Tái sanh Nên thánh

Chương 5 –  LUẬN VỀ SỰ TÁI SANH

LẼ ĐẠO tái sanh rất quan thiết với đạo cứu rỗi. Bởi vì nếu một người nào không được tái sanh, thì không những là không vào nước Đức Chúa Trời, mà lại cũng chẳng thấy nước ấy được bao giờ. Chính Đức Chúa Jesus phán rằng: “Nếu người nào chẳng bởi nước và Thánh Linh mà sanh, thì không thể vào nước Đức Chúa Trời được” (Gi 3:5). Lại “nếu người nào chẳng được tái sanh, thì không thể thấy được nước Đức Chúa Trời” (Gi 3:3). Trong chương trước, ta đã kê cứu về tội nhơn trở lại cùng Đức Chúa Trời, thấy nó là việc bởi sự ăn năn và đức tin đến Chúa Jesus Christ mà được nên. Trong cuộc cứu rỗi, việc trở lại cùng Đức Chúa Trời là phần thuộc về tội nhơn; còn sự tái sanh là phần thuộc về Đức Chúa Trời. Nói theo sự từng trải của tín đồ, thì hễ tội nhơn bắt đầu ăn năn tội, tin cậy Jesus Christ, thì liền được tái sanh. Song đối với Đức Chúa Trời có lẽ phải cho ơn tái sanh là căn nguyên của việc tội nhơn ăn năn tin cậy đó. Xét lời Kinh Thánh, nghiệm thử lòng ta, thì rõ lắm công việc tái sanh rất khẩn yếu, rất lạ lùng khôn xiết kể. Sau đây xin lược luận đến những điều quan yếu nhứt.

I. ÐỊNH NGHĨA SỰ TÁI SANH

Tấn sĩ A.J. Gardon định nghĩa sự tái sanh, gọi là “sự truyền đạt thần tánh của Đức Chúa Trời cho người ta bởi ơn vận hành của Thánh Linh và Lời Kinh Thánh”. Có kẻ khác gọi đó là tác dụng của Thánh Linh đổi tội nhơn ra người mới giống như hình trạng của Đức Chúa Trời (IICô 5:17; Tít 3:5-7). Như cái khởi điểm của sự sống thuộc thể được gọi là sự sanh ra thể nào, thì cái khởi điểm của sự sống thuộc linh cũng được gọi là sự sanh ra thể ấy. Sự tái sanh của con cái Đức Chúa Trời vốn một việc thực tế, chỉ được nên bởi công năng của Đức Chúa Trời vốn một việc thực tế, chỉ được nên bởi công năng của Thánh Linh mà thôi. Bởi vì “hễ chi sanh bởi xác thịt là xác thịt, hễ chi sanh bởi Thánh Linh là linh” (Gi 3:6).

Cũng có thể gọi sự tái sanh là việc Đức Chúa Trời đổi tâm tánh của tội nhơn ra mời, tái tạo sự khuynh hướng của lòng đến đỗi nó không còn khuynh hướng về tội lỗi và ích kỷ nữa, bèn là khuynh hướng về Đức Chúa Trời và thánh ý của Ngài. Nói đại khái, sự đổi mới nầy quan hệ với cả bản ngã của người ta, tức là quan hệ với trí ngộ, cảm tình và ý dục: trí ngộ được linh quang mới soi sáng vào để thông hiểu lẽ thật của Đức Chúa Trời; cảm tình được ái tình mới để yêu thương Đức Chúa Trời và đồng bào; ý dục được ý chí thánh khiết, năng lực siêu nhiên để ăn ở theo đời sống mới. Kết cuộc là lòng được tẩy sạch, lương tâm được yên ổn, và cả tâm linh, tâm hồn cùng thân thể đều được đầy dẫy đức tin, bình an, vui vẻ trong Thánh Linh vậy (Rô 5:2; 14:17).

II. LỜI KINH THÁNH MÔ TẢ SỰ TÁI SANH

Trong Kinh Thánh có nhiều đoạn sách luận đến sự tái sanh, định nghĩa và mô tả công việc huyền diệu ấy. Đây xin kể lại vài điều quan hệ hơn hết.

1.    LÒNG MỚI VÀ THẦN MỚI

Hễ ai được tái sanh, thì tất nhiên trong lòng ấy xảy ra cuộc cải hóa rất quan hệ: lòng cũ được đổi ra lòng mới. Lòng tội lỗi vốn cứng cỏi được Thánh Linh cất bỏ, và ban lại lòng trong sạch mềm mại, dễ cảm động, dễ dạy dỗ, hay khuynh hướng về Đức Chúa Trời và ý chỉ thánh của Ngài. Kinh Thánh dạy rằng: Thi 51:10; Giê 31:33; Êxê 11:19,20. Cũng xem Êxê 36:26; Ma 12:33,35; 15:19; Công 16:14; Rô 6:17; 10:10.

2.    SỰ TÁI SANH

Kinh Thánh cũng gọi cái biến động thuộc linh lớn lao nầy bằng sự tái sanh. Chúa Jesus phán cùng Ni-cô-đem rằng: “Nếu người nào chẳng được tái sanh, thì không thể thấy được nước Đức Chúa Trời” (Gi 3:3). Ý nghĩa hai chữ “tái sanh” đây chẳng phải là Đức Chúa Trời sửa đổi tánh cũ, hoặc cảm hóa lòng cũ, hoặc bồi bổ cho người cũ, hoặc cải cách đời cũ của tội nhơn đâu, bèn là Đức Chúa Trời sanh lại người, tái tạo nhân cách người, đem chính sự sống của Ngài mà truyền đạt vào người, đến đỗi người trở nên kẻ có chí hướng mới, tư cách mới, tâm tình mới, gia tộc mới, Cha mới, anh em mới, đời mới. Nói một lời, người được tái sanh trở nên con cái của Đức Chúa Trời, được dự phần đến thần tánh, thần cách, được thuộc trong gia tộc thiên thượng, được gọi Đức Chúa Trời là Cha, được tín đồ Christ làm anh em của mình, và được ăn ở trong đời mới bởi Thánh Linh gây dựng và chủ trị vậy. Gi 5:21; Rô 6:13; Êph 2:1; Êph 5:14

3.    VƯỢT KHỎI SỰ CHẾT MÀ VÀO SỰ SỐNG

Kinh Thánh lại dạy rằng khi nhân cách của tội nhơn từng trải sự tái sanh, thì vượt khỏi sự chết mà vào sự sống. Chúa Jesus phán: Gi 5:24

Ta đã thấy sự chết thuộc thể là linh hồn phân rẽ với xác thịt, và sự chết thuộc linh là linh hồn phân rẽ với Đức Chúa Trời. Kinh Thánh thường dùng danh từ chết để mô tả địa vị thiên nhiên của tội nhơn. Người “đã chết vì sự vi phạm và tội lỗi mình… vốn là con của sự thạnh nộ, cũng như kẻ khác” (Êph 2:1,3). Người là con hoang đàng đã lìa nhà Cha, lưu lạc phương xa, đối với Cha chẳng khác gì kẻ đã chết rồi vậy. Thế thì, trong biến động tái sanh Đức Chúa Trời ban cho tội nhơn sự sống, khiến cho linh hồn người được sống lại khỏi kẻ chết. Nên Phao-lô dạy rằng: Êph 5:14; Êph2:4-

4.    ĐƯỢC DỰNG NÊN MỚI

Kinh Thánh cũng gọi sự tái sanh là sự dựng nên mới, một cuộc tái tạo bởi quyền năng của Thánh Linh mà được nên. Phao-lô chép: IICô 5:17; Ga 6:15

Trong hai câu ấy Phao-lô phân biệt hai cuộc tạo thành và hai thứ sanh mạng, tức là cuộc tạo thành cũ và cuộc tạo thành mới; sanh mạng thuộc huyết khí và sanh mạng thuộc linh. Cuộc tạo thành cũ với sanh mạng thuộc huyết khí đều đã do nguyên tổ phạm tội mà hóa ra hủ bại hư hỏng. Đức Chúa Trời bèn bỏ cả hai, nhờ Christ là Nguyên tổ thuộc linh, mà tạo thành một người mới, ban cho sanh mạng cũng mới, tức là sanh mạng của Đức Chúa Trời. Hễ ai tin cậy Christ làm Cứu Chúa mình, thì liền nhờ Thánh Linh mà được tái tạo, được sự sống mới, được từ địa vị hủ bại hư hỏng của người cũ, mà dời qua địa vị công nghĩa thánh khiết của Christ, đến đỗi tâm chí, tánh chất trở nên mới, và người được sống thuộc linh cũng mới và cao thượng ở trong Con Đức Chúa Trời vậy.

5.    ĐƯỢC DỰ PHẦN THẦN TÁNH

Sự tái sanh cũng gọi là tội nhơn trở lại cùng Chúa thì được dự phần thần tánh của Đức Chúa Trời. Phi-e-rơ chép rằng: IIPhi 1:4

Trong câu ấy Thánh Linh giải nghĩa sự tái sanh rõ hơn hết. Người thuộc huyết khí, là người chưa được tái sanh, vốn có trí ngộ tối tăm đối với lẽ thật (ICô 2:14), có cảm tình bại hoại đối với sự yêu thương (Ga 5:19-21), có ý dục hay phản nghịch đối với ý chỉ của Đức Chúa Trời (Rô 8:7). Ấy là chân tánh của mọi người chưa được tái sanh, dầu người ấy có tài cao học rộng, có tánh nho nhã ôn hòa, bề ngoài gọi là có phẩm hạnh đạo đức xuất chúng đi nữa, thì cũng chẳng qua là “chết vì sự vi phạm và tội lỗi mình”, làm “con của sự thạnh nộ cũng như kẻ khác” (Êph 2:1,3). Nhờ sự tái sanh Đức Chúa Trời dùng Thánh Linh và lời Kinh Thánh mà truyền đạt thần tánh thông minh thánh khiết của Ngài cho tín đồ. Tánh ấy ở trong tín đồ tư tưởng như Đức Chúa Trời tư tưởng (Côl 3:10), cảm xúc như Đức Chúa Trời cảm xúc, mong muốn như Đức Chúa Trời mong muốn (IGi 3:14; 4:7,8). Như thế, “những sự cũ thật đã qua đi, nầy mọi sự đều trở nên mới” vậy (IICô 5:17). Cũng xem Êxê 36:26,27.

Nếu tâm tánh của tội nhơn chưa cải hóa, nếu người chưa được dự phần thần tánh của Đức Chúa Trời, dầu muốn làm lành, ăn ở đạo đức, thì cũng chẳng có thể làm được, vì tánh ác do nguyên tổ di truyền lại chỉ lôi kéo mình vào việc ác đó thôi. Tuy rán hết sức cải ác tùng thiện, cũng đều vô ích, vì chẳng khác gì người Êthiôbi xưa kia muốn đổi màu da mình, con beo muốn đổi vằn nó (Giê 13:23), nhưng không thể làm được vì là việc bất năng cả. Phải có thần tánh của Đức Chúa Trời trong mình, mới ăn ở theo ý chỉ của Đức Chúa Trời được.

III. SỰ TÁI SANH CẦN THIẾT

Sự tái sanh là một việc quan hệ nhứt của cuộc cứu rỗi và rất cần thiết. Xưa Chúa Jesus phán cùng Ni-cô-đem rằng: “Các ngươi cần phải tái sanh” (Gi 3:7). Ni-cô-đem vốn một người lương thiện, đạo đức, đã chịu cắt bì, sốt sắng vâng giữ mọi nghi văn của đạo Môi-se, cũng tận tâm kính thờ Đức Chúa Trời nữa. Dầu vậy, Chúa Jesus phán bảo người rằng nếu chẳng được tái sanh chắc không thể đến nước Đức Chúa Trời, cũng không thể thấy chốn ấy được (Gi 3:3-5). Tại duyên cớ nào mà sự tái sanh là cần thiết dường ấy? Vì ba cớ lược luận sau đây:

1.    NẾU KHÔNG THÁNH KHIẾT ẮT KHÔNG THỂ THẤY ĐƯỢC ĐỨC CHÚA TRỜI

Hễ ai muốn được đẹp lòng Đức Chúa Trời, muốn được bình an trong lòng, và muốn dự phần trong hạnh phước của thánh đồ ở trên trời, thì phải có lòng thánh khiết thích hiệp với tân đức đệ nhứt của Đức Chúa Trời mới được. Trước giả thơ Hê-bơ-rơ chép rằng: Hê 12:14

2.    CÓ BẢN TÁNH HỦ BẠI

Vả, loài người nguyên có tánh hủ bại, sanh ra trong dòng giống tội lỗi, bị lòng ô uế, hằng ăn ở theo đường bất công bất nghĩa, trong mình chẳng có sự thánh khiết chút nào. Nên Phao-lô dạy quyết rằng: Rô 3:10-18; Rô 3:23.

Ấy vậy, tội nhơn đã mắc tội, đã bất khiết dường ấy, thể nào dám yết kiến Đức Chúa Trời thánh khiết được ư? Quả như lời Chúa Jesus phán xưa kia rằng: “Nếu người nào chẳng được tái sanh, thì không thể thấy được nước Đức Chúa Trời” (Gi 3:3)

3.    CẦN PHẢI CẢI HÓA TÂM TÁNH

Bởi hai cớ luận trên, rất cần yếu phải cải hóa tâm tánh tội nhơn, cốt ý để khiến người trở nên Thánh Linh, mới xứng hiệp với đức tánh chủ yếu của Đức Chúa Trời. Nhưng hễ ai muốn nhờ cậy nào giáo dục, nào đức dục, nào sự tấn hóa thiên nhiên gì gì đi nữa, thảy đều chẳng bao giờ đạt đến bực thánh khiết được đâu; bởi vì cả ý hướng chí nguyện của lòng người vốn là ích kỷ, chỉ chuyên chú những điều phản nghịch cùng Đức Chúa Trời mà thôi. Thật như có chép rằng: “Chí hướng của xác thịt thù với Đức Chúa Trời, bởi nó không phục luật pháp Đức Chúa Trời, lại cũng không thế phục được.” (Rô 8:7). Lại, “Hễ chi sanh bởi xác thịt” (Gi 3:6). Còn chân tánh của xác thịt là, “gian dâm, ô uế, luông tuồng, thờ hình tượng, tà thuật, thù oán, tranh cạnh, ganh ghét, giận hờn, kết phe chia rẽ, dị đoan, ganh đua, tàn sát, say sưa, chè chén, cùng các thứ giống như vậy… Hễ ai phạm những việc thể ấy thì không hưởng được nước Đức Chúa Trời” (Ga 5:19-21).

Xác thịt (tức tánh cũ) vốn bại hoại, ác tệ, không thể sửa đổi mới lại được. “Kẻ thuộc xác thịt không thể đẹp lòng Đức Chúa Trời” (Rô 8:8) cũng không thể “thừa thọ nước Đức Chúa Trời được” (ICô 15:50). Thành thử, loài người cần nhờ công lực của Đức Chúa Trời cải tạo, cho đức tánh mới, gọi là “người mới”, “đã được dựng nên theo hình tượng Đức Chúa Trời, trong sự công nghĩa và sự thánh khiết của lẽ thật” (Êph 4:23,24). Hễ ai muốn được cứu, muốn ăn ở cho đẹp lòng Đức Chúa Trời, và muốn được vào nước trời thì cần phải nhờ phương pháp duy nhứt của sự tái sanh, mới mong được như nguyện. Các phương pháp khác, đều hay ho đến đâu đi nữa, chỉn thẳng qua là giả dối, kẻ làm theo chỉ phải thất vọng, càng bị hư hỏng bại hoại càng hơn đó thôi. “Vì chịu cắt bì, hay không chịu cắt bì đều chẳng quan hệ gì; quan hệ là người được dựng nên mới” (Ga 6:15).

4.    NGUYÊN NHƠN CỦA SỰ TÁI SANH

Vả, nguyên nhơn trong cuộc tái sanh là gì? Trải qua các đời trong Cơ Đốc Giáo hội đã có những ý kiến khác nhau về vấn đề ấy. Sau đây xin chỉ lược luận qua bốn ý kiến mà thôi.

a)    Ý chỉ của loài người: Thuyết Pélage chủ trương rằng ý chỉ của loài người là nguyên nhơn của sự tái sanh. Họ luận rằng người ta có đủ sức để lựa chọn từ bỏ việc ác mà làm theo việc thiện, không cần nhớ công lực nào từ ngoài giúp đỡ tý gì cả. Hễ người ta muốn xu hướng về điều lành, thì chỉ cần nhờ sức vốn có ở trong mình, tự định ý chỉ gắng công ra sức mà làm, thì quả có thể đạt được sở nguyện. Ấy thuyết Pélage gọi sự tái sanh là như vậy.

Nhưng thuyết ấy rất sai lầm, vì phản đối với Kinh Thánh, cũng bất hiệp với tâm lý của loài người. Kinh Thánh dạy rõ ràng ý chỉ của người thuộc huyết khí vốn cố định xu hướng về điều ích kỷ, tự nhiên chẳng có thể hoặc muốn hoặc làm điều gì đẹp lòng Đức Chúa Trời. Tâm lý loài người cũng tự biết tánh người đã sa vào tội lỗi bị hủ bại rồi, nếu không nhờ thần lực từ trời giáng hạ, quả không thể tự trở lại cùng Đức Chúa Trời được, đến đỗi cũng không có ý muốn tự trở lại cùng dân Ngài đâu. Các sự ước ao làm lành để đẹp lòng Đức Chúa Trời vốn do cảm tình mà ra. Nhưng cảm tình trong kẻ chưa được tái sanh vẫn còn xu hướng về điều dữ. Vậy làm sao kẻ ấy lại muốn làm lành được ư? Hẳn phải có thần quyền đổi mới cảm tình họ, thì tội nhơn mới có ý muốn lựa chọn sự thánh khiết và noi đường cứu rỗi. Có câu Kinh Thánh chứng: Giê 13:23; Rô 8:7

b)    Loài người hiệp tác với Đức Chúa Trời: Thuyết Arminius chủ trương rằng trong cuộc tái sanh loài người hiệp tác vơi Đức Chúa Trời mà được sanh lại. Đức Chúa Trời dùng cảm lực của lẽ thật mà hành động trong tội nhơn; còn tội nhơn, tuy thật yếu đuối, nhưng vẫn còn có năng lực thuộc linh đủ ở trong mình để hiệp tác với các thần cảm lực ấy mà công nhận sự cứu rỗi. Cái động cơ lớn khiến cho tội nhơn muốn hiệp tác với Đức Chúa Trời cho được cứu, là trong lòng người ham mến sự ích lợi của ơn cứu rỗi.

Song lời ấy tự thị nhi phi, bởi vì sự muốn được cứu rỗi đó chẳng phải do lòng ích kỷ mà ra. Còn lòng ích kỷ là tội lỗi; vậy lòng ấy vẫn chưa chịu khuynh hướng về Đức Chúa Trời đâu, chỉ mãi xu hướng về tội lỗi mà thôi. Mà sự tái sanh là đổi lòng ích kỷ ra lòng vô tư, khiến cho nó lại khuynh hướng về Đức Chúa Trời để làm sáng danh Ngài như xưa.

Vả, trong cuộc cứu rỗi loài người thật vẫn có phần riêng, là phải công nhận ơn cứu rỗi ấy. Song nếu không có công năng của Đức Chúa Trời khiến cho người tỉnh ngộ mà muốn được cứu, thì chính tội nhơn tự nhiên chẳng suy nghĩ đến bao giờ. Vì nếu họ vốn là “chết vì sự vi phạm và tội lỗi mình” , thì làm sao có sức gì để hiệp tác với Đức Chúa Trời hay là tự mình muốn làm điều gì vừa lòng Ngài được ư?

c)     Lẽ thật: Có kẻ luận rằng nguyên nhân trực tiếp của sự tái sanh là lẽ thật. Một khi tội nhơn đã thấu hiểu lẽ thật thì liền lập chí làm theo, rồi nhờ đó người được tái sanh, bỏ nẻo bất khiết mà khởi bước theo đường thánh khiết vậy.

Lẽ thật, như ta sẽ thấy, quả có quan hệ lớn đối với việc tái sanh (IIPhi 1:23; Gia 1:18; Êph 5:26); nhưng chẳng là nguyên nhân trực tiếp của biến động lạ lùng ấy đâu. Bởi vì tội nhơn vốn ghét lẽ thật của Đức Chúa Trời, tự nhiên chẳng muốn làm theo đâu; đến đỗi hễ người hiểu lẽ thật bao nhiêu, thì lại ghét nó bấy nhiêu. Nó “không phục luật pháp (lẽ thật) Đức Chúa Trời, lại cũng không thể phục được” (Rô 8:7). Thế thì lẽ thật ở ngoài công năng của Đức Chúa Trời chẳng có thể làm nguyên nhân của sự tái sanh được, vì người nào chưa nhờ Thánh Linh cảm hóa thì chẳng thừa nhận lẽ thật, cũng không bao giờ chịu tín phục nó nữa.

d)    Lễ Báp têm: Giáo hội La-mã dạy rằng người ta được tái sanh là nhờ lễ Báp têm (tức lễ rửa tội). Nhà tư tế (ông cố, ông cha) làm phép rửa tội cho ai, thì kẻ đó được tái sanh liền, dầu trước lòng chưa được cảm lực của Thánh Linh cải hóa ra mới cũng chẳng quan hệ gì; miễn nhà tư tế theo nghi văn của Giáo hội mà làm phép ấy cho, thì chắc được tái sanh không sai. Trong vòng Giáo hội Cải chánh cũng có những giáo phái hãy còn mê tín như thế. Họ thường viện dẫn Gi 3:5; Công 2:38; Côl 2:12 và Tít 3:5, để chứng thực cho sở kiến của họ. Ta xin biện bác ý kiến ấy mà luận quyết rằng:

(1)Tra xét Kinh Thánh cho kỹ càng, thì rõ lắm lễ báp têm là dấu hiệu bề ngoài làm chứng cho sự tái sanh đã thành công ở bề trong, chớ chẳng phải là chính công năng sanh lại đâu. Theo thứ tự của cuộc cứu rỗi tỏ ra trong Tân ước, thì rõ lắm sự tái sanh có trước, rồi sau mới chịu báp têm để chứng thực cho sự ấy. Nên trong Công 8:12 có câu: “Nhưng đến khi chúng tin Phi-líp giảng Tin Lành về nước Đức Chúa Trời và danh Jesus Christ, thì cả đờn ông đờn bà đều chịu báp têm” Kỳ thực theo IPhi 3:21, lễ báp têm bề ngoài chẳng cứu ta đâu, bèn là lương tâm quay lại cùng Đức Chúa Trời, tin cậy nơi Jesus Christ phục sanh mới có thể cứu ta được; lễ báp têm chỉ là tiêu hiệu cho việc quan hệ ấy thôi.

Có kẻ hỏi rằng: “Vậy thì lời Chúa Jesus phán: “Nếu người nào chẳng bởi nước và Thánh Linh mà sanh, thì không thể vào nước Đức Chúa Trời được”, thì có nghĩa gì?” Đáp: Chữ “nước” trong câu ấy chắc có nghĩa bóng chỉ về đạo (lời) của Đức Chúa Trời. Vì trong Êph 5:25,26 có chép rằng: “Christ đã yêu mến Hội Thánh, phó chính mình vì Hội Thánh, để sau khi đã dùng nước là đạo (lời) mà rửa cho tinh sạch, thì khiến hội nên thánh.” Ấy vậy, ý nghĩa của lời Chúa Jesus dạy Ni-cô-đem là như vầy: “Nếu người nào chẳng bởi đạo (tức lời Đức Chúa Trời) và Thánh Linh mà sanh, thì không thể vào nước Đức Chúa Trời”.

(2)Ý kiến nầy coi lễ báp têm là nguyên nhân của sự tái sanh cũng thật sai lầm, vì sự tái sanh là việc thuộc linh, quan hệ với linh tánh; còn lễ báp têm là việc thuộc thể, quan hệ với thân thể bề ngoài. Sự thay đổi bởi sự tái sanh mà ra đã là thuộc linh; còn nếu ta lại cho phương pháp phải dùng để gây nên sự ấy là thuộc thể thì đều ấy há chẳng mâu thuẫn sao? Lý tánh ta dạy rằng nếu Đức Chúa Trời muốn cải hóa linh tánh loài người, chắc phải dùng phương pháp tiếp xúc với xác thịt bề ngoài mà thôi, nên làm sao mà cải hóa linh tánh bề trong được? Thực vậy, sự cứu rỗi do lễ báp têm mà ra chẳng qua là một phương pháp cứu rỗi nhân tạo, thuộc về duy vật luận hơn là thuộc về đạo thuộc linh vậy.

e)    Đức Chúa Trời: Kinh Thánh dạy rõ ràng nguyên nhân của sự tái sanh là Đức Chúa Trời. Giăng chứng rằng kẻ được tái sanh “chẳng phải sanh bởi khí huyết, hoặc bởi tình dục, hoặc bởi ý người, nhưng bởi Đức Chúa Trời vậy” (Gi 1:13). Gia-cơ cũng dạy rằng: “Ngài (Đức Chúa Trời) theo ý chỉ mình dùng đạo chơn thật sanh chúng ta” (Gia 1:18).

(1)Là việc tái tạo: Ta được tái sanh, ấy là ta nhờ Đức Chúa Trời tái tạo ta, chớ chẳng phải bởi năng lực ta tự tu dưỡng, cũng không phải bởi ta sanh ra trong dòng dõi lương thiện, hoặc bởi văn minh giáo hóa của học đường và gia đình, hoặc bởi sự lập chí mà được đâu, duy là công việc siêu việt của Đức Chúa Trời ở trong lòng của ta đó thôi. Như ta sanh ra trong đời chẳng do năng lực riêng hay là ý chỉ của ta mà được nên thể nào, thì sự tái sanh ta cũng chẳng do năng lực riêng hay là ý chỉ ta mà được nên thể ấy. Bởi sự tái sanh chẳng những là luận về ý hướng và chí nguyện của người ta thôi đâu, bèn cũng là luận về tâm tánh và linh mạng của người ta nữa. Ta đã thấy Kinh Thánh chứng chắc rằng nguyên tánh và linh mạng của loài người vốn đã hư mất, đắm chìm trong tội lỗi, không thể chữa được. Nếu không có thần lực từ trời giáng hạ, không vào lòng người ta, thì người ta làm chi nổi? Ai đổi mới cho họ được ư?

(2)Đức Chúa Trời dùng hai cơ quan: Trong cuộc tái sanh Đức Chúa Trời dùng hai cơ quan đặng làm nên công việc lạ lùng ấy, tức là Thánh Linh và lời Kinh Thánh.

(a)Thánh Linh: Thần cơ quan trong cuộc tái sanh là Thánh Linh. Tít 3:5 có câu chứng rằng: “Ngài cứu chúng ta , không phải là bởi việc công nghĩa mà chính mình chúng ta đã làm, bèn là theo lòng thương xót Ngài, nhờ sự tắm rửa của sự tái sanh và sự đổi mới của Thánh Linh…” Còn trong Gi 3:5, Chúa Jesus dạy rằng kẻ được vào nước Đức Chúa Trời là kẻ “bởi… Thánh Linh mà sanh”.

(b)Lời Kinh Thánh: Cơ quan thứ hai là lời Kinh Thánh hay là đạo Đức Chúa Trời. Gia-cơ 1:18 có câu chứng rằng Đức Chúa Trời “theo ý chỉ mình dùng đạo (lời) chân thật sanh chúng ta.” IPhi 1:23 cũng dạy rằng, ta “được tái sanh, chẳng phải bởi giống hay mục nát, nhưng bởi giống chẳng hay mục nát, là bởi đạo (lời) Đức Chúa Trời, là đạo vẫn sống và còn luôn.” Còn Phao-lô cũng viết cho Hội Thánh Côrinhtô rằng: “Tôi ở trong Christ Jesus dùng Tin Lành mà sanh anh em ra” (ICô 4:15). Thánh Linh lấy đạo Đức Chúa Trời chép trong Kinh Thánh và bởi miệng đầy tớ Ngài truyền ra mà ứng dụng cho lòng tội nhơn, khiến cho người tỉnh ngộ. Ngài cũng soi sáng cho tâm trí để người có thể hiểu thấu đạo ấy được. Nếu tội nhơn mở lòng ra mà thừa nhận đạo ấy, thì chắc được tái sanh liền. Bằng chối bỏ, ắt không còn phương pháp khác khiến cho người đó được cứu. Tuy sự tái sanh là việc của Đức Chúa Trời làm ra ở trong lòng người ta, thì chính tội nhơn cũng có phận sự trong cuộc đó: ấy là khi nghe và hiểu đạo về sự cứu rỗi trong Christ, thì phải thừa nhận đạo và tín phục Christ, mới mong được tái sanh. Vì Chúa có dạy rằng: Gi 5:24.

Một người chết thật không có thể tự khiến cho mình sống lại; nhưng khi nghe tiếng của Christ bảo rằng: “Hãy ra”, thì mới có thể sống lại như Laxarơ xưa vâng theo lời phán bảo ấy mà bước ra vậy. Một tội nhơn nhờ Thánh Linh soi sáng cho cũng vậy; tuy không thể tự tái sanh mình được, nhưng quả có thể vâng theo lời phán bảo của Chúa mà công nhận sự cứu rỗi Ngài đã hứa ban cho kẻ có lòng tin.

5.    CHÂN TÁNH CỦA BIẾN ĐỘNG TÁI SANH.

a)    Sự tái sanh xảy ra nội trong một giây phút: Sự tái sanh là việc được nên trong giây phút. Trước khi tội nhơn chưa được tái sanh, thì vẫn tự biết tội mình, trong lòng buồn bực, sợ hãi vì biết Đức Chúa Trời là Đấng thánh khiết, hay đoán phạt kẻ đã xúc phạm đến đức tánh ấy. Cũng nhờ Thánh Linh ứng dụng lẽ thật ấy, tận tâm nương cậy nơi Ngài, thì tức thì trong giây phút tâm tánh được biến cải, mà mình được xuất tử nhập sanh. Nguyên xưa mình là tội nhơn, nay trong giây phút tội mình được tha. Nguyên xưa mình là con của ma quỉ, lưu lạc trong trũng tối tăm, nay trong chốc lát đã trở nên con cái của Đức Chúa Trời, được sang qua nước sáng láng Ngài. Tuy việc dọn lòng cho sự tái sanh là việc lần lần, thì chính sự tái sanh là việc xảy ra chỉ trong giây phút, mau như nháy mắt, chóng như trở tay. Sự cảm biết tội, sự tín phục lẽ thật, sự buồn bã vì tội, sự sợ hãi bị đoán phạt, đều là việc dọn lòng cả, chớ chẳng phải là chính việc tái sanh đâu. Chỉ khi tội nhơn nhờ ơn Đức Chúa Trời mà có lòng thật tín cậy đến Christ, thì liền được sự tái sanh đó thôi.

b)    Sự tái sanh là việc ẩn bí: Khi con ở trong lòng mẹ, được trưởng dưỡng thể nào, thì nào có ai cắt nghĩa được, bởi vì là việc rất huyền diệu! Mà sự mầu nhiệm của sự tái sanh càng lạ lùng hơn nữa, vì chẳng ai hiểu thấu nổi, vì là việc siêu việt rất huyền bí, vượt quá trí hiểu phàm tục vậy. Chúa Jesus phán: Gi 3:8

Vả, có khi người được tái sanh chưa chắc đã tự biết được chính lúc việc tái sanh thành công ở nơi mình. Ta thường đem vấn đề đó mà hỏi những tín đồ thuộc linh đã từng trải sự tái sanh, thì có người đem cảnh trạng lúc được tái sanh mà nói ra cách rõ ràng. Song cũng có nhiều người không biết rõ lúc nào mình được tái sanh và mình được tái sanh thể nào. Ấy tại vì công việc tái sanh là công việc ẩn nhiên của Thánh Linh thi hành ở nơi kín giấu của linh tánh bản ngã, nên có khi lấy làm khó cho người tự biết. Nhưng khá lưu ý điều nầy: đây chỉ luận về chính việc tái sanh, chớ chẳng luận về hiệu quả của sự tái sanh đâu. Hễ ai được tái sanh, chắc phải có hiệu quả minh chứng rằng mình đã là con cái của Đức Chúa Trời rồi. Bằng không, sợ e sự tái sanh ấy là giả mạo chăng. Độc giả hãy coi chừng kẻo e lẫn lộn hai ý kiến ấy chăng.

c)     Sự tái sanh là việc rất thần kỳ: Xưa kia đương khi Môi-se treo con rắn đồng lên trong đồng vắng, thì hễ ai đã bị rắn lửa cắn mà lấy đức tin ngó lên con rắn đồng ấy, thì liền được lành; ấy há chẳng phải vốn là thần kỳ thật đấy ư? Cũng một lẽ ấy, tội nhơn nhờ Thánh Linh cảm hóa, lấy đức tin nhìn xem Christ thì được tái sanh ngay. Điều ấy há chẳng càng thần kỳ muôn phần hơn nữa ư? Hễ cảm lực của Thánh Linh mà đến đâu khiến cho ai được tái sanh, thì thấy những thái độ trong tâm linh người đó đều biến cải liền tay: nguyên xưa dầu bị tội lỗi giam cầm, mà nay lại bỗng chúc có năng lực đắc thắng ngay. Xưa mãi vui chơi trong tội ác, nay lại ghét bỏ chán chê. Xưa khiếp sợ Đức Chúa Trời, nay lại đến gần Ngài, thương yêu Ngài, kêu Ngài bằng Cha. Xưa thì lăn lộn trong chốn ảm đạm của đời tội lỗi, nay lại được dời lên cõi vinh quang của Đức Chúa Trời, được “dự phần trong cơ nghiệp của các thánh đồ ở nơi sáng láng” (Côl 1:12). Tại cớ sao tội nhơn có sự từng trải lạ kỳ như thế? Ấy chỉ tại vì tâm tánh, ý hướng, và chí nguyện của linh hồn người đã biến cải hẳn hoi, khiến cho người trở một người thật mới vậy. Thật như Phao-lô đã nói: “Vậy, nếu ai ở trong Christ, thì nấy là người được dựng nên mới; những sự cũ đã qua đi, nầy mọi sự đều đã trở nên mới” (IICô 5:17).

Chương 6 – LUẬN VỀ SỰ XƯNG NGHĨA

TRONG đạo Tin Lành chẳng có lẽ đạo nào quan hệ hơn lẽ đạo xưng nghĩa. Vấn đề “người ta được công nghĩa đối với Đức Chúa Trời thế nào?” bao giờ cũng là rất quan hệ, rất thâm thúy, ai ai cũng muốn tìm hiểu cho cạn lẽ. Trải qua các đời có lắm người đã theo nhiều ý kiến khác nhau mà đáp cho vấn đề ấy. Kẻ nầy dạy rằng tội nhơn được xưng nghĩa duy bởi ân điển; kẻ kia quyết là bởi việc làm; kẻ khác lại chủ trương là do cả ân điển lẫn việc làm; kẻ khác lại chủ trương là do cả ân điển lẫn việc làm mà được nên. Vậy, lấy làm rất cần thiết cho tín đồ hiểu đúng đắn về lẽ đạo nầy chẳng những vì chính đạo xưng nghĩa là quan hệ thôi đâu, lại là vì đạo ấy có tương quan mật thiết với các lẽ đạo khác của Cơ đốc giáo, bởi chưng hễ ta tín nhận sai về đạo xưng nghĩa, đến đỗi hiểu lầm về duyên cớ và cách thức mà Đức Chúa Trời công nhận mình là con cái của Ngài, thì ắt cũng nhận sai và hiểu lầm các lẽ đạo kia nữa.

Vả, lẽ đạo nầy thật mầu nhiệm, trí ngộ người không thể tự dò thấu được, ơn ấy sâu rộng, tài phàm chẳng sức nào giải quyết nổi; ở ngoài sự khải thị của Kinh Thánh, chúng ta tự nhiên chẳng có nguồn khác để kê cứu đến vấn đề cực cao ấy. Vậy, lần nầy chúng ta cũng chỉ nhờ Kinh Thánh làm giáo sư đặng lần lượt khảo cứu qua lẽ đạo nầy.

I. ÐỊNH NGHĨA SỰ XƯNG NGHĨA

Sự xưng nghĩa, ấy là Đức Chúa Trời nhơn công lao của Christ mà tuyên bố tội nhơn là công nghĩa, coi người không còn đáng bị hình phạt của luật pháp nữa, nhưng đã hườn nguyên vị mà được ơn của Ngài như lúc ban đầu. Tội nhơn được ơn như thế, là tại vì đã lấy đức tin mà liên hiệp với Christ ở trong sự sống, sự chết, và sự sống lại của Ngài. Công tác diệu kỳ nầy quan hệ với địa vị của tội nhơn ở trước mặt Đức Chúa Trời. Trước kia tội nhơn đứng trong địa vị mắc tội, nghịch thù với Đức Chúa Trời, bị án chết. Nhưng nhờ sự xưng nghĩa, Đức Chúa Trời bèn chuyển biến địa vị ấy, đem người ra khỏi địa vị phạm phép và mắc tội của người cũ mà dời qua địa vị hợp pháp và vô tội của Christ; và nhơn vì công lao của Christ ở thập tự giá, thì Ngài hòa lại với người, cho người được trắng án, kể người là công nghĩa, coi người ở trong Christ như kẻ chẳng hề phạm tội, và ban ơn cho người được phận làm con của Ngài.

Sự tái sanh quan hệ với việc cải hóa tâm tánh của tín đồ; sự xưng nghĩa quan hệ với sự chuyển biến tâm địa của người ở trước mặt Đức Chúa Trời. Cái nầy thuộc về phương diện chủ quan, cái kia thuộc về phương diện khách quan. Sự xưng nghĩa chẳng phải là Đức Chúa Trời khiến cho tội nhơn trở nên công nghĩa đâu, bèn là tuyên bố người là công nghĩa vậy. Sự khiến cho tâm tánh trở nên công nghĩa là việc làm nên ở bề trong và thuộc về sự nên thánh; sự xưng nghĩa là việc quan hệ với bề ngoài và thuộc về việc dọn đường cho sự ấy. Sự tái sanh là kết cuộc của sự liên hiệp với Christ, còn sự xưng nghĩa lại do sự liên hiệp ấy mà được nên. Khi tội nhơn được xưng nghĩa, thì từ địa vị bất nghĩa và mắc tội của người cũ mà được dời qua địa vị công nghĩa và vô tội của Christ. Khi ấy tâm tánh người chưa có sự công nghĩa gì hết, nhưng Đức Chúa Trời nhân đức tin của người đến Christ mà kể người là công nghĩa; rồi từ lúc ấy về sau Ngài nhờ cảm lực của Thánh Linh mà khiến cho tâm tánh người từng trải sự công nghĩa xứng hiệp với địa vị công nghĩa mà người đã hưởng được ở trong Christ. Việc ấy gọi là sự nên thánh, có căn cứ ở nơi sự xưng nghĩa vậy.

II. BẰNG CHỨNG CỦA SỰ XƯNG NGHĨA

Kinh Thánh có đầy dẫy những bằng cớ minh chứng cho đạo xưng nghĩa. Xin chỉ luận qua hai thứ mà thôi.

1.    MINH VĂN KINH THÁNH

Kinh Thánh có nhiều đoạn sách minh huấn về đạo Đức Chúa Trời xưng tội nhơn là người công nghĩa. Đây xin kể lại vài chỗ: Rô 1:17; Rô 3:24-30; Ga 3:11,12; Êph 1:7 ; Hê 11:4,7. Cũng xem Sáng 15:6; Ês7:9; 28:16; Ha 2:4.

Xem những câu ấy và rất nhiều đoạn sách khác, thì rõ lắm lẽ đạo xưng nghĩa chẳng phải là sự mơ tưởng quá cao xa của người ta đâu, bèn là lẽ thật bởi Đức Chúa Trời nhờ công việc của Christ mà khải thị cho. Sự xưng nghĩa nầy là khởi điểm của con đường cứu rỗi chẳng do hoặc sự tu nhơn tích đức, hoặc tánh tốt nết lành mà được nên, duy do đức tin đến công lao của Christ làm ra ở nơi thập tự giá mà được nên đó thôi. Nhờ sự xưng nghĩa do Đức Chúa Trời đổi thái độ đối với tội nhơn, kể người là công nghĩa, tái sanh người, nhận người làm con cái của Ngài. Còn tội nhơn nhờ các việc ấy mà kết quả sự vâng giữ luật pháp, tín phục luân lý cao thượng, ăn ở theo đời đạo đức và cả ý hướng, chí nguyện của tâm tánh người đều lấy Đức Chúa Trời làm đối tượng duy nhứt của mình.

2.    CÁCH DÙNG ĐỘNG TỪ “XƯNG NGHĨA” VÀ DANH TỪ “SỰ CÔNG NGHĨA”

Cách Kinh Thánh dùng động từ xưng nghĩa và danh từ sự công nghĩa minh chứng cho đạo xưng nghĩa như sau đây:

a)    Động từ xưng nghĩa: Cả Cựu ước và Tân ước đều dùng động từ xưng nghĩa, và nghĩa đen của động từ ấy chẳng chỉ về việc khiến người ta trở nên công nghĩa, bèn chỉ về việc tuyên bố người ta là công nghĩa rồi vậy.

(1)Trong Cựu ước: Trong các đoạn sách viện dẫn dưới đây nguyên văn Hê-bơ-rơ đều dùng một chữ mà bản Việt ngữ dịch là xưng nghĩa (cũng có vài chỗ dịch khác, nhưng vẫn đồng nghĩa). Xuất 23:7; Phục 25:1; Gióp 27:6; Thi 143:2; Châm 17:15; Ês 5:23; Ês 50:8; Ês 53:11

(2)Trong Tân ước: Trong các câu viện dẫn dưới đây nguyên văn Hi-lạp cũng dùng một chữ mà bản Việt ngữ dịch là xưng nghĩa: Ma 12:37; Lu 7:29; Lu 10:29; Lu 16:15; Lu 18:14; Rô 4:6-8; Rô 5:18-19; Rô 8:33-34; Rô 16:7; ICô 4:4; IICô 5:19,21; Gia 2:4,23,24

Ý nghĩa các câu ấy, hoặc trong Cựu ước hay Tân ước, đều là một mà thôi: ấy là, động từ xưng nghĩa chẳng chỉ về việc làm cho ai trở nên công nghĩa trong tâm linh đâu, bèn chỉ về việc việc tuyên bố người là công nghĩa, không mắc tội, không đáng bị hình phạt nữa, nhưng tợ hồ kẻ đã từng ra trước tòa tài phán mà được trắng án rồi vậy. Cũng xem Rô 4:25; 5:16,18.

b)    Danh từ sự công nghĩa: Tân ước, nhứt là trong các thơ tín của Phao-lô, thường dùng danh từ sự công nghĩa để chỉ về địa vị của người nào đã được xưng nghĩa ở trước mặt Đức Chúa Trời rồi. Khi tội nhơn tin Jesus Christ làm Cứu Chúa mình, thì Đức Chúa Trời kể người ấy là công nghĩa, và nhờ việc kể công nghĩa đó Đức Chúa Trời dời người từ địa vị bất nghĩa của người cũ sang qua địa vị công nghĩa của người mới là Christ. Những câu dẫn dưới đây dạy rõ lẽ đạo ấy. Rô 8:10

Địa vị của người cũ là cõi chết, kẻ ở trong đó thảy đều “chết vì sự vi phạm và tội lỗi mình”. Còn địa vị của người mới là Christ lại là cõi sống, hễ ai ở trong đó đều được sống. ICô 1:30

Thế thì, chỉ ở trong Christ mà tội nhơn được kể là công nghĩa. Đức Chúa Trời đòi hỏi sự công nghĩa ấy ở nơi tội nhơn, mà đồng thời cũng dự bị luôn sự ấy cho nữa; còn tội nhơn sở dĩ nhận lãnh được sự ấy là chỉ bởi đức tin. Dân Y-sơ-ra-ên xưa thử lập ra sự công nghĩa riêng, không khứng nhận địa vị công nghĩa của Đức Chúa Trời sắm sẵn cho ở trong Christ, nên bị bỏ. Phao-lô chép:

Rô 10:3,4. “Bởi họ không biết sự công nghĩa của Đức Chúa Trời (là địa vị công nghĩa trong Christ), mà tìm cách lập công nghĩa riêng của mình, nên họ không phục sự công nghĩa của Đức Chúa Trời (là họ chối bỏ Christ, không nhận Ngài là phương pháp cứu rỗi duy nhứt). Vì Christ là sự kết cuộc của luật pháp để đưa mọi kẻ tin đến sự công nghĩa”.

Vả, danh từ sự công nghĩa cũng có địa vị bề trong của tâm tánh đạo đức của người đã được xưng nghĩa. Bởi vì khi được xưng nghĩa, thì tâm linh tội nhơn liền từng trải sự biến cải, rồi kết quả là hành vi cử chỉ đều thay đổi, đến nỗi sự công nghĩa của Christ mà Đức Chúa Trời ban cho đó trở nên một động cơ rất mạnh mẽ để khiến cho người ăn ở cách thích hiệp với sự công nghĩa ấy. Các câu dưới đây chứng cho ý nghĩa ấy: Rô 14:17

ICô 5:21. “… hầu cho chúng ta ở trong Ngài (địa vị công nghĩa) được trở nên sự công nghĩa của Đức Chúa Trời” (tức kết quả sự công nghĩa trong hành vi cử chỉ của mình). Ma 3:15; Công 10:35; Rô 6:13

Khá nhớ luôn rằng sự công nghĩa tỏ ra trong hành vi cử chỉ của tín đồ, bao giờ cũng là do việc xưng nghĩa mà ra. Vì hễ ai chưa được Đức Chúa Trời xưng nghĩa cho, cũng chẳng có thể làm việc gì đáng gọi là công nghĩa được bao giờ.

III. YẾU TỐ CỦA SỰ XƯNG NGHĨA

Sự xưng nghĩa có hai yếu tố quan hệ, tức là sự xá miễn hình phạt của tội; và sự hườn nguyên vị.

1.    XÁ MIỄN HÌNH PHẠT CỦA TỘI.

Yếu tố thứ nhứt của sự xưng nghĩa là Đức Chúa Trời xá miễn hình phạt về tội lỗi của người bất kỉnh đã có lòng tin đến Christ và tuyên bố người là công nghĩa. Sự tuyên bố ấy chẳng nói rằng tội nhơn là vô tội, vì ấy phản đối với lẽ thật; bèn chỉ tuyên bố rằng tội nhơn đã ở trong Christ chịu xét đoán rồi, điều luật pháp đòi ở nơi người, thì người nhờ Christ đã đền trả xong cả, nên người mới được xá miễn hình phạt, không bị dưới tội án nữa. Có câu chứng cho lẽ thật ấy. Rô 4:5; Rô 5:1. Cũng xem Gi 3:16

Sự xá miễn nầy ta thường gọi là sự tha tội. Về phương diện làm Đấng Chấp pháp thì Đức Chúa Trời xá miễn hình phạt của tội ta. Về phương diện làm Cha thì Ngài ban ơn tha tội cho ta, công nhận ta làm con cái của Ngài, yêu thương ta, đãi ta như Cha con vậy. Có câu chép: Mi 7:18; Thi 130:4

Sự xá miễn hình phạt và sự tha thứ tội lỗi chẳng phải do việc riêng nào của tội nhơn đã làm ra để phu phỉ luật pháp mà được đâu bèn chỉ do công lao của Christ chịu hình phạt ấy thế cho người mà được đó thôi. Cho nên, nói một lời, yếu tố thứ nhứt của sự xưng nghĩa là Đức Chúa Trời nhơn vì công lao của Christ mà tha tội cho tội nhơn, giải phóng người khỏi quyền hình phạt của luật pháp, và ban cho người đứng trong địa vị công nghĩa trọn vẹn của Christ vậy. Các câu dẫn dưới đây minh giải lẽ đạo ấy. Công 13:38,39; Rô 3:24,26; ICô 6:11; Êph 1:7

Việc xưng nghĩa là việc thuộc về sự tài phán: tín đồ là phạm nhơn; Đức Chúa Trời là Quan tòa; Christ là Trạng sư và Chứng giả. Ngài biện hộ phạm nhơn, đem cả công lao của Ngài mà đền bồi tội lỗi cho người, chứng thực rằng người bất nghĩa nầy đã được ở trong Ngài mà hưởng cả sự công nghĩa của Ngài. Còn tòa án Trời công nhận lời biện hộ và tá chứng ấy là phải, bèn theo lẽ công bình mà ân xá người, nhơn vì Christ mà tuyên bố người là công nghĩa vậy. Nên Phao-lô chép: Rô 3:33,34. Cũng xem Dân 23:21; Xa 3:2; Thi 105:15

2.    SỰ HƯỜN NGUYÊN VỊ.

Tội nhơn đã được xưng nghĩa rồi, bèn được hườn nguyên vị. Việc ấy có ba phần:

a)    Nhận lãnh sự công nghĩa của Christ: Sự xưng nghĩa không những là xá miễn hình phạt của tội lỗi thôi đâu, lại cũng ban cho người sự công nghĩa của Christ nữa. Về một mặt thì tội nhơn nhờ cậy khổ hình của Christ mà được thoát khỏi tội hình; về một mặt khác thì cũng nhờ cậy Christ làm trọn luật pháp mà nhận lãnh sự công nghĩa của Ngài. Như thế, Đức Chúa Trời chẳng những là kể người là vô tội, mà lại cũng kể người là công nghĩa chẳng khác chi chính người đã tuân thủ luật pháp trọn vẹn vậy. Thế thì, tội nhơn nhờ khổ hình của Christ mà được thoát khỏi tội hình; lại cũng vì việc công nghĩa của Christ đã làm mà người được phần thưởng tuân pháp vậy. Có câu chứng rằng: Lu 15:22-24

Áo tốt nhứt đó chỉ bóng về sự công nghĩa của Christ mà Cha mặc cho tội nhơn biết ăn năn. Gi 3:16; Rô 5:1,2

“Ân điển nầy” là địa vị vĩnh định của tín đồ hằng cư trú để thừa nhận các hạnh phước do đó mà ra. ICô 1:30; IICô 5:21. Cũng xem Ga 3:6; Êph 2:7; 3:12; Phil 3:8,9; Côl 1:21; Tít 3:4,7; Khải 19:8.

b)    Được phục hòa với Đức Chúa Trời: Kẻ được xưng nghĩa chẳng những là được tha tội, bèn là cũng được hườn địa vị nguyên hữu của mình. Ví dụ như một người phạm pháp kia bị tù. Đến khi mãn hạn được tha về vì đã chịu khổ sai đền tội rồi. Dầu vậy, người vẫn chưa được hườn nguyên vi đâu, còn hổ thẹn vì chữ ô danh nan thục. Cũng có lẽ vì cớ đó mà người xa lánh bạn hữu, mất luôn quyền công dân, không biết chạy phương nào hầu mong cứu vãn. Ấy là bởi người đã mất địa vị nguyên hữu rồi vậy. Nhưng nếu phạm nhơn được Tổng thống ân xá cho thì lại ra khác, vì người không những là thoát khỏi hình phạt, mà lại còn được hườn lại nguyên vị; bởi chưng chỉ dụ ân xá ấy gồm lại cả hai ơn tha tội và hườn địa vị nguyên hữu cho phạm nhơn nữa, đến đỗi người được lại các quyền lợi công dân như cũ. Ấy đó là điều Đức Chúa Trời làm cho chúng ta khi Ngài xưng nghĩa cho chúng ta. Ngài không những vì cớ công lao Christ mà kể chúng ta đã đền tội rồi, nhưng Ngài còn hườn lại địa vị nguyên bổn của chúng ta, như con hoang đàng kia đã hồi đầu về cha, không những là tội được tha, mà cũng được hườn lại địa vị làm con như xưa (xem Lu 15:22-24 như trưng dẫn trên). IICô 5:19; Côl 1:21,22

c)     Được phận làm con: Khi Đức Chúa Trời hườn nguyên vị cho tội nhơn, thì không những là mặc cho họ sự công nghĩa của Christ, và phục hòa với người thôi đâu, lại ban cho người phận làm con của Ngài nữa. Sự tái sanh là khởi điểm của sự sống mới ở trong linh hồn; sự xưng nghĩa là Đức Chúa Trời đổi thái độ đối với tội nhơn, ban cho người được phận làm con và được quyền bính thuộc gia tộc của Đức Chúa Trời, đến đỗi hưởng được các đặc quyền của thân phận ấy. Nói cách khác, sự tái sanh luận về sự biến cải bản tánh ta; sự xưng nghĩa luận về cuộc biến chuyển địa vị ta; sự nên thánh luận về sự biến cải tánh hạnh ta; còn sự được phận làm con luận về sự thừa nhận các đặc quyền của địa vị con cái Đức Chúa Trời. Khi tín đồ được tái sanh thì trở nên con cái Đức Chúa Trời (Gi 1:12,13); lúc nhận được phần làm con thì lại hưởng được bực con trưởng thành trong nhà Cha vậy (Ga 4:1-7).

(1)Định nghĩa: Sự được phận làm con nghĩa đen là đặt làm con trong nguyên văn vốn một pháp ngữ La-mã mà nhà tài phán thường dùng để gọi người nào được ai nhận làm con. Dân Do Thái không biết đến việc ấy, vì ấy chỉ là việc làm theo thói quen của nước La-mã mà thôi. Trong các thơ tín của Phao-lô, ngôn từ ấy dùng nói về việc Đức Chúa Trời ban cho người đã được tái sanh cả đẳng cấp lẫn quyền lợi của con trưởng thành trong nhà. Tín đồ không những nhờ sự tái sanh mà được thuộc trong gia tộc của Đức Chúa Trời, lại nhờ sự được phận làm con mà hưởng các quyền lợi và kế thừa của con trưởng ở trong nhà cha vậy. Có câu Kinh Thánh dạy về phận làm con viện dẫn như sau đây: Ga 4:5; Rô 8:15; Rô 9:4; Êph 1:5; Rô 8:17. Cũng xem Xuất 2:10 và Hê 11:24

(2)Khởi điểm của phận làm con: Theo Êph 1:4,5, thì Đức Chúa Trời từ trước vô cùng đã dự định cho tín đồ sẽ nhận được phận làm con. Nhưng tín đồ chỉ nhận được ơn ấy khi họ tín nhận Christ làm Cứu Chúa của mình. Kinh Thánh dạy rằng: IGi 3:2; Ga 3:26

Tín đồ hiện nay là con cái của Đức Chúa Trời. Dầu điều ấy là huyền diệu dường nào, thì lại cũng là thật sự dường ấy. Khi được tái sanh thì tín đồ chỉ là con đỏ trong Chúa; nhưng nhờ ơn nhận phận làm con thì hưởng được bực con trưởng thành ở trong nhà Cha vậy. Cũng xem Hê 5:11-14; 6:1-3; ICô 3:1

(3)Sự hoàn thành của phận làm con: Sự được phận làm con sẽ hoàn thành khi Chúa Jesus Christ tái lâm và thân thể ta được sống lại. Phao-lô dạy rằng: Rô 8:23

Thế gian chẳng nhìn nhận ta là con cái Đức Chúa Trời đâu; nhưng một ngày sau đây ta sẽ cải trang, bày rõ hết chơn tánh ta, đến đỗi cả vũ trụ sẽ biết rằng ta quả là con cái của Vua trên các vua vậy. Sứ đồ Giăng cũng dạy: IGi 3:1-3

(4)Hạnh phước của phận làm con: Các hạnh phước do phận làm con mà ra rất nhiều và phiền phức, đây xin kể lại một ít mà thôi:

a)    Được Đức Chúa Trời thương yêu cách đặc biệt: Gi 17:23

b)    Được Cha săn sóc cách riêng: Lu 12:27-33

c)     Được xưng bằng danh Cha: IGi 3:1; Êph 3:14,15

d)    Được giống như hình trạng của Anh Cả: Rô 8:29

e)    Được lòng yêu mến người thuộc gia tộc của Cha: Gi 13:35; IGi 3:14

f)      Được tâm linh của phận làm con lớn: Rô 8:15; Ga 4:6

g)    Được lòng hay vâng lời Cha: Gi 14:23,24

h)    Chịu Cha sửa trị: Hê 12:5-11

i)      Được Cha an ủi: Ês 66:13; IICô 1:4

j)      Được kế thừa cơ nghiệp của Cha: I Phi. 1:3-5; Rô 8:17

IV. SỰ HỒ NGHI VỀ VẤN ÐỀ XƯNG NGHĨA

Có nhiều người hồ nghi về lẽ đạo xưng nghĩa. Họ luận rằng, Đức Chúa Trời chắc không thể kể người bất nghĩa là công nghĩa được; ấy quả là vấn đề mơ tưởng hư hoặc đó thôi. Ta xin biện luận qua lời dị nghị ấy.

1.    NGƯỜI ĐƯỢC KỂ LÀ CÔNG NGHĨA, HÁ QUẢ LÀ NGƯỜI CÔNG NGHĨA THẬT Ư?

Vấn đề nầy rất quan hệ: người nào vì đợi giá của Christ mà được xưng nghĩa há có phải thật đáng gọi là người công nghĩa ư? Tánh nết người há quả là thánh thiện thuần lương, xứng hiệp với địa vị công nghĩa ở trong Christ chăng?

Muốn trả lời cho vấn đề ấy, chúng ta cần nhớ lại đạo xưng nghĩa chẳng phải là khiến cho tâm tánh ai trở nên công nghĩa đâu, bèn là tuyên bố rằng Đức Chúa Trời kể người ấy là công nghĩa, vì tội người đã được tha, nguyên án người đã được thủ tiêu. Từ đó, tuy tội nhơn được đứng trong địa vị mới ở trước mặt Đức Chúa Trời nhưng chưa phải là trong sạch không tì vít, trọn tốt, trọn lành đâu. Kinh Thánh cũng dạy rằng, “chẳng có ai công nghĩa, dầu một người cũng không… Chẳng ai làm lành, dầu một người cũng không” (Rô 3:10-12). Cho nên sự xưng nghĩa chỉ luận về việc Đức Chúa Trời đem dời tội nhơn từ địa vị bất nghĩa của người cũ sang qua địa vị công nghĩa của người mới là Christ. Việc ấy là khởi điểm về công việc của Thánh Linh làm ở trong lòng ta, để khiến cho ta trở nên thánh sạch trọn vẹn. Sự kết quả của việc xưng nghĩa bao giờ cũng là sự nên thánh ấy đâu. Dầu vậy, trong lúc được xưng nghĩa tín đồ nhờ ân điển của Đức Chúa Trời và đợi giá của Christ mà được kể là người công nghĩa ở trước mặt Đức Chúa Trời, không còn đáng bị tử hình mà luật pháp đã định cho phạm nhơn nữa.

2.    LÀM SAO ĐỨC CHÚA TRỜI KỂ TỘI NHƠN LÀ CÔNG NGHĨA ĐƯỢC?

Kìa, tín đồ dầu là người đã tin Chúa Jesus Christ, cũng vẫn còn có tội lỗi dính dấp. Vậy, Đức Chúa Trời vốn rất phản đối tội lỗi, làm sao lại kể người bất nghĩa là công nghĩa? Họ đã phạm luật pháp thánh của Ngài, thì lẽ nào Ngài lại không phạt họ ngay? Cớ sao Ngài không những không lên án cho họ, mà lại còn ban ân điển cho ư? Làm vậy thì công đạo ở đâu? Kể một tội nhơn là vô tội, thì thiên lý ở đâu? Coi người bất nghĩa là công nghĩa, há chẳng phản đối với đức tánh thánh khiết của Đức Chúa Trời ư?

Chúng ta chỉ nhờ Kinh Thánh mà đáp lẽ cho vấn đề nầy; ngoài Kinh Thánh ra chẳng có sự lý gì mà giải nghĩa được, Kinh Thánh dạy rằng Đức Chúa Trời xưng tội nhơn là công nghĩa bởi ba cớ sau đây:

a)    Christ thế vị tội nhơn mà chịu hình phạt của tội: Hình phạt mà luật pháp thánh đã định giá cho tội nhơn, thì Christ đã chịu thế cho họ cả rồi. Giả như người kia mắc một số nợ quá lớn, chẳng có thể trả được; nhưng có một nhà từ thiện giàu có thương xót kẻ mắc nợ đó, đem trả nợ thế cho người. Nhờ đó kẻ mắc nợ không những là khỏi phải lo trả mối nợ tội lỗi tác đó đâu, mà lại là kẻ không còn mắc nợ ai nữa. Cũng vậy, Christ bởi sự chịu khổ và chết trên thập tự giá đã trả hết nợ ta, đền cả tội ta; nên chúng ta không những thoát khỏi phải tội hình, mà cũng được kể là công nghĩa đối với luật pháp thánh kia nữa. Kinh Thánh dạy rằng: Ga 3:13; Rô 8:3; Rô 3:26

b)    Tội nhơn được liên hiệp với Christ: Tội nhơn tin đến Chúa Jesus Christ thì được liên hiệp với Ngài, đến đỗi sự sống của Ngài trở nên hoạt lực cai trị đời sống của người mọi bề. Sự liên hiệp ấy là tín đồ đứng ở trong địa vị của Christ, mặc lấy Ngài cùng sự công nghĩa Ngài như mặc áo xống vậy. Đồng thời với lúc được xưng nghĩa đó, thì cũng được tái sanh bởi Christ nữa, và kết cuộc sự ấy bao giờ cũng là sự nên thánh, tức sự công nghĩa thực nghiệm vậy. Phao-lô chứng rằng: Ga 2:20

c)     Năng lực sự sống của Christ ở trong tội nhơn: Khi tội nhơn được xưng nghĩa thì được tái sanh, hưởng được sự sống của Christ ở trong lòng. Năng lực của sự sống ấy lần lần mà chắc chắn sẽ trừ khử sự hủ bại của tâm tánh còn lại, đến đỗi cả thiên tánh và linh tánh đều thích hiệp với đức tánh thánh khiết của Đức Chúa Trời. Khi tội nhơn mới tin Chúa, thì chẳng có sự thánh khiết gì cả. Nhưng Đức Chúa Trời thấy sự cuối cùng của người ấy ở trong Christ sẽ là thánh khiết trọn vẹn; cho nên Ngài vì đức tin người mà dời người từ địa vị tội lỗi sang qua địa vị công nghĩa, kể người là công nghĩa ở trong Christ, ban cho người sự sống của Ngài, hầu cho nhờ hoạt lực ấy Ngài có thể khiến cho người trở nên công nghĩa và thánh khiết thực nghiệm vậy. Thế thì, sự xưng nghĩa là cái cửa mở đường cho Đức Chúa Trời có thể hành động trong tội nhơn mà ứng dụng cho họ cả linh nghiệm của sự cứu rỗi, đến đỗi người chẳng những là được đứng trong địa vị công nghĩa thôi đâu, nhưng lại có chính địa vị ấy ở trong lòng nữa. Kinh Thánh dạy rằng: Phil 3:21; Côl 3:1-4

Nói tóm lại, chúng ta được xưng nghĩa chẳng tại đợi giá và công lao riêng của ta, bèn là chỉ tại đợi giá và công lao của Christ đó thôi. Cái cơ chỉ của sự xưng nghĩa là công việc của sự công nghĩa của Ngài. Vì Ngài là Đầu của dòng giống người mới, bao hàm trong Ngài mọi tín đồ làm chi thể của Ngài, nên mọi công việc nào Ngài đã làm, Đức Chúa Trời kể là của họ. Tội của A-đam đổ cho ta, chẳng phải vì A-đam ở trong ta, bèn là vì ta vốn ở trong A-đam. Thì cũng một lẽ ấy, sự công nghĩa của Christ được kể cho ta, chẳng phải vì Christ vốn ở trong ta, bèn vì ta ở trong Christ, liên hiệp với Đấng có công nghĩa trọn vẹn vượt qua mọi sự cần dùng của ta. Theo ý ấy ta có thể nói rằng, ta nhờ Christ ở ngoài ta mà được xưng nghĩa; cũng nhờ Christ ở trong ta mà được nên thánh.

Kinh Thánh có dạy về ba thứ “sự kể cho”, tức là (1) Đức Chúa Trời kể tội của nguyên tổ cho ta; (2) Đức Chúa Trời kể tội ta cho Christ; và (3) Đức Chúa Trời kể sự công nghĩa của Christ cho ta. Cái thể thức của sự xưng nghĩa là “chúng ta ở trong Christ” được Đức Chúa Trời kể sự công nghĩa của Christ cho ta; còn cái thể thức về sự nên thánh là “Christ ở trong chúng ta”, khiến chúng ta được nên công nghĩa thực nghiệm. ITi 1:14; ITi 3:16; Công 13:39; Rô 4:25; Êph 1:6; ICô 6:11; Rô 5:1,2

V. SỰ XƯNG NGHĨA QUAN HỆ VỚI ÐỨC TIN

Chúng ta được xưng nghĩa chẳng phải vì ta có lòng yêu thương Đức Chúa Trời hay là có tâm đức gì khác, bèn chỉ tại vì ta có đức tin đến Christ đó thôi.

1.    KINH THÁNH LÀM CHỨNG

Kinh Thánh dạy rõ lắm rằng tội nhơn được xưng nghĩa bởi đức tin: Sáng 15:6; Hê 11:7; Rô 1:17; Rô 3:24-28; Ga 3:11

2.    Ý NGHĨA VỀ SỰ ĐƯỢC XƯNG NGHĨA BỞI ĐỨC TIN

Vả, sự được xưng nghĩa bởi đức tin có nghĩa gì? Xin đáp:

a)    Lấy đức tin mà nhận lãnh ơn cứu rỗi của Đức Chúa Trời: Được xưng nghĩa bởi đức tin là tội nhơn lấy đức tin mà nhận lãnh ơn cứu rỗi của Đức Chúa Trời. Đức tin thật là cần yếu cho kẻ được xưng nghĩa, nhưng không thể gọi là nguyên nhơn của sự cứu rỗi. Bởi nguyên nhơn của sự cứu rỗi toàn là tại ân điển của Đức Chúa Trời và công lao của Jesus Christ. Nên Kinh Thánh cũng thường nói chúng ta được cứu bởi ân điển, được xưng nghĩa bởi đợi giá của huyết báu của Christ. Chúng ta chỉ lấy đức tin làm cánh tay giơ ra để nhận lãnh công ơn ấy thôi.

Vả, có kẻ hỏi rằng: Kinh Thánh dạy rằng tội nhơn được cứu bởi ân điển của Đức Chúa Trời, lại nói rằng được cứu bởi công đức của Jesus Christ, cũng nói rằng được cứu bởi đức tin; vậy ba câu ấy há chẳng phản đối nhau sao? Ta đáp rằng: Không; ơn cứu rỗi thật là do Đức Chúa Trời ban cho; công đức cứu rỗi quả làm nên bởi Jesus Christ; còn chúng ta chỉ nhận lãnh công ơn ấy chỉ bởi đức tin đó thôi. Sự được xưng nghĩa giống như sự chữa bịnh. Việc chữa bịnh có ba phương diện: (1) bởi công ơn thầy thuốc; (2) bởi công hiệu thuốc thang; (3) bởi bịnh nhơn tin cậy mà dùng thuốc đúng theo lời thầy thuốc đã dặn. Công việc chúng ta được xưng nghĩa cũng vậy.

b)    Lấy đức tin mà kết hiệp cùng Christ: Sự được xưng nghĩa bởi đức tin lại là lấy đức tin mà tin cậy nơi công lao và đợi giá của Christ, được Đức Chúa Trời kể địa vị công nghĩa trọn vẹn của Ngài là của chúng ta. Ví dụ cô gái nghèo khổ kia, một mai được gả cho một người chồng giàu có. Hễ một khi đã làm lẽ hôn phối rồi, thì nàng liền trở nên một bà nhà giàu, hưởng được đồng đẳng địa vị với chồng. Chúng ta vốn nghèo khổ yếu đuối, cũng chỉ lấy đức tin mà kết hiệp với Christ, thì liền được đồng đẳng địa vị với Ngài, hưởng được các phẩm đức danh giá của Ngài. Phao-lô dạy rằng: IICô 8:9

Chúng ta sở dĩ được dự phần đến sự công nghĩa của Christ, là chỉ tại vì lấy đức tin mà kết hiệp với Ngài, thì liền được Đức Chúa Trời kể địa vị công nghĩa của Ngài là của chúng ta vậy.

3.    ĐIỀU KIỆN CỦA SỰ XƯNG NGHĨA LÀ ĐỨC TIN

Nói rằng tội nhơn được xưng nghĩa chẳng phải bởi tình yêu thương, chẳng phải do sự vâng phục, chẳng phải vì cậy công đức riêng gì, thì là nghĩa làm sao? Đáp: Ấy vì tội nhơn chỉ lấy đức tin mà nhận lãnh ân điển nhưng không của Đức Chúa Trời và công đức tối thượng của Jesus Christ, chẳng cần trả giá gì hết. Từ xưa đến nay lắm người đã tận tâm tìm kiếm đường dẫn đến sự công nghĩa. Người nầy cậy luật pháp, kẻ kia lập công đức, cốt để trở nên công nghĩa ở trước mặt Đức Chúa Trời. Nhưng thảy đều hư không cả. Vì sự được xưng nghĩa là tặng phẩm của Đức Chúa Trời ban cho, chớtội nhơn dầu đem sự giàu có của cả thế gian, công đức của cả loài người để mua chuộc, thì cũng chẳng được gì cả. Kinh Thánh dạy rõ lắm rằng nếu chúng ta nhờ một mảy công đức riêng gì của mình để làm đợi giá cho được ơn cứu rỗi, thì quả chẳng được gì cả, vì sự cứu rỗi chỉ là ân tứ của Đức Chúa Trời ban cho nhưng không đó thôi. Như Phao-lô dạy rằng: “Nhưng nếu bởi ân điển thì chẳng phải bởi việc làm nữa; bằng chẳng, thì ân điển không phải là ân điển nữa” (Rô 11:6)

Ví dụ như chúng ta mua vật gì, chỉ trả có một đồng tiền, cũng đủ làm mất cái tiếng “ban cho”; vì dẫu là trả một giá rẻ mạt đi nữa, cũng chịu tiếng là đồ mua, chớ chẳng phải là đã ban cho đâu. Chúng ta được tha tội, được phục hòa với Đức Chúa Trời, được xưng nghĩa, vẫn không trả giá gì, không hề nhọc công, tốn của chi cả (Ês 55:1); đến đỗi chính đức tin chúng ta dùng để được sự ấy cũng là sự ban cho của Đức Chúa Trời nữa (Êph 2:8).

Dầu có câu khuyên rằng: “Hãy lấy lòng sợ sệt run rẩy mà làm nên sự cứu rỗi anh em” (Phil 2:12), thì câu ấy khuyên dạy ta hãy làm cho sự cứu rỗi mình đã nhận lãnh nhưng không ở nơi Christ thành tựu trọn vẹn ở nơi mình, chớ chẳng dạy ta phải rán sức làm việc cho được xưng nghĩa đâu; bởi ai muốn cậy việc làm để được xưng nghĩa thật là vô ích. Như Phao-lô chép: “Duy kẻ chẳng làm việc chi, nhưng tin Đấng xưng kẻ bất nghĩa là công nghĩa, thì đức tin của kẻ ấy kể cho là công nghĩa” (Rô 4:5).

Giả như người nghèo kia bỗng chúc được một hầm vàng, đã chẳng phải mất tiền mua, mà cũng chẳng phải tốn công tìm kiếm. Song nếu muốn sử dụng được vàng đó để cung dụng hằng ngày, thì kẻ ấy phải rán sức mà đào hầm kia mới lấy vàng ra được. Ấy, chúng ta được cứu rỗi rồi, thì phải làm cho sự linh nghiệm của sự cứu rỗi ấy được nên trọn vẹn ở trong sự từng trải của mình, mới gọi là được toàn cứu vậy.

4.    KHÔNG PHÂN BIỆT ĐỨC TIN MẠNH HAY YẾU

Dầu người ta đều được xưng nghĩa bởi đức tin cả, thì cũng chẳng phân biệt đức tin lớn hay nhỏ, yếu hay mạnh, thảy đều chỉ vì có đức tin thật nhờ cậy Chúa Jesus Christ mà được đó thôi. Kìa, có kẻ đến cầu ơn cứu rỗi của Chúa, thì gieo cả mình vào lòng Ngài và được cứu liền; còn kẻ khác cũng đến xin ơn cứu rỗi của Chúa, dầu chỉ giơ tay rờ trên áo của Ngài thôi, thì cũng được cứu như người kia vậy.

Xưa dân Y-sơ-ra-ên ở xứ Ai cập, hễ nhà nào trong họ có bôi huyết chiên con trên mày cửa, thì bao nhiêu sanh mạng ở nhà của họ đều được bảo toàn, bất luận già trẻ, mạnh yếu, nhát dạn, vàbất câu đức tin của họ mạnh yếu lớn nhỏ thể nào; họ chỉ cần lấy đức tin bôi huyết chiên con trên cửa thì được cứu. Kẻ được xưng nghĩa bởi đức tin cũng như thế.

Ta thường thấy có lắm tín đồ đức tin yếu đuối, thiếu thốn, thậm chí tin Chúa từ lúc đầu xanh tuổi trẻ đến khi da mồi tóc sương, vẫn chưa dám tin chắc mình đã được cứu. Song xét kỹ thì thấy họ quả có nương cậy nơi công lao của Chúa Jesus Christ, nhận Ngài là Cứu Chúa duy nhứt của mình. Họ chắc là người được cứu; nhưng họ luôn luôn thiếu bình yên về sự tha tội, cứ sợ hãi rằng sự thạnh nộ của Đức Chúa Trời có lẽ sẽ giáng trên mình chăng. Sự xưng nghĩa ví như đồ ăn; đức tin ví như tay cầm đồ ăn đưa lên miệng. Dầu nó vẫn cũng nhờ tay ấy để cầm lấy đồ ăn nuôi mình cũng như người lớn vậy. Bởi sự nuôi mình chẳng phải tại tay, bèn là chỉ tại đồ ăn đó thôi. Sự xưng nghĩa bởi đức tin cũng như vậy.

5.    NỘI CHỨNG CỦA SỰ XƯNG NGHĨA

Kẻ được cứu rỗi, về bên Đức Chúa Trời thì được kể là công nghĩa, còn về bên chính kẻ ấy cũng hẳn có chứng cớ chắc chắn rằng mình đã được xưng nghĩa rồi. Hễ thử hỏi các tín đồ thuộc linh cao thượng, ai ai cũng trả lời rằng: “Quả có vậy”

a)    Cảm biết Christ là Cứu Chúa của mình: Tín đồ được xưng nghĩa chẳng những là tin Chúa Jesus Christ là Cứu Chúa, lại còn có tự cảm biết được Ngài làm Cứu Chúa của mình nữa. Họ chẳng những tin huyết của Ngài chảy ra vì người ta, bèn cũng cảm biết huyết Ngài chảy ra vì chính mình nữa. Cũng chẳng những tin Ngài chịu chết vì mình, lại cảm biết chắc Ngài cũng vì mình mà sống lại nữa. Họ cảm biết Chúa Jesus Christ chắc chắn là Chúa của mình, là đời sống mình, cảm biết ấy minh chứng rằng mình đã được xưng nghĩa rồi vậy.

b)    Tâm linh được biến cải: Tín đồ nào đã từ địa vị bất nghĩa của người cũ mà được qua địa vị công nghĩa của Christ, thì liền nhận lãnh được sự sống thuộc linh từ trên trời ban xuống. Tánh nết người được đổi mới, ý hướng và chí nguyện người đều được biến cải đến đỗi nào sự ưa muốn, nào sự vui thích, nào sự tìm cầu, nào sự tính toán, hết cả đều xoay chiều đổi hướng, không còn xu hướng về tính đức hạ giới nữa, bèn khuynh hướng về linh tánh thượng giới vậy. Lời nói việc làm, tâm tư ý tưởng của kẻ ở trong Christ đều hóa ra mới cả. Vì “nếu ai ở trong Christ, thì nấy là người được dựng nên mới; những sự cũ đã qua đi, nầy mọi sự đều đã trở nên mới” (IICô 5:17). Sự biến cải lạ lùng ấy cũng minh chứng rằng mình đã được xưng nghĩa rồi.

c)     Trong lòng được bình yên: Nội chứng rất thiệt về sự được xưng nghĩa là sự bình yên trong lòng. Tín đồ biết chắc tội mình đã được tha, nguyên án tội đã thủ tiêu, mình đã được thoát khỏi gia hình của nó, nên trong lòng được bình an trọn vẹn. Phao-lô dạy rằng: Rô 5:1

Vẫn biết rằng có đôi kẻ tự lừa dối mình, tưởng tội mình được tha, bèn hân nhiên tự đắc. Song le tín đồ chơn thật đều có đức tin minh bạch, đức tin chắc thật, đức tin đích xác mà nhận lãnh công lao cứu chuộc của Christ. Chỉ những kẻ ấy được lời ân hậu phán trong lòng rằng: “Hỡi con, hãy yên lòng, tội lỗi con đã được tha” (Ma 9:2). Lời ấy an ủi mình lắm, nếu không sớm thì muộn ắt ban cho mình được bình yên vui vẻ dồi dào không sai.

6.    LÚC ĐƯỢC XƯNG NGHĨA

Tội nhơn được xưng nghĩa vào lúc nào? Có nhiều cách trả lời cho vấn đề ấy.

a)    Ý kiến sai: Giáo hội La-mã dạy rằng tín đồ không thể được xưng nghĩa trọn vẹn trong đời nầy, bèn là việc vừa nhờ công lao của Christ, vừa nhờ việc bổ thục của tín đồ mà lần lần được nên. Khi tín đồ qua đời, có lẽ đã được xưng nghĩa rồi; bằng không thì phải chịu sự đau khổ của lửa luyện tội đặng bổ túc lại khuyết điểm về công đức riêng của mình, mới mong bổ túc lại khuyết điểm về công đức riêng của mình, mới mong kết quả sự xưng nghĩa trọn vẹn được. Ý kiến ấy rất sai lầm; vì coi công lao của Christ không đủ đợi giá chuộc tội, cần phải có công đức riêng của tội nhơn phụ vào mới đủ.

b)    Sự dạy dỗ của Kinh Thánh: Theo điều Kinh Thánh dạy thì tội nhơn được xưng nghĩa nội trong giây phút, không cần đợi trải nhiều thì giờ. Vì khoảng giữa sự định án và sự tha tội chẳng có địa vị trung ương nào; chỉ có hoặc là Đức Chúa Trời giận tội nhơn, hay là Đức Chúa Trời đẹp lòng người mà thôi. Ta được đứng hoặc ở trong địa vị bị định tội hay là ở trong địa vị được tha tội, không thể đồng một lúc mà đứng trong cả hai chỗ ấy. Khá phân biệt hai điều nầy: sự xưng nghĩa được nên nội trong giây phút, lúc tội nhơn tin cậy nơi Christ; nhưng sự trở nên công nghĩa thực nghiệm thì trải qua đời sống mình mới được nên. Con hoang đàng trở về cùng cha kia, dầu vẫn mặc áo dơ dáy và có tội với cha, thì cha vẫn cứ vui mừng chạy ra ôm hôn và đưa vào nhà. Đoạn sau cha mới thay áo cho, và đặt tiệc ăn mừng. Sự xưng nghĩa cũng vậy. Khi tội nhơn ăn năn trở lại cùng Cha, được Cha tha tội cho, thì đã được xưng nghĩa rồi. Từ đó về sau Cha nhờ Thánh Linh khiến cho người trở nên công nghĩa bề trong để thích hiệp với gia đạo của nhà Cha vậy. (Cũng xem truyện tích về lễ Ngũ tuần: Công 2:37-41; Saulơ tin Chúa: Công 9; Cọt-nây trở lại cùng Chúa: Công 10:).

7.    ĐƯỢC NÊN MỘT LẦN ĐỦ CẢ

Tội nhơn được xưng nghĩa chỉ một lần đủ cả. Dầu về sau người tái phạm, sa vào tội lỗi nữa, thì cũng chẳng vì cớ đó mà mất địa vị công nghĩa. Nếu chẳng may kẻ được xưng nghĩa mà lại phạm tội, thì phải đến cùng Đức Chúa Trời như con đến cùng Cha, xưng tội ra, và nhờ huyết Christ làm sạch lại. Sự ăn năn và sự được tha tội đó Kinh Thánh chẳng hề gọi là được xưng nghĩa một lần nữa đâu. Thánh Giăng dạy rằng:; IGi 2:1 IGi 1:9

Chương 7 – LUẬN VỀ SỰ NÊN THÁNH

TỘI NHƠN đã nhờ công năng của Thánh Linh cảm hóa mà chịu ăn năn, trở lại với Chúa, tin cậy công đức của Jesus Christ mà được tái sanh, được xưng nghĩa ở trước mặt Đức Chúa Trời rồi, thì đã xuất tử nhập sanh, đứng vào địa vị cứu rỗi ở trong Chúa Jesus Christ vậy. Nhưng ấy chỉ là cái khởi điểm trong đời thuộc linh, là cửa vào nhà Cha, là ngày sinh đẻ của con cái Đức Chúa Trời. Tín đồ ấy còn nhiều sự bất toàn, cần phải lớn lên đến bực thành nhơn; còn non nớt, cần phải đạt đến chỗ tráng kiện. Việc tấn bộ ấy Thần đạo gọi là sự nên thánh. Sự tái sanh là biến động sanh đẻ làm con cái Đức Chúa Trời, sự nên thánh là sự tiến triển trong cuộc lớn lên làm con trưởng thành của Ngài. Sự xưng nghĩa là việc kể tội nhơn là công nghĩa trong Christ; sự nên thánh là khiến cho tâm tánh người trở nên công nghĩa, đến đỗi tâm tư ý tưởng, hành vi cử chỉ đều thích hiệp với địa vị công nghĩa ở trong Christ vậy.

I. ÐỊNH NGHĨA

1.    Ý NGHĨA

Sự nên thánh có nghĩa gì? Nói đại khái, thì sự nên thánh là việc của Thánh Linh cứ vận hành trong lòng tín đồ nhận được từ lúc tái sanh, hầu cho linh mạng ấy cứ mở mang tấn triển mãi, đạt đến bực thành nhơn trọn vẹn ở trong Chúa Jesus Christ. Nói cách khác, sự nên thánh là công việc bởi ơn quá cách của Đức Chúa Trời gây nên trong lòng tín đồ, để khiến cho sự sống mới càng ngày càng mạnh mẽ, tâm tánh mới càng ngày càng thanh khiết, đến đỗi tín đồ vui lòng lìa bỏ mọi tội lỗi, tận tâm dâng mình cho Đức Chúa Trời để ăn ở theo đạo thánh khiết, hầu kết quả việc công nghĩa, đẹp lòng Ngài mọi đường. Tín đồ sở dĩ đến bực nên thánh là nhờ công năng của Thánh Linh cải hóa, dạy dỗ, săn sóc vàdẫn dắt, đến đỗi sự sống mới, tâm tánh mới càng ngày càng tấn tới trong đường thánh sạch không chỗ trách được vậy. Sự nên thánh chẳng những là trừ tội lỗi, tẩy ô uế, mà cũng là khiến được đủ thần đức, thần tánh mới càng ngày trở nên giống như Con Đức Chúa Trời nữa.

2.    SÁNH VỚI SỰ TÁI SANH

Sự tái sanh khác với sự nên thánh. Sự tái sanh tợ hồ như cây cối gặp tiết xuân ấm áp, đâm chồi nứt lộc; sự nên thánh tợ hồ trải đến mùa thu, nhành lá sum sê, hoa quả tươi tốt, để cho người ta thích dùng nữa. Sự tái sanh ví như con đỏ mới sanh ra; sự nên thánh ví như con ấy lớn lên đạt đến bực thành nhơn. Sự tái sanh là Đức Chúa Trời gieo hột giống thánh thiện ở trong lòng người ta; sự nên thánh là hột giống ấy đã mọc lên, cứ lớn mãi đến thời kỳ xanh tươi tốt đẹp. Các câu Kinh Thánh dẫn dưới đây chứng thực rằng sự nên thánh là việc tín đồ lớn lên đạt đến bậc thành nhơn trong Chúa. Êph 4:13; ITê 3:12; IIPhi 3:18. Xin sánh những câu ấy với IPhi 1:23; IGi 3:9

Người mới được tái sanh dầu là có sự sống mới, tâm tánh mới, song tánh cũ mà Kinh Thánh thường gọi là xác thịt, vẫn còn ở trong người, tợ hồ có hai năng lực trong lòng hay vận động nghịch cùng nhau luôn. Năng lực nầy là tánh mới hay hướng thiện; năng lực kia là tánh cũ (xác thịt) hay hướng ác. Hai tánh ấy thường nghịch nhau hằng giao chiến cùng nhau, chẳng hề hòa thuận với nhau bao giờ. Chỉ nhờ công năng của Thánh Linh mà tánh mới thắng hơn tánh cũ, và trở nên sự nên thánh được đó thôi. Phao-lô dạy rằng: Ga 5:17; Rô 7:21-23; Rô 8:2

3.    SÁNH VỚI SỰ XƯNG NGHĨA

Sự xưng nghĩa và sự nên thánh cũng khác nhau. Trong chương trước ta đã thấy sự xưng nghĩa là tín đồ được đứng trong địa vị công nghĩa ở trong Christ; còn sự nên thánh là Christ ở trong tín đồ khiến cho linh tánh người trở nên công nghĩa thích hiệp với địa vị ấy. Sự xưng nghĩa là khởi điểm của đường nên thánh; sự nên thánh trọn vẹn là kết cuộc của sự xưng nghĩa. Sự xưng nghĩa bởi công đức của Christ thế vị ta mà chuộc lại; còn sự nên thánh là công phu của Thánh Linh làm nên ở trong ta. Nền tảng của sự xưng nghĩa thiết lập trên sự chết của Christ; cơ chỉ của sự nên thánh xây lên trên sự sống lại của Ngài. Kẻ được xưng nghĩa được đứng trong địa vị cứu rỗi; nhưng cũng cần nên thánh, mới hưởng được cả hiệu lực của địa vị ấy.

Ví như bịnh nhơn kia, bịnh tình đã thuyên giảm, thì chắc được sống rồi (ấy chỉ về xưng nghĩa); nhưng còn cần phải gia công điều dưỡng, mới có thể bình phục như xưa được (ấy chỉ về sự nên thánh). Lại ví như con thuyền vượt biển kia, gặp cơn giông tố, sóng dập gió dồi, song may thay chưa đến nỗi chìm và được lọt vào trong cửa, đậu nhằm một chỗ yên tĩnh khuất gió. Thuyền ấy dầu đã đậu tại bến bình an rồi, song chưa tu bổ lại các chỗ hư hỏng bởi cơn giông tố đó; thì cần lắm phải trải một thời gian để các bạn tàu lo sửa chữa lại cho chắc chắn, mới đáng gọi là đã được toàn cứu khỏi cơn giông tố ấy vậy.

Sự xưng nghĩa và sự nên thánh cũng khác nhau như thế. Khi ta được xưng nghĩa, thì hưởng được bình yên, khỏi cơn thạnh nộ của Đức Chúa Trời, không còn sợ hình án của tội lỗi nữa. Còn công phu nên thánh là tâm linh được cải hóa, được gây dựng trong sự thánh khiết, đến đỗi ý hướng và ý chí nguyện càng ngày chăm chỉ về những điều đẹp lòng Đức Chúa Trời càng hơn. Phao-lô dạy rằng:

Rô 8:1,2-4. “Cho nên hiện nay chẳng có sự định tội cho những kẻ ở trong Christ Jesus (ấy là địa vị được xưng nghĩa). Vì luật pháp của Thánh Linh của sự sống ở trong Christ Jesus đã buông tha tôi khỏi luật pháp của tội lỗi và sự chết… hầu cho đều phải nghĩa của luật pháp được thành tựu trong chúng ta, là kẻ chẳng noi theo xác thịt, nhưng noi theo Thánh Linh” (ấy là sự nên thánh ở bề trong). Cũng xem câu 12,13.

4.    SÁNH VỚI SỰ RỬA SẠCH

Sự rửa sạch cũng khác với sự nên thánh. Vì sự rửa sạch là phương diện trừ bỏ; còn sự nên thánh là phương diện làm cho đầy dẫy. Tuyển dân của Chúa chẳng những là phải tìm sự trừ tội, sự rửa sạch thôi đâu; lại cần phải có đủ phẩm đức thuộc linh của Đức Chúa Trời để làm cho đầy dẫy lòng đã được rửa sạch rồi đó nữa. Lời nói việc làm, tâm tư ý tưởng đều cần giống như Ngài, đẹp lòng Ngài mọi bề, mới đáng gọi tín đồ là dân thánh của Ngài vậy. Trong IICô 7:1 Phao-lô dường như phân biệt sự rửa sạch với sự nên thánh mà rằng: “Hỡi kẻ yêu dấu, vì chúng ta đã có lời hứa dường ấy, thì hãy làm cho mình sạch khỏi mọi sự o uế của xác thịt và của tâm linh, để làm trọn sự nên thánh trong sự kính sợ Đức Chúa Trời”.

II. KINH THÁNH DẠY VỀ SỰ NÊN THÁNH

Kinh Thánh luận đến sự thánh khiết và sự nên thánh rất mầu nhiệm, minh chứng rằng quan niệm ấy rất quan hệ đối với đạo Đức Chúa Trời. Có người nói rằng Tân Cựu ước nói đến quan niệm thánh khiết và nên thánh ước chừng 1060 lần, Cựu ước 760 lần, Tân ước 300 lần.

1.    NGHĨA CHỮ THÁNH

a)    Trong Cựu ước: Trong Cựu ước chữ mà bản Việt thường dịch ra “thánh” hay “nên thánh”, nguyên văn Hê-bơ-rơ là kadosh, nghĩa đen là “biệt riêng ra cho công việc Đức Chúa Trời”. Cựu ước ứng dụng chữ ấy theo bốn cách:

(1)Ứng dụng cho chỗ và vật: Trời. Thi 20:6; núi Sinai, Thi 69:17; xứ Canaan, Xa 2:12; chỗ Đức Chúa Trời hiện ra, Xuất 3:5; thành Giê-ru-sa-lem, Nê 11:1; đền thờ; ICác 9:3; bàn thờ, Xuất 29:36; các lễ vật và con sinh, Xuất 28:38; 29:27, đều gọi là thánh cả.

(2)Ứng dụng cho lễ tiết: Ngày sabát, Sáng 2:3; Xuất 20:8,11, và năm hân hỉ, Lê 25:10, cũng là thánh.

(3)Ứng dụng cho người ta: Con đầu lòng của dân Y-sơ-ra-ên, Xuất 13:2, dân Y-sơ-ra-ên, Phục 7:8, người của Đức Chúa Trời, IICác 4:9, tiên tri Giê-rê-mi, Giê 1:5, thánh đồ và thiên sứ biệt riêng ra cho Đức Chúa Trời, Gióp 1:5; 15:15; Thi 16:3; 34:9; Ês 4:3; Đa 4:13; 7:18,21,22,25,27; 8:13,24; Xa 14:5, cũng gọi là thánh cả.

Tra cứu kỹ càng các đoạn sách dùng chữ “thánh” hoặc “nên thánh” mà ứng dụng cho chỗ, vật, lễ tiết hay người ta, thì rõ đại ý là những điều ấy sở dĩ được gọi là thánh, là tại vì cớ tiếp xúc với Đức Chúa Trời, được biệt riêng ra cho Ngài để dùng vào sự hầu việc Ngài.

(4)Ứng dụng cho Đức Chúa Trời: Chữ “thánh” được ứng dụng cho Đức Chúa Trời nhiều hơn hết. Ngài là Đấng thánh tuyệt đối, và nguồn của sự thánh khiết ở trên trời dưới đất, Giô 24:19; ISa 6:20; Thi 51:11; Ês 6:3; 10:17; 29:23; 49:7; 63:10,11; Xuất 28:36; 39:30.

b)    Trong Tân ước: Tân ước dạy dỗ về vấn đề nên thánh sâu nhiệm và quí báu hơn Cựu ước. Ấy chắc tại vì thời đại ân điển trổi hơn thời đại luật pháp mọi bề. “Vì luật pháp đã ban bố bởi Môi-se còn ân điển và lẽ thật bởi Jesus Christ mà đến” (Gi 1:17).

Nguyên văn Hi-lạp có chừng năm chữ để chỉ về quan niệm “thánh khiết”, tức là: động từ hagiazo, nghĩa đen là “làm nên thánh”; hình dung từ hagios, nghĩa đen là “sự nên thánh” hay là “sự thánh khiết”. Như Cựu ước, Tân ước cũng ám chỉ rằng sự thánh khiết hoặc sự nên thánh đều do sự tiếp xúc với Đức Chúa Trời màra. Trong bản Việt, năm chữ ở trên phần nhiều đều được dịch ra “được nên thánh”, “nên thánh”, “thánh khiết”, hay là “thánh”.

Cựu ước ứng dụng chữ kadosh thể nào, thì Tân ước ứng dụng năm chữ kể trên cũng thể ấy.

(1)Ứng dụng về chỗ: Thành Giê-ru-sa-lem, nơi chí thánh, đền thờ của thánh đồ, đều là thánh cả, Ma 4:5; 24:15; Êph 2:21.

(2)Ứng dụng về sự vật: Giao ước của Đức Chúa Trời, Kinh Thánh, Luật pháp, cũng gọi là thánh, Lu 1:72; Rô 1:2; 7:12.

(3)Ứng dụng về người ta: Tín đồ, tiên tri, thiên sứ cũng đều được xưng là thánh cả, Hê 3:1; ICô 1:2; IICô 1:1; Công 3:21; Khải 14:10.

Mỗi đoạn sách trong Tân ước dùng chữ để chỉ về quan niệm nên thánh, đại ý cũng tỏ ra sự ấy sở dĩ được nên như thế là do sự tiếp xúc với Đức Chúa Trời như trong Cựu ước vậy; bởi vì vô luận thời đại nào, duy Đức Chúa Trời là nguồn gốc duy nhứt của sự thánh khiết và sự nên thánh.

(4)Ứng dụng cho Ba Ngôi Đức Chúa Trời: Ba Ngôi Đức Chúa Trời cũng được xưng là thánh: Cha, Gi 17:11; Con, Mác 1:24; Lu 1:35; IGi 2:20; Thánh Linh, Ma 3:11; Công 13:2; Rô 15:16.

2.    HAI THỨC NÊN THÁNH

Kinh Thánh dùng chữ nên thánh theo hai cách để tỏ ra hai thực sự nên thánh. Hai thức ấy thần học gọi là 1) sự nên thánh thuộc mặt nghi lễ, 2) sự nên thánh thuộc tánh đạo đức. Nếu sự tiếp xúc với Đức Chúa Trời thuộc về bề ngoài, thì sự nên thánh do đó mà ra gọi là sự nên thánh thuộc mặt nghi lễ, không can thiệp với tánh đạo đức. Còn nếu sự tiếp xúc với Đức Chúa Trời thuộc về phần linh tánh, thì sự nên thánh do đó mà ra gọi là sự nên thánh thuộc tánh đạo đức, can thiệp với linh tánh vậy.

a)    Sự nên thánh thuộc mặt lễ nghi: Cựu ước chú trọng về sự nên thánh thuộc mặt nghi lễ; Tân ước cũng nói đến, nhưng chỉ vài lần, và chỉ can thiệp đến chỗ và sự vật mà thôi. (Về Cựu ước, xem phần dạy về nghĩa chữ thánh trong Cựu ước, II, 1, trong chương nầy. Về Tân ước, xem Ma 23:17-19; ITi 4:4,5).

Đại ý của sự nên thánh thuộc mặt nghi lễ là phân rẽ với tội lỗi và sự ô uế bề ngoài, mà biệt riêng ra cho Đức Chúa Trời để dùng trong sự hầu việc Ngài. Sự nên thánh nầy không có quan hệ với tánh đạo đức, chỉ được gọi là thánh, bởi vì bên ngoài có tiếp xúc với Đức Chúa Trời, được Ngài lợi dụng làm việc Ngài vậy. Cho nên sự nên thánh thuộc mặt nghi lễ là biệt sự vật, chỗ, hay người riêng ra khỏi sự thường dụng của nó mà dâng cho Đức Chúa Trời dùng lấy. Các sự vật, chỗ, hoặc người mà được biệt riêng ra như thế đều thuộc về Đức Chúa Trời, và được gọi là thánh (Dân 3:13; 8:17).

Những nghi lễ Cựu ước dùng trong sự biệt sự vật hay người ta ra thánh thì nhiều và phiền phức lắm, như trong việc tẩy uế kẻ phung, thì có năm việc cần thiết, tức là giết con sinh tế, tắm rửa trong nước, rảy huyết, rảy dầu, và đổ dầu trên kẻ được sạch (xem Lê 14). Các việc ấy có nghĩa bóng, chỉ về cách nào tín đồ đời Tân ước được nên thánh, dạy rằng họ cậy sự chết của Christ, sự tái sanh, sự đổ huyết Ngài, và công việc của Thánh Linh cảm hóa bề trong mà được trở nên thánh khiết thực nghiệm vậy.

Trong Tân ước chỉ có một câu dường như theo lối thuộc mặt nghi lễ mà ứng dụng hình dung từ “nên thánh” cho người ta. Ấy là trong ICô 7:14: “Bởi vì chồng không tin, nhơn vợ mà được nên thánh, vợ không tin, nhơn chồng mà được nên thánh; bằng chẳng vậy, thì con cái anh em chẳng sạch, song nay đều là thánh.” Ý của câu ấy dạy rằng bạn không tin Chúa nhơn vì tiếp xúc với bạn tin Chúa mà được nên thánh, tức là được biệt riêng ra cho Đức Chúa Trời để hầu việc Ngài trong sự nuôi nấng, coi sóc, và giúp đỡ một con cái của Ngài; lại nhơn đó con cái của họ cũng khỏi bị ô uế, khỏi gọi là con ngoại tình vậy.

b)    Sự nên thánh thuộc tánh đạo đức: Tân ước luận về sự ứng nghiệm các lễ nghi của Cựu ước, nên tất nhiên cũng chú trọng về sự nên thánh thuộc tánh đạo đức, chỉ dạy thế nào tội nhơn đã được tái sanh, xưng nghĩa rồi cũng có thể trở nên thánh khiết ở trong linh tánh nữa. Trong Tân ước quan niệm nên thánh về tánh đạo đức, cũng đồng nghĩa với quan niệm ấy trong Cựu ước, tức là được nên trong sự phân rẽ với tội lỗi (bề trong), sự dâng mình cho Chúa, và sự biệt riêng ra để hầu việc danh thánh của Ngài, Tân ước luận về vấn đề nầy thì nói đến hai hạng được nên thánh, ấy là (1) Chúa Jesus Christ, và (2) tín đồ.

(1)Chúa Jesus Christ được nên thánh: Tin Lành Giăng có câu: “… ta vốn là Đấng Cha đã biệt ra thánh” (10:36). “Con vì họ tự biệt ra thánh, hầu cho họ cũng nhơn lẽ thật mà được nên thánh vậy” (17:19). Ý nghĩa về Christ nên thánh là Ngài được biệt riêng ra cho Cha để làm công việc cứu chuộc lòai người. Các nghi lễ về việc phong chức tế lễ cho A-đam làm hình bóng về Christ được biệt riêng ra để làm chức tế lễ chơn thật cho loài người ở trước mặt Đức Chúa Trời. Christ được Cha biệt riêng ra từ trước buổi sáng thế để làm việc cứu chuộc. Cho nên sự đầu thai, sự bị cám dỗ, sự thương khó của Ngài, thảy đều là những phần trong chức nhiệm ấy, khiến cho sự chết Ngài có giá trị tuyệt đối để cứu chuộc loài người. Sự nên thánh của Christ chẳng có ý ám chỉ rằng Ngài phải phân rẽ với tội lỗi và ô uế bề trong; vì Ngài vốn là thánh khiết tuyệt đối; bèn chỉ ứng dụng danh từ ấy theo nghĩa biệt riêng ra để làm xong một chức vụ nào đó thôi.

(2)Tín đồ được nên thánh: Khi Tân ước ứng dụng danh từ “sự nên thánh” cho tín đồ, thì có nghĩa theo cả ba lối, là phân rẽ với tội lỗi cho được tinh sạch, dâng cho Đức Chúa Trời để thuộc về Ngài, và biệt riêng ra để hầu việc Ngài. Cả ba công việc ấy được nên bởi công năng của Thánh Linh cảm hóa, dạy dỗ, gây dựng, và ứng dụng cả hiệu lực của công đức cứu chuộc của Christ đó vậy. Sau đây xin trưng dẫn những câu quan hệ hơn hết luận về sự nên thánh của tín đồ: Gi 17:17; Công 24:18; Rô 6:19,22; ICô 1:1,2,30; ICô 6:11; IICô 7:1; Êph 5:25,26; ITê 3:13; ITê 4:3,4,7; ITê 5:23; IITê 2:13; ITi 2:15; IITi 2:21; Hê 2:11; Hê 10:10,14,29; Hê 12:10,14; Hê 13:12; IPhi 1:2; Giu 1:3; Lu 1:74,75; Êph 4:24; Công 15:9; Tít 2:3; Gi 15:3; IGi 1:7,9; Ma 5:8; ITi 1:5; ITi 5:22; IITi 2:22; IPhi 1:22; IGi 3:3; ITi 5:7,8; IIPhi 1:3; IPhi 1:15,16; IICô 6:14-18; IGi 5:21

Tuy các câu trưng dẫn trên chưa phải là gồm hết những câu của Tân ước dạy về sự nên thánh, thì cũng đủ tỏ ra Tân ước dạy thể nào về vấn đề quan hệ ấy. Hễ ta kê cứu kỹ càng mỗi câu ấy, ắt sẽ hiểu rõ sự nên thánh, và Đức Chúa Trời dùng cách thức nào để thực hành việc ấy ở trong tín đồ vậy. Sau đây sẽ còn giải nghĩa tường tận hơn đại ý của các câu ấy.

III. SỰ NÊN THÁNH CẦN THIẾT

Kê cứu Kinh Thánh, tra xét lòng dạ ta, thì dễ thấy sự nên thánh rất cần thiết. Sau đây, xin theo hai phần mà luận qua duyên cớ gọi sự nên thánh là cần thiết.

1.    HỄ KHÔNG NÊN THÁNH THÌ KHÔNG THẤY ĐƯỢC ĐỨC CHÚA TRỜI

Ta đã thấy đức tánh đệ nhứt của Đức Chúa Trời là đức thánh khiết. Hễ ai không được công năng của Thánh Linh cải hóa tâm tánh đạo đức, khiến trở nên thánh khiết thích hiệp với đức tánh của Đức Chúa Trời, thì quả không hề thấy Ngài được. Có câu chép: Hê 12:14

2.    HỄ KHÔNG ĐƯỢC NÊN THÁNH CŨNG KHÔNG THẮNG TỘI ĐƯỢC

Kinh Thánh và sự từng trải của tín đồ từ xưa đến nay đều minh chứng rằng hễ tín đồ không được nên thánh thì cũng chẳng hề thắng tội được. Xin kê cứu qua tá chứng của hai chỗ ấy.

a)    Sự từng trải của tín đồ làm chứng: Gạn hỏi tín đồ thuộc linh cao thượng về vấn đề nên thánh có quan hệ với sự thắng tội thế nào, thì thường nghe họ đồng thinh chứng rằng, không được nên thánh, hẳn cũng chẳng thắng tội được. Kê cứu qua sự từng trải tầm thường của phần nhiều tín đồ, thì kết quả như lời.

(1)Sự vui mừng của sự cứu rỗi: Khi tội nhơn ăn năn trở lại cùng Chúa thì thường cảm xúc sự vui mừng lạ lùng vì đã được tha tội, được hòa lại với Đức Chúa Trời, được xưng nghĩa, được tái sanh làm con cái của Cha ở trên trời. Trong mình cảm thấy nhẹ nhàng vì gánh nặng gian ác đã cất khỏi mình, lòng đầy bình an, miệng tuôn tràn những lời khen ngợi Đức Chúa Trời (Thi 40:1-3; Công 8:39). Cảnh vật xung quanh cũng dường như đã thay đổi hẳn: trông lên mặt trời, thấy mặt trời càng chiếu diệu hơn; nhìn đến chim chóc, nghe nó hót líu lo càng êm dịu hơn; ngó đến cây cỏ, thấy lá xanh hoa nở càng sặc sỡ hơn; thật dường như muôn vật đều đồng chung vui với mình vì hạnh phước Đức Chúa Trời đã ban cho vậy.

Dầu sự trở lại cùng Chúa sanh ra sự vui vẻ lạ thường dường ấy, thì cũng chỉ mới là sự bắt đầu trong cuộc thí nghiệm sự cứu rỗi đó thôi. Sự tái sanh chẳng qua mới là con đỏ trong Chúa. Tín đồ cần phải lớn lên để đạt đến bậc thành nhơn, mới đáng gọi là được toàn cứu.

(2)Sự thất bại: Tin Chúa một ít lâu rồi, bèn có sự thay đổi quan hệ. Tín đồ gặp cơn cám dỗ, bèn thất bại sa ngã vào tội. Tuy hết sức chống cự sự cám dỗ ấy, cũng đành thua, vì không đủ năng lực thuộc linh để thắng tội được. Khi thất bại lần đầu đó tín đồ buồn bã lắm, tự trách mình nhẹ dạ mà nghe theo sự cám dỗ ấy, bèn cầu Chúa thương xót tha thứ cho. Được tha thứ, thì lại vui mừng như trước, quyết định không hề tái phạm hay nghe theo sự cám dỗ nữa. Than ôi! Lần nầy cũng chỉ được ít lâu rồi lại bị cám dỗ, thất bại mà sa ngã như lần trước kia vậy.

Trước cảnh ngộ buồn thảm như thế, tín đồ không biết suy nghĩ sao. Tuy biết mình thuộc về Chúa, chắc đã được tái sanh làm con cái của Ngài rồi, thì cũng chẳng hiểu tại sao mình phân tâm như thế. Hôm nay vui mừng hớn hở, ngày mai lại than thở buồn rầu. Khi thì hết sức ghét tội, lúc lại ưa phạm đủ điều. Có lẽ tín đồ ấy cũng quen cầu nguyện, từng được Chúa nhậm lời, ưa thích sự nhóm lại nghe giảng, cũng vui lòng làm chứng đạo, nhưng chẳng biết phải làm thế nào cho được thắng tội. Khi coi Kinh Thánh thì rất sợ hãi vì thấy Đức Chúa Trời thánh khiết rất ghét tội, hằng đòi hỏi một tâm tánh thánh khiết ở nơi mình. Lòng cũng rất muốn thuần khiết như Chúa muốn, hết sức cầu khẩn Ngài giúp đỡ mình như sở nguyện. Dầu vậy, tín đồ lại thấy trong mình có một năng lực hằng chống chỏi ý muốn của Chúa, phản nghịch luật pháp Ngài, và bắt phục mình làm nô lệ cho nó. Có khi người chống cự lại, hứa nguyện sẽ không phạm tội nữa, cũng quả quyết sẽ giữ vẹn các sự hứa nguyện ấy. Nhưng than ôi! Dầu hứa nguyện, dầu quyết định đến mấy đi nữa, cũng chỉ cứ phạm tội thất bại luôn, thấy rõ ràng dầu sự tríu mến tội đã mất rồi, thì quyền năng của tội vẫn còn vấn vương nơi mình.

(3)Do lai của sự thất bại: Vả, tại cớ sao tín đồ phải từng trải sự thất bại buồn thảm như thế? Há chẳng phải tại vì họ chưa từng trải sự nên thánh sao? Tín đồ nào từng trải đạo Christ như cách vừa tả ra ở trên, chỉ biết Christ bằng Cứu Chúa mình, nhưng chưa biết đến Ngài bằng Đấng làm cho mình được nên thánh. Tín đồ ấy được đứng trong địa vị thánh của Christ, thì vẫn chưa được Christ cư trú trong mình, chưa được sự sống chẳng hay hư hay hết của Ngài hành động trong mình, nên cũng chẳng thắng hơn tội được.

Người đã nhờ sự tái sanh mà được sự sống thuộc linh và mới mẻ đến đỗi ý hướng và chí nguyện người chẳng còn ưa thích đường lối tội lỗi nữa. Nhưng chẳng may, tánh xác thịt vẫn còn, quyền năng của tội chưa tiêu diệt đâu, nó vẫn còn có thể bắt phục mình phải làm nô lệ cho nó. Tín đồ nào mà chỉ từng trải sự tái sanh thường bị tánh cũ (xác thịt) chiến đấu với tánh mới, hằng gây nên sự sa ngã và thất bại khốn nạn dường ấy.

Nhưng sự thất bại như thế chẳng phải là ý muốn của Chúa đâu; Ngài muốn ta đắc thắng luôn, vì Christ hiện ra, cốt để tiêu diệt công việc của ma quỉ. Vậy, tín đồ phải làm thế nào cho được toàn thắng? Phải từng trải sự nên thánh, phải nhận lãnh Thánh Linh, phải nhờ công năng Ngài đem Christ phục sanh ngự trong, mới mong được toàn thắng như nguyện vậy.

b)    Kinh Thánh làm chứng: Kinh Thánh cũng minh chứng cho lẽ đạo vừa dạy ở trên, có sự lưu lạc của dân Y-sơ-ra-ên trong đồng vắng làm hình bóng cho, và sự từng trải của Phao-lô ký thuật trong Rô-ma đoạn 7 càng giải nghĩa rõ rệt.

(1)Dân Y-sơ-ra-ên lưu lạc trong đồng vắng: Sự lưu lạc của dân Y-sơ-ra-ên trong đồng vắng làm hình bóng về sự từng trải thất bại của tín đồ mới tả ra ở trên.

Theo tượng trưng học, thì xứ Aicập chỉ bóng về thế gian; sự đi qua Hồng Hải chỉ về sự phân rẽ với đời cũ mà trở lại với Chúa; sự đi qua sông Giô đanh chỉ về sự chết đối với đời sống tư kỷ; sự đi vào xứ Canaan chỉ về sự nên thánh, tức là sự đắc thắng, sự yên nghỉ bởi đức tin, sự ăn ở theo đời mới trong Chúa Jesus Christ.

Vả, giữa biển Hồng Hải và xứ Canaan có sa mạc Sinai. Tại đó dân Y-sơ-ra-ên lưu lạc trải 40 năm trời, bị “bọn dân tạp” ngăn trở, không được theo ý muốn Đức Chúa Trời trọn vẹn (Xuất 12:38; Dân 11:4). Tuy họ hưởng được nhiều phước trong nơi ấy (Xuất 13:21,22; 15:23-27; 16:1-5, 14:25; 17:1-7), được Đức Chúa Trời hiển hiện cùng họ, bảo hộ, săn sóc và thương xót họ, đồng chịu các sự khổ sở của chốn ghê sợ ấy với họ, thì họ cũng cứ bị cám dỗ, sa vào tội mà thất bại hoài. Họ hay lằm bằm và oán trách Môi-se và A-rôn (Xuất 16:3), khinh dễ đồ ăn mana mà Chúa đã ban cho, coi là đồ đạm bạc. Họ thèm ăn cá, dưa chuột, dưa gang, củ kiệu, củ hành, củ tỏi, và thịt mà trước kia họ quen ăn tại Aicập (Dân 11:5), đến đỗi Chúa chán nản họ, sai rắn lửa cắn chết nhiều kẻ trong họ (Dân 21:1-9). Lắm lúc họ cũng trái mạng Đức Chúa Trời, phản nghịch Ngài, không khứng vào xứ Canaan mà Ngài đã hứa ban cho họ; và vì lòng vô tín đó họ phải mất cơ nghiệp tốt đẹp ấy. Trước giả thơ Hê-bơ-rơ chứng rằng: Hê 3:17-19

Vả, đồng vắng kia là tượng trưng chỉ về sự thất bại của tín đồ hiện nay. Đức Chúa Trời đã đem dân Y-sơ-ra-ên ra khỏi Aicập chẳng phải để họ cứ ở trong sa mạc khốn nạn ấy đâu, bèn để họ vào xứ Canaan, nhận lãnh xứ ấy làm cơ nghiệp. Sự không khứng vâng lời Đức Chúa Trời đó kết quả cho họ sự hư hỏng chết mất tại đồng vắng vậy.

Đức Chúa Trời đã cứu rỗi ta chẳng những để đem ta khỏi địa vị mắc tội thôi đâu, nhưng Ngài đã cứu ta để ta cứ tấn tới mà đạt đến địa vị nên thánh trong Chúa Jesus Christ nữa. Hễ chúng ta không vâng phục, không tìm cầu sự nên thánh, ắt không những là thất bại hoài thôi, mà lại sẽ bị hư hỏng cả đời thuộc linh, kết cuộc là phải chết mất ở dọc đường thiên lộ, cũng như dân Y-sơ-ra-ên trong sa mạc xưa kia vậy. Trước giả thơ Hê-bơ-rơ lại chứng rằng: Hê 4:1,11. Sự yên nghỉ đó, là sự nên thánh vậy. Cũng xem ICô 10:1-12.

(2)Sự từng trải ký thuật trong thơ Rô-ma 7: Trong thơ Rô-ma 7, Phao-lô mô tả sự từng trải thất bại của một người đã được tái sanh mà chưa được nên thánh. Sự từng trải ấy rất giống như sự từng trải của dân Y-sơ-ra-ên trong đồng vắng. Nói cho đúng thì đoạn ấy giải nghĩa cho tượng trưng về dân Y-sơ-ra-ên ở trong đồng vắng xưa kia vậy.

Người của Rô-ma đoạn 7 đã cất bước trên đường tin Chúa, được tái sanh làm con cái của Đức Chúa Trời, nên lòng rất vui vẻ ngợi khen ơn cứu rỗi của Ngài. Nhưng cách ít lâu về sau lòng mới được thấy rõ sự thánh khiết của luật Đức Chúa Trời, hoàn cảnh bèn thay đổi nhanh chóng, người liền cảm xúc sự hủ bại của tánh cũ (xác thịt) là khốn nạn dường nào! Cũng hiểu rõ rằng tự mình không thể làm trọn ý chỉ của Đức Chúa Trời được, bằng chẳng nhờ ơn cứu trợ siêu việt, ắt chỉ phải tuyệt vọng, chết mất như dân Y-sơ-ra-ên trong đồng vắng xưa kia đó thôi. Kê cứu lược qua đoạn ấy, thấy có bốn điều rất quan hệ:

(a)Hai năng lực phản đối nhau: Thứ nhứt, ta thấy trong người đã được tái sanh mà chưa được nên thánh có hai năng lực mâu thuẫn hằng chống nghịch nhau. Hai năng lực ấy ta có thể gọi là tánh cũ và tánh mới. Tánh cũ là tánh tội lỗi bởi nguyên tổ truyền lại; tánh mới là tánh bởi Đức Chúa Trời sanh ra lúc người nhờ Thánh Linh mà được tái sanh. Tánh cũ Phao-lô gọi là “xác thịt” (câu 5,25), “tội lỗi ở trong tôi” (câu 17), “thân thể của sự chết nầy” (câu 24), “thân thể của tội lỗi” (Rô 6:6). Còn tánh mới, Phao-lô gọi là “người bề trong” (câu 22), “tâm trí tôi” (câu 23,25), “người mới” (Êph 4:24), v.v. Cũng xem Gi 3:6; Ga 5:17

(b)Hai năng lực hằng chiến đấu nhau: Hai tánh ấy rất phản nghịch nhau như nước với dầu, không bao giờ hỗn hòa nhau được, nhưng cứ chiến đấu nhau, tánh nầy và tánh kia đều muốn bắt phục nhau không thôi. Chiến địa ấy là lòng của tín đồ, còn bửu vật mà hai bên đều rán sức cướp giựt là đời sống của tín đồ, bên nầy cố quyết buộc nó phải theo xác thịt, còn bên kia lại muốn nó phải theo Thánh Linh.

Than ôi! Tình hình của cuộc chiến đấu nầy rất chênh lệch, bên người mới của lòng tái sanh vẫn chiến đấu chỉ có một mình mà thôi; còn bên tánh cũ thì lại có cả luật pháp hay lên án, tham dục của xác thịt hay ngăn cản, ảnh hưởng của thế gian hay cám dỗ, và các ác mưu sâu sắc của Sa-tan cố khiến cho người sa ngã. Thực tế, tín đồ chiến đấu với xác thịt và quyền thế của sự tối tăm chẳng khác gì một đứa con trẻ ở trong hang sư tử kia, tự mình nó không hi vọng gì bảo toàn tánh mạng được, lựa là nói đến sự đắc thắng.

Kê cứu qua câu 7-9, 14-16 và 19-23, dễ thấy trong cuộc chiến đấu nầy rất đáng thương hại cho tín đồ yếu đuối kia, vì kết cuộc hẳn là thất bại đó thôi. Rô 7:7-9, 14-16, 19-23.

c)     Sự thất bại tuyệt vọng: Tín đồ cứ giao chiến với xác thịt và tội lỗi đến khi yếu sức mòn hơi, không còn có thể đương nổi nữa bèn đành giải giáp đầu hàng, vì thấy mình cô độc, không còn có năng lực gì chiến thắng tánh cũ được nữa. Trong câu 24 ta nghe tiếng não nùng đầy nỗi thất vọng kêu lên rằng: “Ôi! Tôi là người khốn nạn dường nào! Ai sẽ giải cứu tôi khỏi thân thể của sự chết nầy?”

d)    Sự giải cứu ở nơi sự nên thánh: Cảm tạ Đức Chúa Trời, có một phương pháp duy nhứt giải cứu tín đồ khỏi sự thất bại đó được, ấy là nhờ Chúa Jesus Christ, bởi công năng của Thánh Linh khiến cho tín đồ nên thánh. Khi tín đồ đã tuyệt vọng, nhận biết rằng tự mình không thể làm chi nổi để ăn ở cách xứng đáng, đẹp lòng Đức Chúa Trời, thì Đấng giải cứu bèn hiện đến, chỉ cho nạn nhơn hiểu rõ rằng sự toàn thắng duy do sự nương cậy nơi Christ và quyền năng của Thánh Linh cảm hóa mà được nên đó thôi. Sự hiểu biết ấy khiến cho tín đồ reo vang giọng khải hoàn rằng: “Tạ ơn Đức Chúa Trời, nhờ Jesus Christ, Chúa chúng ta!… Vì luật pháp của Thánh Linh của sự sống ở trong Christ Jesus đã buông tha tôi khỏi luật pháp của tội lỗi và sự chết. Vì điều luật pháp không làm nổi, tại nó nhơn xác thịt ra yếu đuối, thì Đức Chúa Trời đã vì tội lỗi mà sai chính Con Ngài lấy hình trạng của xác thịt tội lỗi, va định tội cho tội lỗi ở trong xác thịt, hầu cho điều phải nghĩa của luật pháp được thành tựu trong chúng ta, là kẻ chẳng noi theo xác thịt, nhưng noi theo Thánh Linh” (Rô 7:25-8:4).

Ấy vậy, nói tóm lại, sự nên thánh rất quan hệ, vì nếu không được nên thánh, quả không toàn thắng tội lỗi được. Nhờ sự tái sanh tín đồ vượt qua đời sống tư kỷ mà đến đời sống của Christ. Khi được tái sanh thì được thần mới; khi được nên thánh, thì nhận Thánh Linh cư trú trong thần mới. Chúa hứa rằng: Êxê 36:26,27

Quả như lời; hễ tín đồ đã được Thánh Linh của Đức Chúa Trời cư trú trong lòng thì đã vào xứ Canaan thuộc linh, đã chinh phục xác thịt, thắng hơn tội, được yên nghỉ, được đủ các phước thuộc linh ở trên trời trong Jesus Christ (Êph 1:3), và được ơn làm trọn ý chỉ Đức Chúa Trời, đẹp lòng Ngài mọi đường. Ngoài phương pháp nầy quả hẳn chẳng có phương pháp nào khác.

IV. HAI PHƯƠNG DIỆN CỦA SỰ NÊN THÁNH

Tân ước tỏ ra sự nên thánh có hai phương diện, cái nầy do cái kia mà thành công. Hễ tín đồ không thông hiểu cái trước, cũng chẳng hưởng được cái sau. Hai phương diện ấy gọi là sự nên thánh theo phương diện địa vị và sự nên thánh theo phương diện thực nghiệm.

1.    PHƯƠNG DIỆN ĐỊA VỊ.

Kinh Thánh dạy rõ lắm cả việc cứu rỗi tín đồ đều được nên trước hết ở trong Christ trên thập tự giá. Sự công nghĩa, sự thánh khiết và các công đức hay cứu rỗi của Christ đều do sự đau khổ của sự chết ấy mà có giá trị cho tín đồ. Hễ người nào tin cậy nơi sự chết ấy thì được các công đức và đợi giá ấy làm địa vị cho mình đứng vào địa vị ấy là địa vị cứu rỗi mà Ngài đã mua chuộc cho mọi người nương cậy nơi Ngài. Đức Chúa Trời nhơn vì sự chết thay thế của Christ, và đức tin của tội nhơn mà kể cả công đức và đợi giá của Ngài đều là thuộc về tín đồ, cốt để khiến cho người nên thánh hoàn toàn vậy. Khi tội nhơn tin cậy Christ làm Cứu Chúa mình, thì liền được kể là thánh đồ, được đứng trong địa vị thánh khiết của Christ Jesus vậy. Phương diện nầy quan hệ mật thiết với sự đươc xưng nghĩa. Các câu Kinh Thánh viện dẫn dưới đây dạy về phương diện nầy: Hê 10:10,14; Hê 13:12; ICô 1:2,30

Rõ lắm trong ICô 1:2,30 Phao-lô luận về phương diện địa vị của sự nên thánh, chớ không nói về phương diện thực nghiệm đâu, vì thơ Côrinhtô đủ tỏ ra hội ấy có lắm tín đồ chẳng những không được nên thánh chút nào, mà trái lại còn bị lắm điều tội lỗi, nhiều việc bất khiết chồng chất tư bề. Dầu vậy, họ sở dĩ được gọi là thánh đồ, vì đều được đứng trong địa vị thánh của Jesus Christ vậy. Khi tội nhơn được xưng nghĩa thì được đứng trong địa vị thánh ấy, và bởi đã lấy đức tin mà liên hiệp với Christ nên đã được Đức Chúa Trời kể các phẩm đức của Christ là thuộc về người vậy.

2.    PHƯƠNG DIỆN THỰC NGHIỆM

Sự nên thánh theo phương diện địa vị thì vẫn là thuộc về lý thuyết, chớ chưa tiếp xúc với bề trong mà được tỏ ra trong sự từng trải của tín đồ. Dầu vậy, tín đồ trước hết cần phải hiểu thấu phương diện ấy, rồi mới có thể từng trải về phương diện thứ hai mà lấy đức tin thừa nhận sự nên thánh ở trong cfh là của mình, nhờ cậy Ngài dùng công năng của Thánh Linh mà ứng dụng cho mình linh nghiệm về sự chết, sự sống lại của Christ, hầu cho nhờ đó mà tâm tánh, hành vi, và cử chỉ của mình đều nên thánh cách thực nghiệm, thích hiệp với địa vị thánh ở trong Jesus Christ vậy. Nói cách khác, tín đồ cần phải nhờ Thánh Linh truyền đạt địa vị thánh ấy vào lòng, hầu cho các phẩm đức của Christ trở nên đặc tánh của linh mạng mình vậy. Những câu viện dẫn sau đây dạy về phương diện nầy: Rô 6:22; ITê 5:23; Hê 12:14

Vả, hai phương diện đó tuy có chỗ đặc biệt dường ấy, nhưng lại phối hiệp nhau cách mật thiết để làm nên sự nên thánh trọn vẹn cho ta. Nó chẳng khác hai phần nữa của một nguyên phần toàn vẹn; nếu bỏ phần nầy thì phần kia cũng bất toàn. Phần nầy là Christ với cả công đức và đợi giá của Ngài; phần kia là Thánh Linh nhơn đức tin ta mà ứng dụng Christ với cả công đức, đợi giá của Ngài cho lòng ta, khiến trở nên sự thực tế ở nơi linh tánh ta vậy. Nói cách khác, phần nầy là tôi ở trong Christ, hưởng được hết phẩm giá công đức của Ngài; phần kia là Christ ở trong tôi, thi hành các phẩm giá công đức ấy ở trong tâm tánh tôi, làm cho tôi trở nên thánh khiết như chính Ngài là thánh khiết vậy. Kỳ thực, Kinh Thánh nghiêm huấn rằng sự từng trải của tín đồ cần buộc phải thích hiệp với địa vị thánh ở trong Christ, mới mong hưởng được phận làm con trọn vẹn. Câu trưng dẫn dưới đây chứng nhận cho lẽ ấy: IICô 6:17-7:1. Cũng xem Rô 6:1-11

V. NGUỒN GỐC CỦA SỰ NÊN THÁNH

Nói đại khái, sự nên thánh do ở trong công việc của Ba Ngôi Đức Chúa Trời mà ra. Như ta đã thấy ở trên, sự nên thánh hoặc trong đời Cựu ước hay là trong đời Tân ước, đều do sự tiếp xúc với Đức Chúa Trời mà được nên. Nếu cái chỗ tiếp xúc với Đức Chúa Trời bị gián đoạn, thì sự thánh khiết cũng bị mất. Cho nên hễ ai hoặc muốn nên thánh, hoặc muốn giữ vẹn sự nên thánh luôn, thì duy có một phương cách là cứ tiếp xúc với Đức Chúa Trời mãi mới mong đạt đến nguyện vọng được. Nhưng nói đặc biệt, thì mỗi Ngôi trong Ba Ngôi Đức Chúa Trời đều có dự phần riêng trong công phu nên thánh như sau đây.

1.    CHA LÀ NGUỒN GỐC CỦA SỰ NÊN THÁNH

Kinh Thánh dạy rằng sự nên thánh của tín đồ do ý chỉ của Đức Chúa Trời và bởi công việc Ngài mà được nên.

a)    Ý chỉ của Đức Chúa Trời là nền tảng của sự nên thánh: ITê 4:3; Hê 10:10

b)    Sự nên thánh là công việc của Cha: Gi 17:17; ITê 5:23

2.    CON LÀ NGUỒN GỐC CỦA SỰ NÊN THÁNH

Công phu của sự nên thánh cũng là do công cuộc của Christ mà ra. Ngài dùng huyết Ngài mà mua chuộc sự nên thánh trọn vẹn cho ta. Đức Chúa Trời cũng thiết lập Ngài làm sự nên thánh cho ta nữa (ICô 1:30).

a)    Ngài dùng công việc của thập tự giá, huyết và danh thánh Ngài mà khiến cho ta nên thánh:

Hê 10:14. Cũng xem 10:10 viện dẫn ở trên. Hê 13:12; ICô 6:11

b)    Ngài cứ nhờ mạng sống Ngài và sự liên hiệp với ta mà làm cho công phu nên thánh thành công trọn vẹn ở nơi ta: Hê 2:11

Đó là luận về sự nên thánh được nên do sự liên hiệp với gia tộc của Đức Chúa Trời mà Đức Chúa Trời làm Cha và Christ làm Anh Cả. Êph 5:25,26.

Đó luận về sự nên thánh được nên do sự liên hiệp bởi ái tính giống như ái tình của vợ chồng, mà Christ là Chồng và dân Ngài là vợ vậy.

3.    THÁNH LINH LÀ NGUỒN GỐC CỦA SỰ NÊN THÁNH.

Nói đặc biệt, thì Đức Chúa Trời nhờ Thánh Linh làm công việc nên thánh ở trong lòng tín đồ. Thánh Linh ấn chứng, bảo tồn, và gây dựng công việc của ân điển trong lòng họ, khiến sanh ra các bông trái công nghĩa. Cũng là Thánh Linh của sự sống trong Christ Jesus phóng thích ta khỏi luật của tội lỗi và sự chết. Ngài được gọi là thánh, chẳng những vì chính Ngài là thánh tuyệt đối, nhưng cũng vì Ngài gây dựng đức tánh ấy ở trong lòng ta nữa. Đức Chúa Trời đã thiết lập Ngài làm chức nhiệm ấy. Ngài hằng chống cự với sự tham dục của xác thịt ở trong ta, giúp đỡ ta có thể sanh bông kết trái công nghĩa và thánh khiết. Việc ấy được tỏ rõ ràng trong thơ Rô-ma đoạn 7 và đoạn 8. Trong đoạn 7 có sự chiến đấu không dứt, chỉ kết quả sự thất bại mà thôi. Đến đoạn 8 mới có quyền năng của Thánh Linh vận động trong tín đồ, kết quả sự đắc thắng luôn luôn. Trong đoạn 7 chẳng một lần nào nói đến Thánh Linh; trong đoạn 8 lại nói đến Ngài 16 lần. Quả thật, hễ ai có Thánh Linh của Đức Chúa Trời thường cư trú trong tâm linh, thì tình dục, ác tưởng và sự ưa thích của xác thịt, ắt phải biến đi, đến đỗi cả bề ngoài lẫn bề trong đều trở nên thánh khiết vậy. Các câu Kinh Thánh viện dẫn sau đây dạy rằng Thánh Linh là nguồn gốc của sự nên thánh thực nghiệm ở trong tín đồ: IPhi 1:2; IITê 2:13; Rô 8:2; Ga 5:17-22; Êph 5:18; IITi 1:14

VI. CÁCH THỨC ÐƯỢC NÊN THÁNH

Vả, muốn được nên thánh, thì phải làm thế nào? Phải nhờ cách thức nào mà trở nên thánh khiết bề trong? Sau đây xin theo bốn điều mà đáp lời cho vấn đề ấy.

1.    BỞI ĐỨC TIN

a)    Đức tin là cận nhơn của sự nên thánh: Cái cận nhơn của sự nên thánh là đức tin. Tín đồ được xưng nghĩa bởi đức tin thể nào, thì cũng được nên thánh bởi đức tin thể ấy. Như tội nhơn không hề được xưng nghĩa bởi việc làm của mình thể nào, thì tín đồ cũng không hề nhờ sự gắng công ra sức mà được nên thánh thể ấy. Kinh Thánh dạy về lẽ ấy rằng: Công 15:8,9; Công 26:18; Rô 1:17

Sự công nghĩa trong câu ấy gồm lại cả sự xưng nghĩa lẫn sự nên thánh; vì đại đề của thơ Rô-ma là sự toàn cứu bởi đức tin, gồm cả hai sự xưng nghĩa và sự nên thánh vậy.

b)    Đối tượng của đức tin: Đối tượng của đức tin hay khiến cho nên thánh là Chúa Jesus Christ. Trong Rô 7:25 Phao-lô dạy rằng sự nên thánh là “nhờ Jesus Christ, Chúa chúng ta”. Trong ICô 1:30 ông lại dạy rằng Christ “là Đấng mà Đức Chúa Trời đã làm nên… sự nên thánh… cho chúng ta.”

Quả như lời, Christ thật là Đấng Đức Chúa Trời làm nên mọi sự cho chúng ta, là nguồn gốc của mọi sự cần dùng cho sự toàn cứu ta. Nhưng mà đó là nói theo phương diện địa vị; nếu chúng ta muốn hưởng được các sự ấy theo phương diện thực nghiệm, thì cần phải lấy đức tin mà ứng dụng Ngài cho mọi chỗ cần dùng của mình, mới được như nguyện vậy. Đức Chúa Trời đã làm cho Christ vì ta mà trở nên như thể nào, thì ta cũng phải lấy đức tin mà thừa nhận và ứng dụng Ngài cho sự cần dùng của mình thể ấy. Ta vốn cần sự thánh khiết; thì ta nên giơ tay đức tin ra mà nhận sự thánh khiết của Jesus đem ứng dụng vào chỗ bất khiết của mình. Ta vốn thiếu đức tin, nhẫn nại, yêu thương, ân điển, v.v.; nên ta phải nhờ đức tin mà nhận lấy các công đức ấy ở nơi Ngài, để ứng dụng cho chỗ thiếu thốn của mình vậy.

Nói một lời, bởi đức tin ta nhận lãnh cả linh mạng của Christ nhờ Ngài lấy linh mạng ấy mà sống ở trong ta, vận động, cư xử, và thi thố theo ý muốn của Ngài, để gây nên đời sống của Ngài ở trong ta. Ở nơi thập tự giá, Ngài đã lấy huyết mình mà mua chuộc sự nên thánh cho ta; Ngài đã nhờ sự xưng nghĩa mà đời ta khỏi địa vị mắc tội và đem ta đứng vào địa vị công nghĩa ở trong Ngài. Ngài từng làm các việc huyền diệu ấy cốt để ta lấy đức tin mà nhận lãnh vào lòng cả phẩm đức của Ngài, hầu cho Ngài không những làm Cứu Chúa ta, mà lại làm Đấng khiến cho ta nên thánh nữa; không những là dời ta qua địa vị công nghĩa, mà lại còn đem địa vị ấy vào lòng ta nữa. Nếu có Chúa thánh khiết ngự vào tâm linh người nào, thì tánh nết của người ấy hẳn phải thánh sạch, hành vi ắt phải thích hiệp trọn vẹn với đức công nghĩa của Ngài. Vì một đời sống nên thánh, ấy là đời sống của Christ ngự ở trong mình. Cũng chỉ nhờ một đời sống như thế mà “chúng ta thảy đều đạt đến sự hiệp một của đức tin và của sự thông biết Con Đức Chúa Trời, mà nên bậc thành nhơn, được tầm thước vóc giạc của sự đầy đủ của Christ” (Êph 4:13) đó thôi.

2.    BỞI LỜI KINH THÁNH

Thánh Linh dùng lời Kinh Thánh mà ứng dụng cho tín đồ. Còn tín đồ thì công nhận và vâng theo lời ấy; sự kết cuộc ấy là sự nên thánh. Những câu viện dẫn dưới đây chứng cho lẽ ấy: Gi 17:17; Êph 5:25,26; Gi 15:3

Tuy sự nên thánh là thần công, thì cá nhơn tín đồ cũng có phần trong việc ấy nữa; ấy là họ phải ứng dụng lời Kinh Thánh cho mình, vâng theo đạo Chúa trong mọi sự có tương quan đến tín ngưỡng và hành vi của mình. Kinh Thánh dạy rằng:; Thi 119:9; Gia 1:21

Dường ấy, tín đồ nhờ Kinh Thánh mà được nên thánh thể nào? Đáp: có hai cách:

a)    Lời Kinh Thánh chỉ tỏ sự thiếu thốn của lòng: Theo lời của Gia-cơ, Kinh Thánh giống như một tấm gương, bày tỏ ra cho ta biết sự dơ bẩn, sự yếu đuối, sự thiếu thốn của lòng ta. Gia 1:23-25

Hễ tín đồ đã được soi sáng bởi Thánh Linh, rồi soi vào Kinh Thánh thì ắt thấy rõ hình dung và địa vị thật của lòng mình là thể nào. Ấy lẽ thật của Chúa chỉ tỏ ra mọi tội lỗi lớn hay nhỏ, biết hay không biết, khiến cho mình phải chạy đến Chúa để cầu sự rửa sạch.

b)    Lời Kinh Thánh rửa sạch lòng: Kinh Thánh lại cũng giống như nước nữa. Theo Êph 5:25,26, “Christ… dùng nước là đạo, màrửa tinh sạch Hội Thánh”. Trong Gi 15:3 Chúa phán cùng môn đồ rằng: “Các ngươi đã được sạch rồi, vì đạo mà ta đã phán dạy cho”. Cũng xem Xuất 30:17-21, và Tít 3:5. Ta có thể nói rằng Thánh Linh đem lẽ thật của đạo Đức Chúa Trời mà ứng dụng cho tín đồ: lẽ thật nầy ví như đuốc soi sáng lòng, tỏ ra mọi sự dơ bẩn ở trong đó; còn lẽ thật kia thì lại ví như nước rửa sạch sự dơ bẩn ấy. Nói cách khác, lẽ thật nầy chỉ tỏ ra mọi điều gì gọi là tội lỗi: lẽ thật kia chỉ dẫn đến huyết của Christ, là phương pháp duy nhứt để tẩy sạch tội lỗi đó. Thánh Giăng có chép: Gi 1:7

Ấy là hễ tín đồ bước đi theo sự sáng của lẽ thật trong Kinh Thánh thì huyết của Christ mới có quyền tẩy lòng tinh sạch luôn. Công phu nên thánh được thành bao giờ cũng bất ngoại hồ lời Kinh Thánh. Hễ ai khinh thường lời ấy, chẳng chịu kê cứu, chẳng đếm xỉa đến, ắt cũng không bao giờ được nên thánh.

3.    BỞI SỰ LIÊN HIỆP VỚI CHRIST

Đương khi người trong thơ Rô-ma đoạn 7 hết sức chiến đấu với tánh cũ và các công việc của nó mà không sao thắng được, thì may thay được thấy sự đắc thắng vẫn chỉ ở trong Christ Jesus; nên cất tiếng reo mừng cách khải hoàn rằng: “Tạ ơn Đức Chúa Trời, nhờ Jesus Christ, Chúa chúng ta!” Câu ấy chỉ tỏ nền tảng của sự nên thánh, tức là sự liên hiệp với Christ trong sự chết, sự sống lại, và đời sống của Ngài.

a)    Liên hiệp trong sự chết Ngài: Christ thế vị ta mà chịu chết, ấy là lẽ thật tín đồ thường hiểu rõ. Cũng nhờ sự hiểu thấu lẽ đạo ấy mà họ được tha tội, được xưng nghĩa. Song sự chết ấy còn có phương diện khác mà tín đồ cũng rất được cần hiểu thấu, mới mong được nên thánh; ấy là ta liên hiệp với Christ trong sự chết của Ngài.

Khi Christ chịu chết trên thập tự giá, thì ta cũng đồng chịu chết với Ngài. Khi Ngài bị hình án của tội lỗi, thì ta ở trong Ngài đồng chịu hình án ấy. Khi Ngài làm phu phỉ mọi điều luật pháp đòi hỏi ta, thì ta cũng ở trong Ngài mà làm phu phỉ những điều ấy nữa. Đối với luật pháp và đối với tội lỗi, thì ta như người chịu tử hình, Đức Chúa Trời cũng kể ta bằng kẻ đã chịu xử tử ở trong Christ rồi. Ấy là ý của Phao-lô trong Ga 2:20: “Tôi đã bị đóng đinh với Christ trên thập tự giá.” Tại nơi ấy ta liên hiệp với Christ mà chịu chết đối với người cũ, là địa vị tội lỗi trước kia mình đã đứng vào; và nhờ đó cũng tiêu diệt sự chủ trị của nó ở nơi mình nữa. Ta cũng đồng chịu chôn với Christ, bỏ người cũ trong mồ mả Ngài, được thoát ly địa bộ của nó, mà được sang địa bộ công nghĩa của Christ. Cũng tại cớ ấy mà Phao-lô kêu lên rằng: “Chúng ta há nên cứ ở trong tội lỗi, hầu cho ân điển càng thêm lên chăng? Trời nào nỡ vậy! Chúng ta đã chết về tội lỗi, lẽ nào còn sống trong tội lỗi nữa ư?” Dưới đây còn dẫn thêm những câu khác để chứng cho lẽ ấy. Rô 6:3-7; Rô 7:4; IICô 5:14; Côl 3:3; Côl 2:22

b)    Liên hiệp trong sự sống lại Ngài: Tín đồ có quan hệ với sự chết sự chôn của Christ thể nào, thì cũng có quan hệ với sự sống lại của Ngài thể ấy. Như Ngài thế vị ta mà chịu chết, thì Ngài cũng thế vị ta mà sống lại (Rô 4:25; ICô 15:14,17,20). Song đó chỉ là một mặt của sự sống lại của Ngài mà thôi. Mặt thứ hai là chúng ta liên hiệp với Ngài trong sự sống lại Ngài. Ấy là ý về phần thứ hai của Ga 2:20: “Tôi đã bị đóng đinh với Christ trên thập tự giá mà tôi sống…”

Nói cách khác, ta không những là đồng chết đồng chôn với Christ thôi đâu, nhưng ta cũng đồng sống lại với Ngài nữa. Ta vốn liên hiệp với Ngài trong lúc Ngài bị treo lên cây gỗ, khi Ngài nằm trong mồ mả; lại cũng liên hiệp với Ngài khi Ngài bẻ gãy xiềng xích của sự chết mà sống lại với Ngài. Đồng chết với Christ, ấy là phương diện chết của sự nên thánh; đồng sống lại với Ngài, ấy là phương diện sống của sự từng trải ấy. Nhờ sự đồng chết đồng chôn với Christ, chúng ta lột bỏ người cũ; còn nhờ sự đồng sống lại với Ngài, chúng ta mặc lấy người mới. Đức tin ta phải công nhận cả hai là chơn thật, ứng dụng cả hai vào từng trải của mình, mới mong được nên thánh trọn vẹn. Hễ ta ngờ người cũ còn sống, còn hành quyền chủ trị trên mình ta, ắt ta phải bị dưới nguyên án của luật pháp, không sao thoát khỏi thất bại luôn. Chỉ khi ta thấy nhờ ở trong Christ mà ta đã chết đối với người cũ, đã làm phu phỉ các điều phải nghĩa mà luật pháp đòi hỏi, đã đồng sống lại với Ngài, và đã thoát ly địa bộ tội lỗi của người cũ rồi, thì ta mới có thể đồng thinh với Phao-lô mà kêu lớn tiếng rằng: “Tạ ơn Đức Chúa Trời! Nhờ Jesus Christ, Chúa chúng ta, tôi quả đắc thắng được!” Kinh Thánh dạy về lẽ ấy rằng: Rô 6:4,5; IICô 5:14,15; Côl 2:12; Côl 3:1,3; Rô 7:4

c)     Christ liên hiệp với ta bởi sự ngự vào lòng: Phần thứ ba trong nền tảng của sự nên thánh là chính Christ bởi quyền năng của Thánh Linh ngự vào lòng ta, đem linh mạng Ngài làm động lực của đời sống mới ta, ăn ở trong ta, hành động trong ta theo ý chỉ Ngài và làm trọn đời sống của chính mình Ngài ở trong ta. Đó là ý về phần thứ ba của lời Phao-lô chép trong Ga 2:20, “Christ sống trong tôi.” Nói một lời, sự nên thánh chẳng qua là đời sống của Christ ở trong ta vậy. Có câu dạy rằng: Gi 14:20,21; Côl 1:27

Phước thay! Chính Christ, Con Đức Chúa Trời bằng lòng đem các phẩm đức đợi giá vô cùng của Ngài mà ngự vào lòng ta, cư trú tại đó luôn, dùng các phẩm đức đợi giá ấy mà vận động trong ta, đến đỗi đời sống ta không còn gọi là đời sống thuộc riêng về mình nữa, bèn đời sống của chính Ngài vậy. Thế thì, sự nên thánh chẳng do sự gắng công ra sức mà được đâu; bèn là do sự ứng dụng quyền năng của sự chết, sự sống lại của Christ mà được. Thập tự giá có quyền phân rẽ ta khỏi tội lỗi, thế gian, và đời sống tư kỷ. Khi ta lấy đức tin liên hiệp với Christ trong sự chết sự sống lại Ngài, thì liền được buông tha khỏi quyền năng của tánh cũ (xác thịt) và đời sống tư kỷ; cũng hưởng được năng lực của sự sống bởi Ngài dựng nên. Khi ấy ta mới được lột bỏ hẳn các hành vi của người cũ, được mặc lấy người mới, và được Christ trở nên sự thánh trọn vẹn cho mình vậy (Côl 2:9; ICô 1:30).

4.    BỞI NHẬN LÃNH THÁNH LINH

Sự nên thánh cũng do sự nhận lãnh Thánh Linh mà được nên nữa. Phần nầy có ba mặt, là: a) phân rẽ khỏi mọi sự ô uế, b) dâng mình cho Chúa, c) nhận lãnh Thánh Linh bởi đức tin.

a)    Phân rẽ khỏi sự ô uế: Hễ ta muốn nhận lãnh Thánh Linh cho đầy dẫy, thì trước phải phân rẽ với mọi sự ô uế, mọi tội ác, mọi sự bất khiết bề trong bề ngoài; mà dâng chi thể mình cho Đức Chúa Trời làm khí cụ cho sự công nghĩa vậy. Vì Linh của Đức Chúa Trời là Thánh, không hề chịu ngự vào lòng nào còn dơ bẩn, còn đeo đuổi sự bất nghĩa. Cũng phải phân rẽ với mọi người mọi việc không xứng đáng với đạo Christ, mới mong Đức Chúa Trời nhận mình làm con trưởng thành, ban cho mình Thánh Linh và sự nên thánh do Christ dự bị cho vậy. Về lẽ ấy Kinh Thánh dạy rằng: IICô 6:17,18; IICô 7:1; Rô 6:19

b)    Dâng mình cho Chúa: Tín đồ cũng phải dâng mình cho Chúa nữa. Ấy nghĩa là phải phó dâng cả người mình cho Đức Chúa Trời, trao hết mọi sự cai trị đời sống mình cho Ngài, kể mình là thuộc về Ngài cho đến đời đời. Sự phó dâng mình cho Đức Chúa Trời, về mặt nầy thì là phó mình cho sự chết: chết đối với tội, thế gian, và đời tư kỷ. Chúa Jesus dạy môn đồ rằng: “Nếu ai muốn theo ta, thì phải từ chối mình, vác thập tự giá mình mà theo ta.” (Ma 16:24). Sự từ chối mình ấy không những là bỏ điều nầy chối điều kia, bèn là từ chối chính người của mình nữa. Người tư kỷ đã soán vị của Christ ở trong lòng, không khứng nhường ngôi cho Ngài. Nên tư kỷ phải chết, hầu cho Christ được hoàn toàn lên ngôi ấy làm Vua độc nhứt vô nhị.

Sự chết đó thật khó, dầu vậy nếu muốn dự đến quyền năng của sự sống lại của Christ, hẳn phải kinh nghiệm sự chết tư kỷ như Ngài, mới mong hưởng được sự thánh khiết do sự chết của Ngài mà ra. Duy nhờ sự chết ấy ta có thể thoát ly quyền năng của tội lỗi và xác thịt chủ trị ở nơi mình ta. Ta cũng cần phải “vâng phục đến chết, thậm chí chết trên thập tự giá” như Chúa vậy (Phil 2:8). Chỉ nhờ sự phó dâng mình cho Chúa như thế mà Thánh Linh có thể lấy linh nghiệm của sự chết, sự sống lại của Chúa mà ứng dụng cho ta, khiến cho ta từng trải mình thật chết đối với tội lỗi, xác thịt và thế gian, lại thật sống đối với Đức Chúa Trời ở trong Chúa Jesus Christ (Rô 6:7-11). Sự dâng mình cho Chúa có ba điều quan hệ:

(1)Tình nguyện: Tín đồ phải tình nguyện dâng mình cho Chúa. Bằng không, thì sự dâng mình đó chẳng qua là hữu danh vô thực, và không có giá trị gì cả. Tuy rằng Đức Chúa Trời dùng nhiều điều nhiều cách để khuyên dụ, giục giã ta dâng mình cho Ngài, thì Ngài cũng chẳng hề ép buộc ai cả. Ngài muốn ta lấy tài ngộ, cảm tình và ý dục ta mà tình nguyện đem cả mình dâng dưới chơn Ngài, như Áp-ra-ham dâng Y-sác xưa kia (Sáng 22:16,17), như Phao-lô tự biệt mình cho Chúa dùng (Phil 3:7-11), như chính Chúa cũng đã làm gương sáng láng cho ta nữa (Thi 40:6,7; Hê 10:5,9; Phil 2:5-8). Nên Chúa cũng dùng lời Phao-lô mà khuyên bảo ta rằng: Rô 12:1-2

(2)Hoàn toàn: Cũng phải phó dâng mình cho Chúa cách hoàn toàn. Mặc dầu ta dâng cho Ngài đến hơn chín mươi chín phần trăm mà chỉ giữ lại một tí ti, thì cũng chưa đáng gọi là dâng cả cho Ngài đâu. Đức Chúa Trời không thể nhậm người phân tâm bao giờ. Thánh Linh cũng chẳng ngự vào lòng vừa thuộc về Chúa, vừa thuộc về tư kỷ. Ta đem tất cả nào thân, hồn, linh, sức mạnh, thì giờ, tài trí, tánh tình, danh giá, của cải, mà dâng trọn dưới chơn Ngài để làm lễ vật sống và thánh cho Ngài. Lắm người cầu sự nên thánh, nhưng chưa được gì cả, vì chưa hoàn toàn dâng mình cho Chúa. (Mal 3:10).

(3)Một lần đủ cả: Dầu ai phó dâng mình cho Chúa chỉ tạm thời vẫn chưa hẳn thật đã dâng mình cho Ngài cách chánh thức. Hễ ai thật phó dâng mình cho Chúa, thì không thể lấy lại được, vì là việc mình chỉ có thể làm một lần đủ cả (IITi 1:12). Ấy vậy, tín đồ không thể dâng mình cho Chúa nhiều lần, vì đã làm điều ấy một lần đủ cả; mỗi ngày chỉ cần nhắc lại rằng mình thuộc về Chúa, mình nhờ Ngài gìn giữ mình cho đến đời đời (Nhã 2:16; Ês 43:3). Thánh Linh chỉ chịu ngự vào lòng của kẻ đã dâng mình cho Đức Chúa Trời cách ấy mà thôi.

c)     Nhận lãnh Thánh Linh bởi đức tin: Tín đồ không những phải phó dâng mình cho Đức Chúa Trời, mà lại phải lấy đức tin nhận lãnh Thánh Linh nữa. Hai việc ấy cặp theo nhau luôn. Sự phân rẽ khỏi sự ô uế và sự dâng mình cho Chúa, đều là mặt trái của việc nhận lãnh Thánh Linh; còn đức tin thuộc về mặt phải. Sự trừ tội, sự phân rẽ với điều bất khiết, sự dâng mình cho Chúa, đều chỉ mới là việc làm cho mình trống không đó thôi. Việc ấy xong, còn cần phải làm cho đầy dẫy nữa. Ấy là việc lấy đức tin nhận lãnh Thánh Linh ngự vào lòng. Còn Thánh Linh, vì Ngài là Linh tánh của Christ, đem cả sự nên thánh do Christ mà ra, đặt vào lòng ta, khiến cho cả mình ta được trở nên thánh khiết thực nghiệm vậy. Trước kia Ngài đã dời ta từ địa vị tội lỗi qua địa vị thánh khiết của Christ. Nay Ngài đem địa vị thánh ấy mà đặt vào lòng ta, khiến cho ta cũng được từng trải chân tánh của địa vị ấy. Rồi từ đó về sau Thánh Linh hằng ngự ở lòng ta, cứ ứng dụng hiệu lực của sự chết sự sống lại của Christ vào từng trải ta, khiến ta mỗi giờ mỗi phút được kinh nghiệm sự chết đối với tội lỗi mà sống đối với Đức Chúa Trời, đến đỗi ban cho mình hằng ngày được sống trong quyền năng của sự sống chẳng hay hư hay hết của Christ phục sanh vậy.

Sau đây xin viện dẫn mấy câu Kinh Thánh theo cách song đối sánh luận về sự nhận lãnh Thánh Linh đầy dẫy, và về Christ phục sanh ngự trong lòng ta. Sở dĩ trưng dẫn theo cách song đối sánh luận nhau như thế là vì nó vốn tương quan mật thiết với nhau, bởi chưng nhờ báp têm của Thánh Linh mà ta được từng trải Christ ngự trong lòng ta vậy. ICô 3:16,17; Rô 8:9,10; ICô 12:13; IICô 13:5; Ga 3:2; Ga 4:19; Êph 3:14-19; Côl 1:27

5.    BỞI SỰ QUYẾT KỂ

Khi tín đồ đã nhận lãnh Thánh Linh rồi, thì thường có sự vui mừng hớn hở khôn xiết. Nhưng có lẽ ít lâu về sau, sự cảm xúc ấy lại biến mất đi, sự buồn bã lại hãm áp, ma quỉ cám dỗ mà nói rằng: “Sự từng trải ngươi vừa có đó chỉ giả mạo mà thôi, chớ thực ra ngươi đâu có nhận lãnh Thánh Linh gì. Trước sau từng trải ngươi cũng vậy, chẳng có sự thay đổi chi đâu!” Lâm vào hoàn cảnh ấy, ta phải làm sao? Chỉ có một phương pháp toàn thắng sự cám dỗ đó mà đứng vững và tấn bộ trong sự nên thánh luôn, ấy là chuyên tâm theo luật quyết kể, như được chép trong Rô 6:11: “Dường ấy anh em cũng hãy kể mình là đối với tội lỗi, mà sống đối với Đức Chúa Trời trong Christ Jesus”. Mà phải quyết kể cái gì? Đáp: Phải quyết kể về ba điều như sau đây:

a)    Chết đối với tội: Nói theo mặt địa vị, thì tín đồ ở trong Christ đã chết đối với tội. Tín đồ phải kể điều ấy là thực tế, mới hưởng được linh nghiệm của thực sự ấy. Khoa học dạy rằng sự sống là sự tiếp xúc của bề trong với một phạm vi bề ngoài. Thế thì, hễ ai chết thì sự tiếp xúc ấy đã dứt rồi. Cũng vậy, hễ tín đồ chết đối với tội, thì đã dứt chỗ tiếp xúc với nó rồi. Giả như kẻ mù kia thật đã chết đối với sự sáng và các màu sắc. Kẻ điếc thì đã chết đối với mọi thứ âm thinh. Kẻ mà đã chết đối với tội cũng thể ấy. Tín đồ vốn tiếp xúc với tội, chịu theo sự tham dục của nó; nhưng nhờ sự đồng chết với Christ thì sự tiếp xúc ấy đã dứt rồi. Tín đồ phải kể sự ấy là thực như vậy luôn, mới mong toàn thắng tội, được đứng vững trong sự nên thánh mãi mãi vậy.

b)    Sống đối với Đức Chúa Trời: Kể mình là chết đối với tội, mới chỉ là phản diện của việc quyết kể đó thôi. Tín đồ cũng nên kể mình là sống đối với Đức Chúa Trời nữa, kể mình được tiếp xúc với Ngài, đặng ăn ở theo một đời sống mới mẻ của Christ ban cho. Thật vậy, khi Thánh Linh ngự đầy dẫy lòng ta thì cũng đem sự sống mới tức là linh mạng của Christ vào, mở con mắt thuộc linh ta khiến thấy ánh sáng rực rỡ của lẽ thật Ngài; mở lỗ tai thuộc linh ta để nghe tiếng êm dịu của Ngài; cho miệng thuộc linh ta thèm ăn mana và bánh thiên thượng của Ngài. Nói một lời, nhờ công năng của Thánh Linh mà cả lương năng thuộc thể và thuộc linh ta đều được sự sống mới để hầu việc Đức Chúa Trời trọn vẹn vậy.

c)     Sống trong Christ Jesus: Tín đồ nếu chỉ nhờ cậy sức mình thì không thể nào dứt mối tiếp xúc với tội mà sống cho Đức Chúa Trời được. Duy Christ bởi Thánh Linh có đủ quyền dứt mối tiếp xúc với đời cũ và tội lỗi đi, mà khiến cho ta được tiếp xúc với Đức Chúa Trời. Thế thì, nếu tín đồ muốn cho sự kể của mình có hiệu lực luôn thì cần phải hằng cư trú trong Christ và bước theo sự dẫn dắt của Thánh Linh. Ta nhờ đức tin liên hiệp với Christ trong sự chết và sự sống lại thể nào, thì cũng phải hằng kể điều đó là thực sự luôn thể ấy, mới giữ vẹn sự liên hiệp ấy mãi mãi được. Ngoài đường ấy chẳng có đường nào khác để mong đạt đến sự toàn thắng được. Hễ ai hằng giờ hằng phút kể mình là chết đối với tội, sống đối với Đức Chúa Trời trong Christ Jesus, ắt sẽ càng ngày càng tấn bộ trên đường nên thánh mà lần lần trở nên giống như hình trạng của Con Đức Chúa Trời vậy (Rô 8:29).

VII. THÌ GIỜ ÐƯỢC NÊN THÁNH

Vả, tín đồ được nên thánh khi nào? Có phải là được nên thánh lúc mới tái sanh, hay là nối liền theo sau đó hay lâu ngày sau cái biến động hạnh phước ấy chăng? Xin đáp: Luận theo mặt địa vị thì mỗi tín đồ đã được tái sanh và xưng nghĩa rồi, đều được gọi là thánh cả (ICô 1:2; 6:11). Vì họ được nhờ sự dâng thân thể của Christ một lần đủ cả mà được nên thánh (Hê 10:10,14). Cho nên lúc nào tội nhơn trở lại cùng Đức Chúa Trời, tin cậy công lao của Christ thì được Đức Chúa Trời kể là thánh ở trong Chúa Jesus Christ vậy. Nhưng luận theo mặt kinh nghiệm, thì sự nên thánh được nên theo ba thời gian.

1.    ĐƯỢC NÊN TRONG GIÂY PHÚT

Nói theo cách nầy, thì sự nên thánh cũng như sự xưng nghĩa, được nên nội trong giây phút, lúc tín đồ đã từng trải cả cơn chiến đấu rất chênh lệch như đã tỏ ra trong Rô-ma đoạn 7, đã thất bại và tuyệt vọng bởi vì thấy tự mình chẳng có năng lực hoặc phương pháp gì mà thắng tội và tâm tư của mình được; rồi lại nhờ ơn Đức Chúa Trời tỏ cho mình biết rằng nhờ Chúa Jesus Christ bởi công năng của Thánh Linh, thì có thể thắng được, nếu trong lúc ấy tín đồ lấy đức tin công nhận phương pháp giải cứu ấy, thì được nên thánh tức thì. Trong lúc đó, tín đồ công nhận Christ với cả công đức và đợi giá của Ngài là thuộc riêng về mình, đến đỗi nào công nghĩa, nào thánh khiết, nào đức tin, nào nhẫn nại, nào mọi công đức khác của Ngài cũng vậy, thì nội trong giây phút ấy tất cả các điều đó thảy đều trở nên của mình. Cũng nhận luôn mọi việc Ngài sẽ làm trong mình từ đó trở đi chẳng khác gì những việc Ngài đã làm xong xuôi cả rồi vậy; đến đỗi như Đức Chúa Trời kể mình là đã được nên thánh trọn vẹn trong Chúa Jesus Christ thể nào, thì tín đồ bởi đức tin nội trong giây phút đó cũng kể mình là đã được nên thánh trọn vẹn thể ấy vậy.

Những đoạn sách nầy chứng cho lẽ thật ấy:

a)    Những người tin Chúa nhằm lễ Ngũ tuần; họ tin Chúa, rồi liền nhận lãnh Thánh Linh luôn, được nên thánh nội trong giờ tín nhận Ngài vậy: Công 2:37-39.

b)    Cọt-nây và người nhà ông đương lúc nghe Phi-e-rơ giảng, thì được nhận lãnh Thánh Linh: Công 10:44-48.

c)     Tín đồ Sa-ma-ri nhờ Phi-e-rơ và Giăng cầu nguyện cho rồi, thì liền nhận lãnh Thánh Linh: Công 8:12-17.

d)    Tín đồ Ê-phê-sô nhờ Phao-lô đặt tay cho, thì cũng nhận lãnh Thánh Linh ngay: Công 19:1-6. Sự nên thánh được nên nội trong giây phút cũng gọi là “chịu báp têm trong Thánh Linh” vậy (Công 1:5; 11:15-17; Ma 3:11).

2.    ĐƯỢC NÊN TRẢI SUỐT ĐỜI SỐNG MÌNH

Vả, theo một cách khác thì sự nên thánh được nên trải suốt đời sống của tín đồ. Sự nên thánh là việc lần lần lớn lên, lần lần đạt đến bậc thành nhơn vóc giạc trọn vẹn của Christ. Khi tín đồ đãlấy đức tin công nhận Christ làm sự nên thánh cho mình, đã liên hiệp với Ngài trong sự chết, sự sống lại Ngài, và đã nhận lãnh Thánh Linh ngự vào lòng rồi, thì từ đó trở đi cũng phải nương cậy Thánh Linh mỗi ngày đem hiệu lực của sự chết sự sống lại ấy mà ứng dụng cho mình, hầu cho mỗi ngày mỗi giờ mình cũng được từng trải mình thật chết đối với tội và thật sống đối với Đức Chúa Trời vậy. Ta đã thấy Đức Chúa Trời ban Christ làm mọi sự cần dùng cho sự toàn cứu ta; nhưng ta không những là phải công nhận Ngài một lần mà thôi, lại hằng ngày cần phải lấy đức tin mà nhận lãnh ở nơi Ngài nào là sự thánh khiết, nào đức tin, nào sự nhẫn nại, nào tình yêu thương, nào ân điển, nào sự tinh sạch, để ứng dụng cho sự cần yếu của mình trong ngày giờ ấy.

Tín đồ đã bước vào đường nên thánh rồi, cũng nên hằng ngày bền đỗ trong sự phó dâng mình cho Chúa, kể mình duy thuộc về Ngài mà thôi, chẳng còn thuộc về mình nữa; cần phải cứ tự biệt khỏi mọi sự bất khiết, mọi người mọi việc không đẹp lòng Đức Chúa Trời. Cũng cần chuyên tâm lợi dụng các trợ lực Chúa đã sắm sẵn cho, để giúp đỡ đời thuộc linh được lớn lên, như là tra xem Kinh Thánh, cầu nguyện, nhóm lại thờ phượng Chúa với Hội Thánh, làm chứng đạo, dùng của cải giúp đỡ công việc Chúa. Hễ ai làm như thế chừng nào thì Thánh Linh cũng có thể dùng cả ân điển của Đức Chúa Trời vận động trong ta, khiến mình được nên thánh trọn vẹn chừng nấy, đến đỗi tâm linh, tâm hồn, và thân thể mình đều được trọn vẹn, không chỗ trách được cho đến khi Jesus Christ, Chúa chúng ta hiện đến vậy (ITê 5:23). Những câu Kinh Thánh dẫn dưới đây chứng cho lẽ đạo nầy: IIPhi 3:18; Êph 4:15; ITê 3:12; Phil 1:6; Côl 3:9,10; IICô 3:18; IICô 7:1; Êph 4:11-15. Cũng xem IICô 10:5; Phil 2:12,13; IPhi 2:2; Êph 5:1

3.    ĐƯỢC HOÀN THÀNH KHI CHRIST TÁI LÂM

Trải qua cả đời sống tín đồ cứ lớn lên, cứ tấn bộ trong đời thuộc linh. Đến khi Christ tái lâm thì việc nên thánh mới đạt đến bậc hoàn thành. Khi ấy cá nhơn tín đồ sẽ được trình diện cho Đức Chúa Trời được đầy đủ các công đức, chẳng thiếu một ơn nào cả. Theo ITê 5:23, khi ấy tâm linh là cơ quan đối với trời, sẽ được trọn vẹn; và tâm hồn là mối tương quan giữa hai cơ quan ấy cũng sẽ được như vậy nữa. Nói một lời; mọi nguyên tố của bản ngã tín đồ sẽ nhờ công năng của Ba Ngôi Đức Chúa Trời mà được nên thánh hoàn toàn trong ngày Chúa Jesus Christ trở lại vậy. Kinh Thánh dạy rằng: ITê 3:13; Phil 3:12-14; Phil 3:21; IGi 3:2. Cũng xem Côl 3:4; Hê 12:14,23; Giu 24; Khải 14:5

Top