh em (c. 9)

Câu nầy tiếp ngay sau câu 8 cho thấy đó là những điều Phao-lô đã làm và ông muốn các tín hữu bắt chước ông. Phao-lô có thể nói các mạnh dạn như vậy vì trong I Cô-rinh-tô 11:1, ông viết:

Hãy bắt chước tôi, cũng như chính mình tôi bắt chước Đấng Christ vậy (I Cô-rinh-tô 11:1)

Đây không phải là lời tự phụ nhưng Phao-lô muốn các tín hữu sống theo khuôn mẫu của Chúa như ông đã sống. Học, nhận, nghe và thấy nói đến cả cuộc đời của Phao-lô là gương sáng cho tín hữu noi theo. Chữ nhận mang ý nghĩa tiếp nhận một truyền thống (I Cô. 11:23; 15:3) hàm ý đây là những điều đã được thực hành trong đời sống các sứ đồ trước khi được ghi chép trong Tân Ước. Phải thật sự sống đúng với những điều mình dạy để làm gương cho người khác là điều Phao-lô nhắc nhở trong các câu nầy.

Bài 14

TÔI LÀM ĐƯỢC MỌI SỰ… (4:10-23)

 

10 Tôi được rất vui mừng trong Chúa, vì nay anh em lại lo tưởng về tôi lần nữa. Anh em vẫn tưởng đến điều đó lắm, nhưng không có dịp tiện. 11 Không phải là tôi muốn nói đến sự cần dùng của tôi vì tôi đã tập hễ gặp cảnh ngộ nào, cũng thỏa lòng ở vậy. 12 Tôi biết chịu nghèo hèn, cũng biết được dư dật. Trong mọi sự và mọi nơi, tôi đã tập cả, dầu no hay đói, dầu dư hay thiếu cũng được. 13 Tôi làm được mọi sự nhờ Đấng ban thêm sức cho tôi. 14 Nhưng anh em giúp tôi cơn hoạn nạn, thì đã làm điều thiện.

15 Hỡi người Phi líp, anh em cũng biết rằng lúc tôi khởi giảng Tin lành, trong khi lìa xứ Ma-xê-đoan, thì ngoài Hội Thánh của anh em, chẳng có hội nào khác hiệp với tôi để lập thành sự trao đổi trong chúng ta cả16 Vì tại Tê-sa-lô-ni-ca, anh em đã một hai lần gởi đồ cung cấp về sự cần dùng cho tôi vậy. 17 Ấy không phải tôi cầu lễ vật, nhưng cầu sự kết quả nhiều bởi lễ vật đến cho anh em. 18 Vậy, tôi đã nhận được hết và đang dư dật. Tôi được đầy dẫy vì đã nhận đồ nơi Ép-ba-phô-đích mà anh em gởi cho tôi, như một thứ hương có mùi thơm, tức là một của lễ Đức Chúa Trời đáng nhận và đẹp lòng Ngài. 19 Đức Chúa Trời tôi sẽ làm cho đầy đủ mọi sự cần dùng của anh em y theo sự giàu có của Ngài ở nơi vinh hiển trong Đức Chúa Giê-xu Christ. 20 Nguyền xin sự vinh hiển về nơi Đức Chúa Trời, là Cha chúng ta, đời đời vô cùng! A-men.

21 Hãy chào hết thảy các thánh đồ trong Đức Chúa Giê-xu Christ. Các anh em ở cùng tôi chào anh em. 22 Hết thảy các thánh đồ chào anh em, nhứt là về người nhà Sê-sa.

23 Nguyền xin ân điển của Đức Chúa Giê-xu Christ ở trong lòng anh em!

 

  1. Xin đọc câu 10-19 và cho biết ý chính của phân đoạn nầy.
  2. “Hễ gặp cảnh ngộ nào, cũng thỏa lòng ở vậy” (c. 11b) nghĩa là thế nào?
  3. Trong văn mạch (c. 11-12) câu, “Tôi làm được mọi sự nhờ Đấng ban thêm sức cho tôi” mang ý nghĩa gì?
  4. “Lập thành sự trao đổi trong chúng ta” (c. 15b) nghĩa là làm điều gì?
  5. Phao-lô coi sự giúp đỡ vật chất của Hội Thánh Phi-líp cho ông như “một của lễ” (c. 18b) mang ý nghĩa gì?
  6. Câu 19 dạy chúng ta điều gì về sự tiếp trợ của Chúa?
  7. “Người nhà Sê-sa” (c. 22b) chỉ về ai?

 

Thư Phi-líp là lá thư cảm ơn sứ đồ Phao-lô gửi cho Hội Thánh Phi-líp về những giúp đỡ vật chất họ dành cho ông lúc ông bị tù tại Rô-ma. Phao-lô kể lại những giúp đỡ nầy trong câu 16:

Tại Tê-sa-lô-ni-ca, anh em đã một hai lần gởi đồ cung cấp về sự cần dùng cho tôi (c. 16)

Phao-lô nói về những giúp đỡ nầy như sau:

  1. Ông vui và biết ơn họ (c. 10).
  2. Ông cần sự giúp đỡ của Hội Thánh Phi-líp nhưng dù họ không giúp, ông vẫn thỏa lòng, nhờ sức của Chúa (c. 11-14).
  3. Hội Thánh Phi-líp là Hội Thánh duy nhất giúp đỡ Phao-lô về mặt vật chất (c. 15).
  4. Họ đã làm điều nầy nhiều lần (c. 16).
  5. Phao-lô nhận lễ vật của Hội Thánh Phi-líp với ước mong là chính họ sẽ được phước (c. 17).
  6. Ép-ba-phô-đích (2:25-30) là người từ thành Phi-líp đem quà đến cho Phao-lô (c. 18a).
  7. Phao-lô coi những điều Hội Thánh Phi-líp giúp ông là của lễ họ dâng cho Đức Chúa Trời.
  8. Phao-lô biết rằng Chúa sẽ bù đắp cho họ qua việc họ giúp đỡ ông (c. 19).

Bài học áp dụng:

  1. Chúng ta cần bày tỏ lòng biết ơn cách cụ thể khi được người khác giúp đỡ.
  2. Chúng ta cần tập sống thỏa lòng trong mọi hoàn cảnh.
  3. Trong văn mạch, Tôi làm được mọi sự nhờ Đấng ban thêm sức cho tôi(c. 13) mang ý nghĩa chúng ta CÓ THỂ SỐNG THỎA LÒNG TRONG MỌI HOÀN CẢNH, VỚI SỨC CHÚA BAN.
  4. Lập thành sự trao đổi trong chúng ta(c. 15b) mang ý nghĩa có mối thông công trong Chúa. Hội Thánh Phi-líp là nhóm người duy nhất thể hiện mối thông công với sứ đồ Phao-lô qua những giúp đỡ vật chất. Đây là điều người tin Chúa cần thể hiện đối với người hầu việc Chúa.
  5. Giúp đỡ người hầu việc Chúa, chúng ta sẽ được phước (c. 17).
  6. Giúp đỡ người hầu việc Chúa là cách chúng ta thờ phượng Chúa (c. 18b).
  7. Chúa sẽ không bao giờ để chúng ta bị thiếu thốn khi chúng ta chia sẻ với người hầu việc Chúa (c. 19).

Người nhà Sê-sa (c. 22b) không phải là bà con với hoàng đế La-mã nhưng là lính canh hay những người làm việc trong dinh thự hoàng đế (1:13).

Lời chào cuối thư (c. 23) tương tự như lời chào đầu thư (1:2), nhấn mạnh đến ân sủng Chúa dành cho con cái Ngài:

Nguyền xin ân điển của Đức Chúa Giê-xu Christ ở trong lòng anh em (c. 23)

Top